Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

BIẾN ĐỔI CƠ CẤU NGUỒN NHÂN LỰC VÀ KHU CÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.81 KB, 16 trang )

BIẾN ĐỔI CƠ CẤU NGUỒN NHÂN LỰC
VÀ KHU CÔNG NGHIỆP
Niimi Tatsuya
Tổng Lãnh sự quán Nhật Bản tại TP.HCM

1. Ðặt vấn đề
Theo thống kê về số lượng lao động (LÐ) (nông-lâm-ngư nghiệp
chiếm 55,7% năm 2006) và tỷ lệ GDP của nông-công nghiệp là 20,36% và
41,56%, Việt Nam vẫn là một đất nước nông nghiệp. Để thực hiện Công
nghiệp hóa - Hiện đại hóa (CNH-HÐH), theo kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 của Chính Phủ, đến năm 2010 tỷ trọng lao
động nông lâm ngư nghiệp trong tổng số lao động dự kiến sẽ giảm xuống
50% và tỷ trọng lao động trong công nghiệp sẽ tăng lên 23% - 24%. Trong
thời kỳ toàn cầu hóa, mặc dù có nhiều chỉ trích1 về lý luận phát triển
kinh tế của hai bộ môn truyền thống (nông nghiệp) và hiện đại (công
nghiệp) của Lewis cổ điển2, được áp dụng trong nền kinh tế nông-lâmngư nghiệp còn nhiều nguồn nhân lực phong phú, nhưng thực tế đã
chứng minh khả năng cải tiến cơ cấu nguồn nhân lực để thực hiện CNHHÐH bền vững, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển công
bằng tại nhiều nước.
Bài viết này tập trung nghiên cứu về vấn đề nêu trên và sự phát triển
nhanh chóng của khu công nghiệp tại Việt Nam trong thời gian gần đây.
Vì phát triển Khu công nghiệp (KCN) có thể đóng góp vào quá trình phát
1 “Vấn đề thứ nhất là khó chuyển sang bộ môn hiện đại như mô hình của Lewis do nhà
đầu tư có xu hướng tiết kiệm lao động, tăng vốn và sản xuất mà không tăng số lượng
người lao động được thuê. Thứ hai là tiền đề trong bộ môn truyền thống là nền kinh
tế có lực lượng lao động dôi dư mà trong bộ môn hiện đại lại không có người lao động
bị thất nghiệp là phi thực tế. Thứ ba là trong bộ môn hiện đại cũng có thể tăng lương
trước khi hết lực lượng lao động dôi dư trong bộ môn truyền thống.” Trần Văn Thọ
[1996:pp. 143-151], Harris and M.P.Todaro [1970:pp. 126-142].
2 W.A. Lewis [1954:pp. 139-191].

| 759




25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

triển kinh tế bền vững của Việt Nam. Đến cuối năm 2007 đã có 183 KCN
được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên là 43.687 ha, phân bố trên
54 tỉnh, thành phố của cả nước. Các dự án đầu tư nước ngoài (FDI) trong
KCN, Khu kinh tế (KKT) thu hút được 42,3% tổng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam (2007)1 và KCN tiếp tục góp phần vào giải quyết
việc làm, sử dụng hơn một triệu lao động trực tiếp trong năm 2007 (chiếm
2,45% tổng số lao động đang có việc làm năm 2006). Việc phát triển KCN
có thể đóng góp vào sự biến đổi cơ cấu nguồn nhân lực từ bộ môn truyền
thống sang bộ môn hiện đại.
Nhưng, ở đây vẫn còn có một số vấn đề đặt ra là: Thứ nhất, thông
thường sau khi biến đổi cơ cấu nguồn nhân lực thì tiền lương lao động mới
tăng lên, vậy mà ở một số vùng đã tăng rất nhanh là tại sao. Thứ hai, thực
trạng kinh tế Việt Nam hiện nay phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp
và nhà đầu tư nước ngoài, vậy thì nếu tiền lương lao động tăng lên so với
các nước láng giềng thì họ sẽ chuyển sang nước khác mà có điều kiện tốt
hơn cho họ2.
Một nguyên nhân quan trọng gây ra các vấn đề trên là việc quá tập
trung phát triển KCN ở một số vùng chính. Ví dụ vùng Nam Bộ có 87 KCN
(chiếm 47,5% số lượng của cả nước) với tổng diện tích đất tự nhiên 24.198 ha
(chiếm 55,3% tổng diện tích KCN của cả nước). Mặc dù sự phân bố KCN đã
được điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện cho một số địa bàn đặc biệt khó
khăn phát triển KCN để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhưng vẫn chưa có giải
pháp phù hợp nên chuyển biến rất chậm. Vấn đề này gây ra những hệ quả
kéo theo về cơ cấu lao động. Các KCN tập trung nhiều ở vùng Nam Bộ, lao
động địa phương không đủ đáp ứng cho nhu cầu lao động của các KCN. Các
1 Trần Ngọc Hưng, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam 88(124), tr.10-12.

