PHÂN TÍCH NGÀNH DẦU THỰC VẬT VÀ HẠT CÓ DẦU VIỆT NAM
Đăng lúc: Thứ ba - 06/10/2015 08:42
Sản lượng hạt có dầu Việt Nam tiếp tục thấp hơn nhiều so với nhu cầu của các
ngành thực phẩm, chăn nuôi và thức ăn chăn nuôi. Nguyên nhân do năng suất thấp
và sự cạnh tranh mạnh của các loại cây trồng khác, như ngô. Sự cạnh tranh này dự
báo sẽ còn khốc liệt hơn khi Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT)
cho phép đưa ngô biến đổi gien vào trồng vì mục đích thương mại. Diện tích trồng
đậu tương dự báo sẽ còn giảm hơn nữa.
(Hình minh họa)
Tổng nhập khẩu đậu tương năm 2014 ước tính ở mức 1,56 triệu tấn, tăng 21% so với năm
trước đó do nhu cầu tăng từ 2 nhà máy ép đậu tương và từ các ngành thực phẩm và chăn
nuôi. Trong năm 2013/14, Hoa Kỳ trở thành nhà cung cấp đậu tương lớn nhất cho Việt
Nam, vượt qua Brazil và chiếm 45% thị phần. Xuất khẩu đậu tương Hoa Kỳ sang Việt
Nam đạt 698.000 tấn, tăng 26% so với năm trước đó.
Cũng trong năm 2013/14, Việt Nam nhập khẩu khoảng 3,65 triệu tấn khô đậu (soybean
meal) tương, tăng 14% so với năm trước do nhu cầu protein cho chăn nuôi gia tăng.
Nhập khẩu bột đậu tương (soy flour) năm 2014 đạt lục 367.000 tấn do nhu cầu tăng từ cả
lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thực phẩm, và do thuế nhập khẩu bột đậu tương giảm
xuống 8% từ mức 12% áp dụng trong năm 2013. Triển vọng nhập khẩu bột đậu tương sẽ
còn tiếp tục tăng trong năm 2015 và trong những năm tiếp theo do nhu cầu tiếp tục tăng
bởi dân số và thu nhập tăng thúc đẩy tăng trưởng của ngành thực phẩm.
Cơ quan thường trú Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA Post) dự báo nhập khẩu khô đậu tương
năm 2015 và 2016 sẽ tăng nhẹ lên lần lượt 3,75 triệu tấn và 3,85 triệu tấn, bởi nhu cầu
của ngành thực phẩ và chăn nuôi.
Việt Nam tiếp tục phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu dầu thực vật thô và tinh luyện để
đáp ứng nhu cầu tiêu thụ, mặc dù trong nước đã sản xuất được dầu đậu tương thô từ năm
2011. Trong năm 2014, Việt Nam sản xuất khoảng 235.000 tấn dầu đậu tương thô từ các
nhà máy ép dầu thương mại, song vẫn tiếp tục nhập khẩu khoảng 812.000 tấn dầu thực
vật thô và tinh luyện để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Nhập khẩu
dầu thực vật tinh luyện năm 2014 đạt 723.000 tấn, tăng 13% so với năm trước đó, còn
nhập khẩu dầu thực vật thô tăng 17%. Nhập khẩu dầu thực vật tinh luyện chiếm 89%
tổng nhập khẩu dầu thực vật. Thuế nhập khẩu dầu thực vật từ Malaysia và Indonesia
trong giai đoạn tháng 5/2014-5/2015 là 4%, sẽ được giảm xuống 3% trong giai đoạn
tháng 5/2015- tháng 6/2015. USDA Post dự đoán nhập khẩu dầu thực vật trong năm 2015
sẽ vẫn ở mức 820.000 – 830.000 tấn.
Xuất khẩu các loại dầu thực vật/mỡ động vật của Việt Nam tăng mạnh trong năm 2014,
đạt 183.000 tấn, trong đó dầu đậu tương thô chiếm 49%, phần còn lại (51%) là dầu cọ và
các loại dầu/mỡ động/thực vật khác. Việt Nam gần như không xuất khẩu dầu đậu tương
tinh luyện. Xuất khẩu dầu đậu tương năm 2013/14 đạt 91.000 tấn, và dự báo sẽ đạt
100.000 tấn trong năm 2014/15 cũng như 2015/16.
I. HẠT CÓ DẦU (ĐẬU TƯƠNG)
1. Sản lượng
Quy mô trồng đậu tương của Việt Nam vẫn nhỏ so với những nước khác, và sản lượng
ngày càng thấp xa so với nhu cầu trong nước.
Sản lượng đậu tương Việt Nam năm marketing 2014/15 đạt 192.000 tấn trên diện tích thu
hoạch 120.000 ha – tiếp tục giảm so với năm trước.