2 Ở đây, có thể minh họa bằng một bài báo nói về thực tế nhiều xí nghiệp nước ngoài
chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam mà một trong các lý do là giá nhân công rẻ.
Nhưng bài báo cũng chỉ ra vấn đề là năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn so với
các nước đang phát triển khác. Cho nên, nhân công Việt Nam phải qua đào tạo tốt để
có tay nghề, năng suất lao động cao hơn, cải thiện tiền lương lao động. Nhưng theo lý
luận trong ngành kinh tế học về năng suất (productivity) là q(sản phẩm)/l(lương LĐ);
tức là nếu muốn so sánh về năng suất lao động thì phải so sánh trong cùng một mặt
hàng sản xuất, với điều kiện sản xuất giống nhau, nếu không thì không có ý nghĩa.
Các nước đang phát triển đều có vấn đề này, Trung Quốc đã chịu hơn 10 năm trở
thành một công xưởng sản xuất của thế giới, trong giai đoạn này, như các nước đang
phát triển khác, Việt Nam cần phải tích lũy về vốn đầu tư, vốn nhân lực và kỹ thuật để
mới take off phát triển được. (Phụ nữ online, “Bài toán năng suất lao động”, 15/07/2008,
theo .)

760 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

khu này từ nhiều năm qua đã thu hút lực lượng lao động lớn từ các vùng
khác của cả nước. Vì chi phí sinh hoạt của người lao động đi làm xa cao hơn
lao động địa phương, nhất là trong thời kỳ lạm phát cao, dẫn đến chi phí lao
động ngày càng tăng cao, gây nhiều áp lực đối với doanh nghiệp trong khi
thu nhập thực tế của người lao động không tăng. Lao động ngoại tỉnh còn
sẵn sàng bỏ việc khi xin được việc làm ở quê nhà, vì vậy sau những ngày lễ
tết, doanh nghiệp càng dễ mất công nhân. Bên cạnh đó là những vấn đề về
xã hội và môi trường khác do lao động nhập cư từ ngoại tỉnh (cung ứng chỗ
ở, điện nước, y tế, nhu yếu phẩm, giao thông đô thị...).
Nếu tình trạng này kéo dài, Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong thu hút
đầu tư nước ngoài (NN), cũng như thực hiện CNH-HĐH đất nước. Việt

Nam cần thiết phải tìm ra và phát triển những lợi thế so sánh so với các
nước khác trong khu vực. Trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay, Việt
Nam cần đặt chiến lược kinh tế phát triển (KTPT) bền vững và công bằng1
hơn trong thời kỳ toàn cầu hóa.