Năm 2013/14, diện tích đậu tương của Việt Nam giảm 6,1% so với năm trước đó xuống
150.000 tấn do cả năng suất và diện tích đều giảm.
Bảng 1: Sản lượng đậu tương
2015
2016
2012
2013
2014
(ước tính) (dự báo)
Diện tích (nghìn ha)
119,6
117,2
110,2
120
125
Năng suất (tấn/ha)
1,45
1,44
1,43
1,45
1,45
Sản lương (nghìn tấn)
173,7
168,2
157,9
174
181
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ NN&PTNT, USDA Post
USDA Post dự báo sản lượng đậu tương Việt Nam năm 2015/16 sẽ đạt 181.000 tấn trên
diện tích 125.000 ha. Sức cạnh tranh của đậu tương so với ngô còn bị hạn chế bởi thu
nhập trên mỗi ha trồng đậu tương vẫn kém so với trồng ngô. Diện tích trồng đậu tương
chủ yếu tập trung vào Đồng bằng sông Hồng.
USDA Post cho biết có ít khả năng sản lượng đậu tương sẽ tăng trong những năm tới để
đạt mục tiêu của Chính phủ về Kế hoạch ngành hạt có dầu, là 350.000 ha và 700.000 tấn
vào năm 2020, do năng suất nhìn chung thấp và khó mở rộng diện tích trồng.
Ngày 14 tháng 02 năm 2015, Bộ NN&PTNT đã ban hành Thông tư số 06/2015/TTBNNPTNT sửa đổi Thông tư số 02/2014/TT-BNNPTNT quy định trình tự, thủ tục cấp và
thu hồi Giấy xác nhận thực vật biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn
chăn nuôi. Thực vật biến đổi gien, bao gồm đậu tương, phải được Hội đồng an toàn thực
phẩm, thức ăn chăn nuôi thẩm cấp giấy phép có đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm,
thức ăn chăn nuôi, không có bất kỳ ảnh hưởng bất lợi nào đối với con người và vật nuôi
mới
được
phép
sử
dụng.
Hiện ở Việt Nam chưa phát triển đậu tương biến đổi gien vì mục đích thương mại, mà
Chính phủ mới chỉ phê duyệt 4 giống ngô biến đổi gien đủ điều kiện sử dụng làm thực
phẩm, thức ăn chăn nuôi gồm Bt 11 và MIR162 của Công ty TNHH Syngenta VN; MON
89034 và NK603 của Công ty TNHH Dekalb VN (Monsanto).
Hình 1: Năng suất, diện tích và sản lượng đậu tương
Nguồn: Tổng cục Thống kê
2. Tiêu thụ
Khoảng 80% đậu tương nhập khẩu được dùng ép dầu, 20% còn lại được tiêu thụ làm thức
ăn con người và làm thức ăn trực tiếp cho vật nuôi. Sản lượng trong nước chủ yếu dùng
trong ngành chế biến (đậu phụ và sữa đậu nành) và sản xuất dầu đậu tương quy mô hộ gia
đình. Đậu tương nhập khẩu tiếp tục là nguồn nguyên liệu chính của 2 nhà máy quy mô
lớn (một ở miền Bắc và một ở miền Nam) để sản xuất dầu đậu tương và khô đậu tương.
Hiện hai nhà máy ép dầu vẫn đang hoạt động với công suất tối đa, tổng cộng 4.000 tấn
đậu tương mỗi ngày. Niên lịch 2014 (năm marketing 2013/14), lượng đậu tương ép ở hai
nhà máy này đạt khoảng 1,24 triệu tấn, chiếm khoảng 85% tổng công suất ép của cả
nước. Các sản phẩm của hai nhà máy là 889.000 tấn khô dầu, 235.000 tấn dầu đậu tương
thô, 59.000 tấn vỏ đậu tương và 4.000 tấn Lecithin dùng làm thức ăn chăn nuôi.
Cả 2 nhà máy đều dự kiến tăng công suất ép trong năm 2015 (năm marketing 2014/15)
bởi giá đậu tương đang ở mức mang lại lợi nhuận từ việc ép dầu. USDA Post dự báo ép
dầu năm 2014/15 sẽ đạt 1,3 triệu tấn, và năm tiếp theo, năm 2016 (năm marketing
2015/16) sẽ đạt 1,35 triệu tấn.
Ngành chăn nuôi tiếp tục điều khiển nhu cầu đậu tương, và sẽ tiếp tục định hướng sự phát
triển hơn nữa của ngành ép nghiền đậu tương trong nước. Năm 2014, trong 14,7 triệu tấn
sản lượng thức ăn chăn nuôi gia súc gia cầm thương phẩm thì có khoảng 3 triệu tấn
(20%) là bột đậu tương, còn trong ở 3,53 triệu tấn thức ăn nuôi thủy sản thì có khoảng
900.000 tấn (25%) là khô đậu tương. Theo các nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi, sản lượng
thức ăn gia súc gia cầm và thủy sản sẽ tiếp tục tăng trong năm 2015. Bộ NN&PTNT dự
báo nhu cầu các sản phẩm thức ăn chăn nuôi nội địa sẽ đạt 16,4 triệu tấn, tăng khoảng
12% so với năm 2014, nhu cầu thức ăn nuôi thủy sản sẽ tăng lên 3,6 triệu tấn.