2. Biến đổi cơ cấu nguồn nhân lực và khu công nghiệp Việt Nam
2.1. Biến đổi cơ cấu nguồn nhân lực
Theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 của Việt
Nam thì tỷ trọng lao động công nghiệp và nông-lâm-ngư nghiệp trong
tổng số lao động là 18% và 58% (năm 2005) sẽ thành 23% - 24% và 50%
(đến năm 2010). Mục tiêu về lao động và việc làm là nâng cao chất lượng,
hiệu quả sử dụng nguồn lao động; tiếp tục chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng giảm lao động nông-lâm-ngư nghiệp và tăng lao động công
nghiệp - xây dựng và lao động dịch vụ - thương mại lên ít nhất 26% - 27%.
Trong 5 năm này, phấn đấu giải quyết việc làm cho trên 8 triệu lao động,
trong đó khoảng 6 triệu chỗ làm việc mới, mỗi năm giải quyết việc làm cho
trên 1,6 triệu người. Ðể thực hiện mục tiêu này: cần thực hiện các chính
sách khuyến khích đẩy mạnh phát triển sản xuất, tạo việc làm mới - chú
trọng khuyến khích phát triển ngành công nhiệp. Tiếp tục cải cách chính
sách phúc lợi xã hội cho người lao động - đặc biệt người lao động di cư đến
các KCN tập trung.
1 Hệ số Gini là mức độ chênh lệch giàu và nghèo ở Việt Nam thực tế ngày càng tăng lên.
(tuổi trẻ online, ”Chênh lệch giàu nghèo giữa mùa rét”, ngày 05/03/2008, theo http://www.
tuoitre.com.vn/)

| 761


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH


Bảng 1: Nguồn Nhân lực theo ngành kinh tế trong tổng số lao động
đang làm việc (nông-lâm-ngư và công nghiệp - xây dựng)
Năm

2000

2002

2003

2004

2005

2006

NNL (N-L-N)

65,09%

61,90%

60,24%

58,75%

57,24%

55,65%


NNL (C-X)

13,10%

15,40%

16,44%

17,35%

18,20%

18,90%

(Nguồn: Niên giám thống kê 2006)

Các KCN đã thu hút trên một triệu lao động trực tiếp (năm 2007). Ðặc
biệt KCN của các doanh nghiệp trong nước là 66 người LÐ trong một ha
và KCN có vốn đầu tư NN là 118,6 người LÐ trong một ha thì KCN có vốn
đầu tư NN có ngành công nghiệp tập trung nguồn nhân lực nhiều hơn đã
góp phần biến đổi cơ cấu nguồn nhân lực và giải quyết việc làm. Trong thời
gian tới, để thu hút nhiều hơn lực lượng lao động vào KCN, đặc biệt là vào
các doanh nghiệp trong nước, thì Chính phủ và các doanh nghiệp có vốn
đầu tư trong nước rất cần thực hiện các chính sách trong kế hoạch phát
triển đã nêu trên.
Bảng 2: Số lượng LÐ ngành KT công nghiệp - xây dựng,
trong KCN và tỷ lệ
Năm

2000


2002

2003

2004

2005

2006

N/L (C-X)

4929,7

6084,7

6670,5

7216,5

7739,9

8192,7

N/L (KCN)

230

370


454

673

857

916

(KCN/C-X)

4,6%

6,8%

6,8%

9,3%

11,1%

11,2%

(Nguồn: Niên giám thống kê 2006 và số lượng thống kê KCN)

2.2. KCN Việt Nam
KCX đầu tiên là KCX Tân Thuận nằm ở Q.7 TP. Hồ Chí Minh do
Ðài Loan và Việt Nam liên doanh đầu tư xây dựng vào năm 1991. Ngày
18/10/1991 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 322/HÐBT về
Quy chế Khu chế xuất. Sau đó ngày 28/12/1994 việc ban hành Nghị định

số 192/CP về Quy chế KCN của Chính phủ là điểm chuyển biến rộng hơn
của định nghĩa KCN. Theo Tạp chí Cộng sản (số 457, tháng 2 năm 1992),
Chính phủ Việt Nam chủ trương thoát khỏi mô hình “thay thế nhập khẩu”
và chuyển sang mô hình “hướng vào xuất khẩu” để quá trình phát triển
762 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