Tiêu thụ các sản phẩm đậu tương thực phẩm trong nước (sữa đậu tương, đậu phụ, dầu đậu
tương và các đồ uống khác có sử dụng đậu tương) cũng tiếp tục tăng. USDA Post ước
tính sử dụng đậu tương trong thực phẩm sẽ tăng khoảng 4% mỗi năm trong năm
marketing 2014/15 và 2015/16, đạt lần lượt 365.000 tấn và 380.000 tấn.
3. Nhập khẩu
Năm 2014, Việt Nam nhập khẩu khoảng 1.560.000 tấn đậu tương, trong đó khoảng 45%
đến từ Hoa Kỳ, 35% từ Brazil và phần còn lại từ Argentina, Canada, Paraguay và các
nước khác. Hoa Kỳ trở thành nước cung cấp đậu tương nhập khẩu lớn nhất của Việt
Nam, vượt qua Brazil. Nhập khẩu đậu tương từ Hoa Kỳ đạt kỷ lục 698.000 tấn trong năm
marketing 2013/14, tăng gần 26% so với năm trước (556.000 tấn). Thị phần của Hoa Kỳ
trên thị trường đậu tương Việt Nam cũng tiếp tục tăng, đạt 45% vào năm 2014, tăng so
với 44% năm 2013 và 39% năm 2012. Trị giá nhập khẩu đậu tương đạt kỷ lục 913 triệu
USD trong năm 2014.
Trong năm marketing 2013/14 (niên lịch 2014), Hoa Kỳ trở thành nhà xuất khẩu đậu
tương lớn nhất cho Việt Nam, vượt qua Brazil.
Theo cơ cấu thuế hiện nay, đậu tương nhập khẩu từ các nước thành viên WTO có mức
thuế 0%/ Trên cơ sở hoạt động của các nhà máy ép dầu và nhu cầu của lĩnh vực thức ăn
chăn nuôi hiện nay, USDA dự báo nhập khẩu đậu tương trong năm marketing 2014/15 sẽ
đạt 1.600.000 tấn.
Trong năm marketing 2014/15, xuất khẩu đậu tương Hoa Kỳ vào Việt Nam dự báo đạt
khoảng 750.000 tấn khi ép đậu tương của Việt Nam gia tăng.
Nhập khẩu trong năm marketing 2015/16 dự báo sẽ đạt 1.630.000 tấn trong bối cảnh
nhập khẩu của các nhà máy ép dầu chậm lại vì gần đạt công suất ép tối đa. Nhập khẩu
trong tương lai tăng bao nhiêu sẽ tùy thuộc vào việc mở rộng những nhà máy ép đang có
hoặc xây dựng những nhà máy mới.
Năm marketing 2013/14, tổng nhập khẩu khô đậu tương đạt 3,64 triệu tấn, tăng 14% so
với năm trước đó do nhu cầu thức ăn chăn nuôi gia súc gia cầm và nuôi trồng thủy sản
tăng. Trên cơ sở này USDA Post dự báo nhập khẩu năm 2015 và 2016 sẽ tăng nhệ, lên
3,75 triệu tấn.
Hình 2: Nhập khẩu đậu tương Việt Nam (2010-2014)
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Global Trade Atlas, USDA Post
Bảng 2: Các nguồn cung cấp đậu tương nhập khẩu vào VN
2012
Nghìn tấn
Triệu USD
2013
Nghìn tấn
Triệu
2014
Nghìn tấn Triệu
USD
USD
Tổng NK
Hoa Kỳ
Brazil
Argentina
Canada
Paraguay
Nước khác
1.462,71
844,8
1.261,7
576,75
333,3
555,5
584,57
345,3
571,1
98,96
62,8
66,03
122,39
66,5
38,5
57
26,6
10
23,03
10,3
20,54
Source: Tổng cục Thống kê, GTA
703,63
318,62
307,96
35,42
24,51
5,1
12,11
1,564
697,8
538,8
151,6
65,3
56,5
54
Hình 3: Các nguồn cung cấp đậu tương nhập khẩu cho Việt Nam năm 2014
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Bảng 2: Nhập khẩu đậu tương năm 2014 qua từng tháng
Trị giá (triệu
Tổng nhập khẩu
Tháng 12/2014
Khối lượng
USD)
(triệu tấn)
1.564
169
913,2
89
913,2
402,61
305,28
76,86
40,97
24,99
62,49
Tháng 11/2014
117
Tháng 10/2014
110
Tháng 9/2014
65
Tháng 8/2014
120
Tháng 7/2014
86
Tháng 6/2014
160
Tháng 5/2004
127
Tháng 4/2004
169
Tháng 3/2014
241
Tháng 2/2014
41
Tháng 1/2014
159
Nguồn: Tổng cục Hải quan
61,6
62,7
39,2
64,6
66,9
97,1
75,8
98,8
140,6
24,7
92,2
4. Giá cả
Giá nhập khẩu đậu tương trung bình năm 2014 là 592 USD/tấn, giảm khoảng 9% so với
năm trước đó (649 USD/tấn). Các thương gia dự báo giá nhập khẩu đậu tương sẽ tiếp tục
giảm trong năm 2015 do nguồn cung cao trên thị trường thế giới và giá dầu/khí gas giảm
làm giảm chi phí vận chuyển. Giá nhập khẩu đậu tương béo loại 2 CNF TP HCM và cảng
Hải Phòng tháng 4/2015 lần lượt là 476 USD/tấn và 479 USD/tấn, và giá CNF cảng Cái
Lân tháng 4/2015 là 430 USD/tấn, cho thấy giá đầu năm 2015 giảm khá nhiều so với đầu
năm 2014.
Hình 4: Giá nhập khẩu đậu tương trung bình (2012-2014)
Nguồn: Tổng cục Thống kê, các thương gia/nhà nhập khẩu
II. DẦU THỰC VẬT
1. Sản lượng
1.1. Dầu thực vật tinh luyện
Năm 2014 Việt Nam sản xuất kỷ lục 378.400 tấn dầu thực vật tinh luyện các loại, tăng
0,6% so với năm trước đó (733.400 tấn). Sản lượng dầu tinh luyện dự báo sẽ tăng 10%
lên 812.000 tấn năm 2015 và 893.000 tấn năm 2016 bởi các nhà máy luyện dầu tiếp tục
hưởng lợi từ xu hướng tăng sản xuất dầu đậu tương thô trong nước, và các nhà sản xuất
dầu trong nước được giảm thuế nhập khẩu từ Malaysia và Indonesia xuống 4% trong giai
đoạn tháng 5/2014-5/2015 là 4%, sẽ được giảm xuống 3% trong giai đoạn tháng 5/2015tháng 6/2015.
Theo Kế hoạch phát triển ngành dầu thực vật Việt Nam tới 2020, tầm nhìn tới 2030, công
suất lọc dầu trong nước cần phải tăng lên 1,59 triệu tấn vào năm 2020 và 1,93 triệu tấn
vào năm 2025
Bảng 3: Sản lượng dầu thực vật tinh luyện
2013
2014
2015
2016
(Ước tính) (Dự báo)
Tổng sản lượng dầu thực vật
733,4
738,4
812
893
(nghìn tấn)
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Công Thương, các chuyên gia
Hình 5: Sản lượng dầu thực vật tinh luyện 2013-2025
2020
2025
(Dự
(Dự
báo) báo)
1.587 1.929
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Công Thương
1.2. Dầu đậu tương thô
Sản lượng dầu đậu tương thô năm 2014/15 ước tính đạt 248.000 tấn, tăng 5,5% so với
234.000 tấn của năm trước, nhờ lượng ép dầu tăng. USDA Post dự báo sản lượng dầu đậu
tương năm marketing 2015/16 sẽ đạt 256.000 tấn, tăng 3% so với năm trước, nhờ lượng
ép dầu tăng.
Bảng 4: Sản lượng dầu đậu tương thô
2012
Tổng sản lượng
2013
214.000 193.000
2014
2015
2016
235.000
Ước tính
248.000
Dự báo
256.000
dầu thực vật
(nghìn tấn)
Nguồn: Các nhà sản xuất trong nước, USDA Post
2. Tiêu thụ
Hiện 4 sản phẩm dầu thực vật chinh (dầu nấu, dầu salad, dầu dinh dưỡng và dầu đặc)
được sử dụng làm thực phẩm và trong ngành chế biến thực phẩm. Nhiều người tiêu dùng
Việt Nam quan tâm tới sức khỏe và thích sử dụng những loại dầu thực vật có lợi cho sức
khỏe. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người tiêu dùng Việt Nam chưa hiểu biết thấu đáo về
chất béo hydro hóa và những chất thay thế dầu mỡ. Nhiều người Việt lựa chọn nhãn hiệu
chủ yếu dựa trên những thông điệp quảng cáo của các nhà sản xuất cũng như ở những
kênh phân phối mà họ ưa chuộng (ở chợ truyền thống hoặc hiện đại). Nhiều người kinh
doanh các dịch vụ ăn uống, nhất là những người bán đồ ăn đường phố, vẫn lựa chọn
những loại dầu không có nhãn hiệu, hoặc không đóng chai, bởi rẻ hơn so với các sản
phẩm có đầy đủ nhãn mác. Cũng vì giá rẻ nên một số người tiêu dùng có thu nhập thấp ở
các khu vực ngoại thành và nông thôn cũng vẫn lựa chọng những loại dầu này.