kinh tế phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với đường lối “mở cửa”
của Đảng Cộng sản và Chính phủ Việt Nam.
Ngày 24/04/1997, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 36/NÐ-CP về
Quy chế các khu công nghiệp, khu chế xuất thay thế hai văn bản cũ là Nghị
định 322 và Nghị định 192. Thêm vào đó, ngày 22/9/2006, Chính phủ ban
hành Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ðầu tư, trong đó tạo
điều kiện để một số UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và
Ban quản lý khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX), khu công nghệ
cao (KCNC), khu kinh tế (KKT) phản ánh những vướng mắc trong quá
trình thực hiện thủ tục thành lập KCN, KCX, KCNC và KKT. Do các chính
sách cải cách và đổi mới đó, hiện nay đã có hơn 180 KCN, KCX, KCNC và
KKT, phân bố trên 54 tỉnh, thành phố trên cả nước, đặc biệt là trong năm
2007 có 45 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN được cấp Giấy
chứng nhận đầu tư, thành lập mới 33 KCN.
KCN, KCX đã đem lại những kết quả rất đáng khích lệ, có hiệu quả cao
trong sự nghiệp CNH-HĐH, phù hợp với mục đích xây dựng KCN, KCX
của Chính phủ Việt Nam là: 1. Thu hút đầu tư nước ngoài; 2. Thực hiện
CNH-HĐH cả nước và nông nghiệp nông thôn; 3. Giải quyết việc làm; 4.
Xóa đói giảm nghèo.
Tuy vậy, dù sự phân bố KCN đã được điều chỉnh theo hướng tạo điều
kiện cho một số địa bàn đặc biệt khó khăn ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam

Bộ, nhưng các KCN vẫn còn tập trung nhiều ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh
và các khu vực xung quanh hai thành phố này.
Trong đó, diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê theo quy hoạch
(trừ KKT, cả gồm các KCN đã thành lập và đang xây dựng cơ bản) đạt
49,9%. Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào KCN, KKT trong năm 2007 chiếm
42,3% tổng vốn đầu tư nước ngoài thu hút được trên cả nước trong năm
2007. Và kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong KCN chiếm 22%
giá trị xuất khẩu của cả nước.

| 763


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Hình 1: Số KCN theo các tỉnh so sánh hai năm 2000 và 2007

20
15
10
5
3
1

0

KCN( 2000)

20
15
10

5
3
1

100km

KCN( 2007)

0

100km

Các KCN đã thành lập và vận hành mà có vốn NN là 19 KCN, chủ yếu
ở Hà Nội, Hải Dương, TP. Hồ Chí Minh, Ðồng Nai và Long An. Các KCN
mà chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là Việt Nam thì cũng tập trung ở ba
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, nhưng đồng thời
cũng đầu tư tại các tỉnh khác để đóng góp vào phát triển vùng và giải quyết
việc làm của địa phương. Trong tổng số các KCN cả nước, có 30 KCN có vốn
đầu tư NN xây dựng cơ sở hạ tầng; trong đó 10 KCN của Ðài Loan, 5 KCN
của Trung Quốc, 4 KCN của Nhật Bản và Hàn Quốc v.v.
Bảng 3: Số KCN, KCX và KKT và số lượng được thuê
trong KCN, KCX và KKT theo năm
Năm
KCN/KCX
&KKT
LD
(nghìn)

91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01 02 03 04 05 06


07

1

33

2

0

5

6

13 22 15

2

1

3

10 20 15 16 19

NA NA NA NA NA NA 72 110 131 230 255 370 454 673 857 916 1062
(Nguồn Thống kê số lượng KCN, KCX và KKT của Bộ KHĐT)

764 |



25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH


Hình 2: Tỷ lệ người LÐ trong KCN/Lực lượng LÐ

0.
0.
0.
0.
0.
0.
0.
0.
0.

KCN/ LLLD

0

2500129125
2222337000
1944544875
1666752750
1388960625
1111168500
0833376375
0555584250
0277792125