Các nhà sản xuất trong nước ước tính tiêu thụ dầu thực vật Việt Nam năm marketing
2013/14 (tháng 1-12/2014) tăng khoảng 15% so với năm trước. Không có số liệu chính
thức về tiêu thụ trung bình người. USDA Post dự báo tiêu thụ sẽ tiếp tục tăng mạnh, bao
gồm cả dầu đậu tương, bởi nhu cầu tiếp tục tăng do thu nhập tăng, xu hướng đô thị hóa,
và tăng trưởng của ngành chế biến thực phẩm. Bên cạnh đó, người tiêu dùng cũng ngày
càng quan tâm hơn tới các loại dầu có lợi cho sức khỏe nên có xu hướng chuyển từ mỡ
động vật sang dầu thực vật. Ước tính tiêu thụ dầu thực vật trung bình mỗi người năm
2014 ở mức 9,55 kg, thấp hơn so với mức trung bình 13,5 kg của thế giới. Tiêu thụ dầu
thực vật trung bình mỗi người dự báo sẽ tăng lên 16 kg/người/năm vào 2020 và 18,5 kg
vào 2025.
Bảng 5: Tiêu thụ dầu thực vật trên thị trường Việt Nam
ĐVT
2013
2014
2015 (dự
2020
2025 (dự
báo)
(dự
báo)
102
1.890
18,5
Dân số VN
Tổng tiêu thụ dầu thực
Triệu người
1.000 tấn
90
780
91
870
92
920
báo)
97
1.570
vật trong nước
Tiêu thụ dầu thực vật
Kg/người/năm
8,7
9,6
10
16,2
trung bình người
Nguồn: Tổng cục Thống kê, ước tính của các nhà sản xuất và USDA Post
Theo các nhà sản xuất trong nước, Công ty Dầu thực vật Cái Lân tiếp tục dẫn đầu về
doanh số năm 2014 với 37,3% thị phần trên toàn quốc. Công ty cổ phần Dầu thực vật
Tường An và Công ty Golden Hope Nhà Bè chiếm lần lượt 22,8% và 11%.
Năm 2014, Tổng Công ty Công nghiệp Dầu thực vật Việt Nam (Vocarimex) đã chào bán
cổ phiếu lần đầu (IPO). Nhà nước nắm giữ 36% cổ phần và các nhà đầu tư chiến lược
Công ty Bánh kẹo Kinh đô và VPBank Securities nắm lần lượt 24% và 8%. Vocarimex
và các chi nhánh cùng các thành viên sản xuất khoảng 81% tổng sản lượng dầu ăn tinh
luyện của Việt Nam và nắm giữ tổng cộng 85% thị trường dầu ăn Việt Nam.
Hầu hết dầu đậu tương và dầu cọ nhập khẩu hiện được sử dụng làm thực phẩm, chỉ một
khối lượng nhỏ dầu nhập kaharu được sử dụng trong các ngành công nghiệp, sản xuất mĩ
phẩm và thức ăn chăn nuôi. USDA Post ước tính tiêu thụ trên thị trường Việt Nam vào
khoagnr 650.000 tấn dầu cọ và 220.000 tấn dầu đậu tương trong năm marketing 2013/14.
Năm 2014/15, USDA Post dự báo tiêu thụ dầu cọ đạt 680.000 tấn và dầu đậu tương đạt
240.000 tấn.
3. Mậu dịch
3.1. Tổng nhập khẩu dầu thực vật (thô + tinh luyện)
Ngành dầu thực vật Việt Nam tiếp tục phụ thuộc nhiều vào dầu thô và dầu tinh luyện
nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, mặc dù sản lượng dầu đậu tương thô
trong nước liên tiếp tăng. Năm markeing 2013/14, Việt Nam nhập khẩu khoảng 812.000
tấn dầu thực vật thô và tinh luyện các loại, tăng 13% so với năm trước đó.
Bảng 6: Tổng nhập khẩu dầu thực vật
Năm
2010
2011 2012 2013 2014
Tổng nhập khẩu dầu thực vật (nghìn tấn)
851,3
760,4 729,7 717,9 812,4
Tổng nhập khẩu dầu thực vật thô
388,5
311,7 65,7 76,3 89,6
Tổng nhập khẩu dầu thực vật tinh luyện
462,8
448,7
664 641,6 722,8
Nguồn: Tổng cục Thống kê, các nhà sản xuất dầu ăn,
Năm marketing 2013/14, nhập khẩu dầu thực vật tinh luyện của Việt Nam ước đạt
723.000 tấn, tăng khoảng 13% so với năm trước đó do nhu cầu trên thị trường nội địa gia
tăng. Việt Nam tiếp tục nhập khẩu một khối lượng nhỏ dầu thực vật thô trong năm
2013/14. Nhập khẩu dầu thực vật tinh luyện cùng năm chiếm 89% trong tổng nhập khẩu
dầu thực vật.