100km


2.3. Phân tích Khu công nghiệp - Khu chế xuất



Sau khi Nghị định số 192/CP-Chính phủ ban hành năm 1994 thì định
nghĩa phân biệt KCX, KCN được mở rộng hơn vì trong KCN có thể có KCX,
xí nghiệp chế xuất; thậm chí doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành
phần kinh tế; xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Dưới đây phân tích KCN-KCX theo mối liên hệ với xã hội địa phương,
người lao động và thị trường sản xuất.
+ KCX: hiện giờ Việt Nam có 3 KCX của Việt Nam, Ðài Loan và Trung
Quốc tại TP.HCM. KCX nổi tiếng là khu chế xuất đầu tiên triển khai ở Việt
Nam và thành công là KCX Tân Thuận. Trong KCX này đang có 165 xí nghiệp
(XN) trong đó có 44 XN của Ðài Loan và 51 XN của Nhật Bản, thuê khoảng
60 nghìn lao động, kim ngạch xuất-nhập khẩu là hơn 2 tỷ USD/năm. Ðây là
một điển hình KCX theo như ILO định nghĩa1, xí nghiệp nước ngoài đầu tư
vào khu này, thuê người lao động của mình, nhập khẩu vật chất từ ngoài
nước và xuất khẩu sản phẩm đi ngoài nước, xa xã hội của chủ sở.
1 Theo ngày
31-7-2008.

| 765


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

+ KCN có vốn FDI và KCN có vốn của Việt Nam tập trung tại thành
phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và xung quanh hai thành phố này.
Các xí nghiệp trong nước và ngoài nước nếu có nhu cầu đều có thể đầu

tư vào loại hình khu công nghiệp này. Riêng KCN có vốn FDI đã đề cập ở
trên là 30 KCN. Trong đó, ví dụ như KCN AMATA, tỉnh Ðồng Nai (thuê lao
động hơn 13 nghìn người, 42 xí nghiệp của Nhật Bản, 16 xí nghiệp của Ðài
Loan và một số xí nghiệp của các nước khác), KCN Thăng Long - Hà Nội
hay là KCN Biên Hòa I và II (thuê tổng cộng hơn 94 nghìn lao động, có xí
nghiệp của Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và Việt Nam), KCN Sóng Thần
I, tỉnh Ðồng Nai và KCN Sóng Thần II, tỉnh Bình Dương. Theo nghiên cứu
của Nguyễn Thị Hòa và Shibuya Yuki (báo cáo điều tra tháng 3 và tháng 9
năm 2007), cho biết tại một xí nghiệp trong KCN của tỉnh Ðồng Nai có 55%
tổng LÐ từ tỉnh khác đến làm việc, còn theo Ban quản lý KCN Ðồng Nai thì
trung bình toàn KCN của tỉnh có khoảng 70% LĐ là tỉnh khác đến1. Đa số
là sống xa nhà, thuê nhà xung quanh KCN, tức là lao động di dân xa nhà.
+ KCN vùng: chưa có nhiều KCN có vốn FDI mà ở vùng xa như ở tỉnh
Phú Thọ, Bắc Ninh, Nam Ðịnh. Những vùng này không phải là vùng xa
xôi nhưng không gần với thành phố lớn như Hà Nội. Loại KCN này mới
bắt đầu được quan tâm vì có thể có nhiều khả năng góp phần vào quá trình
CNH-HĐH của Việt Nam nói chung, cũng như giải quyết việc làm để nâng
cao tiêu chuẩn đời sống của họ nói riêng; kết hợp với KTPT bền vững và
ổn định cả nước.
2.4. Mô hình Sáng Ði Tối Về (SÐTV)
Loại KCN thứ ba này có thể trở thành một mô hình vừa phát triển kinh
tế vừa hài hòa với xã hội được. Mô hình này được gọi là “Mô hình Sáng Ði
Tối Về- SĐTV” (tên mô hình này là do một số người đã góp ý lúc chúng tôi
điều tra trong làng Việt Nam về HÐH-CNH nông thôn, là vì họ mong muốn
đi làm từ buổi sáng, buổi tối về nhà để ăn cơm với gia đình được cho là cách
sống thích hợp hơn so với đi làm xa nhà, mặc dù tiền lương thấp hơn)2.
Ðiều kiện thực hiện mô hình này là: có lực lượng lao động trẻ phong
phú, có điều kiện sinh sống, có cơ hội việc làm SÐTV như mô hình KCN.
Nếu có KCN ở địa phương, người lao động sẽ có xu hướng lựa chọn làm
việc ở gần nhà mặc dù tiền lương thấp hơn là đi làm ở thành phố xa nhà,

1 Phỏng vấn điều tra với Ban quản lý các KCN Ðồng Nai (ngày24.12.2007).
2 Cuối năm 2006, GS. TS. Sakurai Yumio đã chủ xướng mô hình này phù hợp với phát
triển kinh tế vùng tại Việt Nam giai đoạn phát triển hiện nay.

766 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

đây là một ưu điểm thu hút FDI vào vùng. Với điều kiện này, hai bên doanh
nghiệp và người LÐ đều có lợi.
Hình 3: Commuting Model
Sustainable regional development
Industrialization and Modernization
SDTV Model-Regional Industrial Parks
Economy of Survival

Education

Labour force

Mô hình SĐTV này phù hợp với những nơi có kinh tế cơ bản và nguồn
nhân lực phong phú. Có đủ điều kiện đó thì có thể chủ trì xây dựng CNHHĐH mà KCN là một cơ hội tốt và nếu được áp dụng rộng thì từ đó cả nước
sẽ phát triển bền vững hơn.

3. Khu công nghiệp tại tỉnh Nam Ðịnh
 của tỉnh Nam Ðịnh
3.1. Tình trạng kinh tế và khu công nghiệp

 người,

Tỉnh Nam Ðịnh là một nơi mật độ dân cao, dân số có gần 2 triệu
trong đó lực lượng trong độ tuổi lao động là hơn 1 triệu người, số lao động
có nhu cầu việc làm đang không có việc làm là 26 nghìn người. Tỷ lệ lao
động theo ngành kinh tế trong tổng số lao động đang làm việc (nông-lâmngư và công nghiệp - xây dựng) là 73,8% và 15,7% (năm 2005). Theo Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nam Ðịnh đến năm 2020,
cho biết đến năm 2010 lao động nông nghiệp chiếm 61,9% và lao động
công nghiệp - xây dựng chiếm 24,7% lên, đến năm 2020 lao động nông
nghiệp chỉ còn chiếm 28% và công nghiệp - xây dựng chiếm 49%.
Tỉnh Nam Ðịnh có quy hoạch KCN là 12 KCN trong tỉnh, cho đến nay
đã có 2 KCN trong TP. Nam Ðịnh đang hoạt động. Cả hai KCN thuê hơn
20 nghìn lao động, chủ yếu là người dân xung quanh hai KCN. Hai KCN
có hơn 80 xí nghiệp, trong đó có 7 xí nghiệp nhà nước đầu tư 100%. Cả hai
KCN nằm trên mặt đường quốc lộ 10. KCN Hòa Xá đã triển khai đầu tư xây
dựng từ năm 2003, còn KCN Mỹ Trung đã triển khai đầu tư xây dựng từ
năm 2005, trong đó hiện có 2 xí nghiệp của Nhật Bản. Chủ đầu tư xây dựng
của cả hai KCN đều là doanh nghiệp Việt Nam. TP Nam Ðịnh có 245 nghìn

| 767


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

dân và xung quanh TP có 4 huyện - huyện Mỹ Lộc (70 nghìn người), huyện
Nam Trực (205 nghìn người), huyện Ý Yên (245 nghìn người) và huyện Vụ
Bản (130 nghìn người). Hai KCN này hiện thuê 23 nghìn LÐ vì vậy đã giải
quyết việc làm và cải thiện cơ cấu nguồn nhân lực của tỉnh.
Hình 4 : Mật độ dân số các huyện (2006)


và phân vị lao động của hai KCN Nam Ðịnh


( ng/ k m2 )
5000
4000
3000
2500
2000
1500
1300
1200
1000

0

10k m

Sau khi xây dựng KCN, cơ chế sản xuất phát triển khá, đặc biệt là khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, năm 2006 là gấp 14 lần so với năm
2003 theo giá hiện hành, theo ngành kinh tế thì công nghiệp chế biến là
gấp 2 lần, và xây dựng 1,8 lần so với năm 2003 theo giá hiện hành. Ngân
sách của địa phương cũng có ảnh hưởng tốt, mặc dù trong KCN có ưu tiên
cho doanh nghiệp ngoài nước, so với năm 2003 thì năm 2006 thu ngân sách
gấp 2,4 lần về thuế từ khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Bảng 4: Thay đổi về GDP và thu ngân sách giữa khu vực
kinh tế trong nước và khu vực kinh tế có FDI
Theo giá hiện hành (đơn vị: triệu đồng)
2000
GDP(khu vực kinh tế trong nước)
GDP(khu vực kinh tế có FDI)
Import tax