Bảng 7: Tổng nhập khẩu dầu thực vật theo chủng loại
Năm
Tổng nhập khẩu dầu thực vật (nghìn
2010
851,3
2011
760,4
2012
729,7
2013
717,9
2014
812,4
tấn)
Dầu cọ
594,4
595,6
6,2,6
583,1
Dầu đậu tương
227,4
127,5
52,6
79,3
Dầu thực vật khác
29,5
37,3
74,5
55,5
Ghi chú: Dầu thực vật bao gồm dầu thô và dầu tinh luyện
679,2
81,6
51,6
Nguồn: Tổng cục Thống kê, các nhà sản xuất dầu ăn, Global Trade Atlas
Tổng nhập khẩu dầu cọ (cả thô và tinh luyện) đạt 679.000 tấn trong năm marketing
2013/14, tăng 16,5% so với năm trước đó, chiếm gần 81% tổng nhập khẩu dầu thực vật.
Nhập khẩu dầu đậu tương (cả thô và tinh luyện) đạt 82.000 tấn trong năm 2013/14, tăng
3% so với năm trước đó. Dầu đạu twowngchieems 10% tổng nhập khẩu dầu thực vật.
Các loại dầu thực vật khác, bao gồm dầu lạc, dầu oliu, dầu hướng dương, dầu canola, dầu
dừa…nhập khẩu dưới dang tinh luyện, đóng chai đạt 52.000 tấn trong năm 2013/14.
chiếm khoảng 6% tổng nhập khẩu dầu thực vật.
USDA Post dự báo tổng nhập khẩu dầu thực vật trong năm marketing 2014/15 đạt
820.000 – 830.000 tấn.
3. 2. Nhập khẩu dầu thực vật thô
Nhập khẩu dầu thực vật thô của Việt Nam năm marketing 2013/14 đạt khoảng 90.000
tấn, tăng 17% so với năm trước đó. Dầu đậu tương thô từ Argentina và Malaysia chiếm
gần 97% tổng nhập khẩu dầu đậu tương thô. USDA Post ước tính nhập khẩu dầu thô năm
nay chắc chắn sẽ vẫn ở mức như năm ngoái.
Bảng 8: Nhập khẩu dầu thực vật thô
Dầu thực vật thô (nghìn
2010
2011
2012
2013
2014
tấn)
Tổng cộng
Dầu cọ thô
388,5
219,9
311,7
184,7
65,7
13,3
76,3
10
89,6
7
Dầu đậu tương thô
164,4
117,9
48,98
Các loại dầu thô khác
4,2
9,1
3,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Global Trade Atlas.
63,3
2,99
77,4
5,2
Hình 6: Nhập khẩu dầu thực vật thô năm 2010-2014
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Bảng 9: Các nước cung cấp dầu đậu tương thô cho Việt Nam (Mã HS 150710)
ĐVT: nghìn tấn
Nguồn xuất khẩu
Argentina
Malaysia
Thái Lan
Brazil
Hàn Quốc
Singapore
Đài Loan
Hoa Kỳ
Uruguay
Nước khác
2010
73.250
13.291
21.292
0
6,74
0
17,74
30.000
9.000
6.864
2011
75.440
19.976
19.499
3.000
2,69
0
0
0
0
0
2012
19.500
2.141
12.997
13.000
0
0
410
0
0
9,36
2013
33.192
0
24.010
5.775
3
0
0
0
0
2014
59.472
15.495
416
1,86
0
0
06,08
0
0
Tổng
164.351
117.918
48.984
63.282
77.436
Nguồn: Ước tính của các thương gia, các nhà sản xuất, Tổng cục Thống kê, Global
Trade Atlas.
Bảng 10: Nguồn cung cấp dầu cọ thô cho Việt Nam (Mã HS 151110)
ĐVT: nghìn tấn
Nước xuất
2010
khẩu
Thái Lan
Malaysia
Singapore
Hongkong
Indonesia
Campuchia
Hoa Kỳ
Tổng
6.997
36.465
0
0
176.076
350
0
219.888
2011
2012
2013
2014
0
0
6.000
72.051
2.012
4.000
0
0
0
52
0
0
110.206
11.329
2.100
0
0
257
0
0
184.666
13.341
10.000
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Global Trade Atlas.
7.028
0
1
0
0
0
7.029
3.3. Nhập khẩu dầu thực vật tinh luyện
Nhập khẩu dầu thực vật tinh luyện trong năm marketing 2013/14 đạt 723.000 tấn, tăng
12,6% so với năm trước. Nhập khẩu dầu cọ tinh luyện chủ yếu từ Malaysia, Indonesia
chiếm khoảng 93% tổng nhập khẩu dầu thực vật tinh luyện. Các loại dầu thực vật khác,
chủ yếu đã đóng chai, chiếm 6,4% trong tổng nhập khẩu, còn dầu đậu tương chiếm 0,6%.
Trong năm marketing 2014/15, USDA Post ước tiinhs nhập khẩu dầu cọ tinh luyện đạt
730.000 – 750.000 tấn, trong đó dầu cọ, dầu đậu tương và các loại dầu khác chiếm lần
lượt 690.000 tấn, 5.000 tấn và 55.000 tấn. Dự báo nhập kaaru dầu cọ năm 2015/16 sẽ đạt
710.000 tấn, dầu đậu tương sẽ đạt 5.000 tấn.
Bảng 11: Nhập khẩu dầu thực vật tinh luyện 2010-2014
Nhập khẩu dầu thực vật tinh luyện
2010
2011
2012
2013
2014
(nghìn tấn)
Tổng
Dầu cọ tinh luyện
462,8
374,5
448,7
410,9
664
589,3
641,6
573,1
722,8
672,2
Dầu đậu tương tinh luyện
63
9,6
3,6
16
4,2
Dầu tinh luyện khác
25,3
28,2
71,7
52,5
46,4
Nguồn: Các thương gia trong nước, các nhà sản xuất trong nước, Tổng cục Thống
kê, Global Trade Atlas.
Bảng 12: Nhập khẩu dầu đậu tương tinh luyện 2010-2014 (Mã HS 150790)
ĐVT: nghìn tấn
Nguồn xuất khẩu
2010
2011
2012
2013
2014
Malaysia
18.586
7.706
3.128
15.237
3.803
Hongkong
560
Hàn Quốc
29
45
16
66
18
Singapore
34.044
297
114
51
323
Đài Loan
23
35
68
51
38
Thái Lan
224
1,470
165
77
14
Canada
73
25
41
13
Hoa Kỳ
1
1,7
12
Trung Quốc
5.881
Nước khác
11
12
9
9
12
Tổng
62.872
9.592
3.555
16.235
4.208
Nguồn: Các thương gia trong nước, các nhà sản xuất trong nước, Tổng cục Thống
kê, Global Trade Atlas.
Bảng 13: Nhập khẩu dầu cọ2010-2014 (Mã HS151190)
ĐVT: nghìn tấn
Nguồn
2010
2011
2012
2013
2014
353.404
55.171
1.470
783
462.183
124.000
165
783
478.400
94.385
593.431
76.160
2.512
87
xuất
khẩu
Malaysia 318.184
Indonesia 17.951
Thái Lan
215
Singapor 38.044
e
294
Đài Loan
Canada
Trung
23
50
40
35
25
68
41
Quốc
Hàn
11
45
18
Quốc
Hoa Kỳ
Nước
1
1
1,7
12,5
12
2.036
khác
Tổng
28
7,4
370.520
410.947
589.306
573.107
672.197
Nguồn: Các thương gia trong nước, các nhà sản xuất trong nước, Tổng cục Thống
kê, Global Trade Atlas.
Bảng 14: Nhập khẩu dầu thực vật và mỡ động vật tính theo trị giá
Tổng NK dầu thực vật
2010
682
2011
893,1
2012
747,7
2013
692,2
2014
758
(triệu USD)
Nguồn: Bộ Công Thương, Tổng cục Thống kê
3.4. Xuất khẩu
Hiện không có số liệu chính thức về xuất khẩu dầu thực vật. Theo trang Global Trade
Atlas, xuất khẩu dầu thực vật và mỡ động vật của Việt Nam ước đạt 183.000 tấn năm
2013/14, tăng 15% so với năm trước đó (159 tấn). Năm 2013/14, trị giá xuất khẩu vào
khoảng 205 triệu USD, tăng 29% so với năm trước đó (158 triệu USD). Trong tổng xuất
khẩu dầu thực vật và mỡ động vật, dầu đậu tương thô chiếm 49%, dầu đậu tương tinh
luyện, dầu cộ và các loại dầu thực vật khác chiếm 51%. USDA Post dự báo năm
marketing 2014/15 và 2015/16 xuất khẩu dầu đậu tương sẽ đạt 95.000 tấn và 100.000 tấn.
Bảng 15: Xuất khẩu dầu thực vật và mỡ động vật của Việt Nam
ĐVT:Nghìn tấn
Thị trường
2010
2011
2012
2013
2014
nhập khẩu
Trung Quốc
Đài Loan
Singapore
Hàn Quốc
Nhật Bản
Malaysia
Ấn Độ
Philippines
Hoa Kỳ
Hongkong
Indonesia
Thái Lan
Moroco
New Zealand
Canada
Ai Cập
Na uy
Australia
Hà Lan
Pháp
Đức
Italia
Nước khác
Tổng
23,981
26,786
41
4,642
16,591
19,695
840
409
218
1,475
28
0,2
3,3
125
6
1
89
826
96,100
26,958
31,229
169
24,059
7,215
21,431
42,439
20,196
57,229
10,031
309
960
2,507
335
3,357
4,178
1,656
47
22
9
2,9
93
520
745
31
62
35,171
33,126
24,689
21,554
16,092
27,631
20,209
19,224
77,878
14,593
4,992
4,631
331
294
4,516
43
347
170
122
103
44
151
186
124
95
0
3,782
417
0,4
425
33
77
194
218
127
15
126
91
29
102,262
179,987
Nguồn: Global Trade Atlas
81
158,909
4,943
844
267
19
1,067
1,003
18
17
139
350
194
60
17
169
1,309
123
182,982
Bảng 16: Trị giá xuất khẩu dầu thực vật và mỡ động vật các loại của Việt Nam
ĐVT:Triệu USD
2010
2011
2012
Tổng XK dầu thực vật
100,2
211,9
316,6
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Global Trade Atlas
2013
255,8
Về xuất khẩu, khối lượng dầu ăn xuất khẩu từ Việt Nam không lớn, song bước đầu đã
2014
205
xuất sang được một số thị trường trong khu vực, gồm cả những thị trường khó tính như
Nhật Bản.
Bảng 17: Xuất khẩu dầu đậu tương thô (Mã HS150710)
ĐVT: Nghìn tấn
Thị
2010
2011
2012
2013
2014
10
0
21.471
3.099
3.193
47.932
10.779
19.444
9.132
4.992
1.863
74.456
15.945
Triều Tiên
Nhật Bản
Singapore
Indonesia
Hong
620
4.162
3.864
2.394
1.401
Kong
Philippine
987
trường
nhập
khẩu
Hàn Quốc
Malaysia
Ấn Độ
CHDCND
s
Australia
Trung
25
Quốc
Nước khác
Tổng
948
765
0,3
20.532
37.624
10,3
27.788
92.983
74.456
Nguồn:Nguồn: Global Trade Atlas, các nhà sản xuất trong nước
90.401
Bảng 17: Xuất khẩu dầu đậu tương tinh luyện (Mã HS150710)
ĐVT: Nghìn tấn
Thị trường nhập khẩu
Indonesia
CHDCND Triều Tiên
2010
2011
2012 2013 2014
2.804 5.204
3.399 3.621
Philippines
60.7
Singapore
3.240
Malaysia
2.259
Australia
120
115
140
Trung Quốc
5.544
New Zealand
19
Hong Kong
18,7
1.357
Đài Loan
0,4
217
Nhật Bản
5
Nước khác
2
0,1
0.3
Tổng cộng
122,4
199,5
18.979
Nguồn:Global Trade Atlas, các nhà sản xuất trong nước
2.536 187
2.108 21
2.081 101
922
461
264
14
31
4.298 18
21.540 327
III. KẾT LUẬN
Ngành hạt có dầu không chỉ đáp ứng nhu cầu dầu thực phẩm của các hộ gia đình, dầu
trong ngành chế biến thực phẩm mà còn đáp ứng nhu cầu của ngành chăn nuôi gia súc,
gia cầm và thủy hải sản.
Nhu cầu hạt có dầu và các sản phẩm hạt có dầu của Việt Nam đang ngày càng gia tăng do
dân số tăng và sự phát triển kinh tế kéo theo nhu cầu các thực phẩm sử dụng dầu và các
sản phẩm hạt có dầu cũng gia tăng.
Trong khi đó, sản lượng hạt có dầu tăng rất chậm, do năng suất không tăng mà diện tích
đất trồng đậu tương – cây chủ lực cho hạt có dầu ở Việt Nam – bị cạnh tranh gay gắt với
các loại cây trồng khác do yếu tố lợi nhuận.
Kết quả là Việt Nam phải phụ thuộc rất nhiều vào hạt có dầu và các sản phẩm hạt có dầu
thực vật nhập khẩu, đẩy giá thành tăng lên, đặc biệt với ngành thức ăn chăn nuôi.
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, cần cấp thiết khắc phục nhược điểm này bằng cách có
đầu tư thích đáng cho các loại hạt có dầu, đặc biệt là cây đậu tương, để ngành dầu thực
vật và hạt có dầu phát triển một cách bền vững.
Nguồn: Phòng Thông tin kinh tế quốc tế - VITIC