Thu ngân sách (KT địa phương)
Thu ngân sách (KT có FDI)

768 |

5434564

2003

2004

2005

7514996 8736584 10087073

2006
12115606

2927

9901

17211

119566

138985

68614


19591

8015

17774

19000

337907

504577

375242

506414

624347

106

1092

1233

1802

2600


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH


3.2. Kết quả điều tra năm 2007 - 20081
Tỉnh Nam Định có hai KCN đang hoạt động trong đó KCN Hòa Xá
bắt đầu hoạt động từ năm 2003. Diện tích toàn khu là 326,7 ha, có 3 doanh
nghiệp quốc doanh và 1 đơn vị khai thác hạ tầng, 73 công ty tư nhân và 5
doanh nghiệp nước ngoài đầu tư 100%. Mặt hàng sản xuất kinh doanh chủ
yếu là bánh kẹo, sợi bông, may mặc, dệt vải, phụ tùng ôtô, máy nông nghiệp,
dụng cụ cầm tay, phụ tùng lắp ráp xe máy, nhựa tiêu dùng, sản phẩm nến,
v.v.; chủ yếu là hàng xuất khẩu. Toàn khu thuê gần 20 nghìn người lao động.
Năm 2006 doanh thu của khu là 1.280 tỷ VND, kim ngạch xuất khẩu là 47,3
triệu USD. Có thể thấy chỉ một KCN rõ ràng đã ảnh hưởng đến một tỉnh.
Hình 5: Bản đồ quy hoạch KCN Hòa Xá

1 Nghiên cứu này do The “Program for area studies based on needs of society” - founded
by the Japanese Ministry of Education, Culture, Sports, Science and Technology
có 5 năm và điều tra tháng 3 vừa rồi do The “Association for asian village studies
researched in 2008” - founded by the Mitsubishi UFJ Foundation triển khai.

| 769


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

3.2.1 Ðộ tuổi và trình độ văn hóa của người lao động trong KCN
Cuộc điều tra lần thứ hai1 cho biết trong các xí nghiệp của Việt Nam
người lao động dưới 30 tuổi chiếm 60%. Trong khi đó, xí nghiệp nhà nước,
người lao động dưới 20 tuổi chiếm 59% và nếu cả gồm dưới 30 tuổi là
81%. Một lý do là thời gian thành lập xí nghiệp khác nhau. Các xí nghiệp
Việt Nam đã thành lập lâu đời mà sau khi triển khai KCN, thì chuyển
vào. Vì vậy, nhiều người lao động của họ cũng làm việc tại xí nghiệp lâu

từ trước khi chuyển vào KCN. Kết luận trên được chứng nhận do kết quả
điều tra: 37% của lao động của xí nghiệp Việt Nam làm việc từ 3 - 5 năm.
Trình độ văn hóa của công nhân là đa số có bằng cấp ba, với nhân viên
văn phòng - quản lý thì có một số có bằng Cao đẳng hoặc Ðại học. Ðiều này
chứng tỏ nguồn nhân lực phong phú ở các vùng của Việt Nam.
3.2.2 Nơi sinh của người lao động trong KCN
Ðiều tra lần thứ hai cho biết rằng công nhân đều là người Nam
Ðịnh mà đa số là TP. Nam Ðịnh hoặc là xung quanh thành phố. Bên
xí nghiệp được phỏng vấn trong cuộc điều tra lần thứ ba2 cho biết khi
tuyển người lao động có xem xét nơi sinh của họ vì hiện nay chưa có ký
túc xá cho lao động. Do Nam Ðịnh có nguồn nhân lực rất phong phú và
trình độ tay nghề khá tốt nên hiện giờ chưa có vấn đề về cung cấp lực
lượng LÐ.
3.2.3 Tiền lương lao động trong KCN
Thu nhập của người lao động trong KCN trung bình là 1 triệu 500
nghìn/tháng (cả gồm tiền ngoài lương). Tuy nhiên, thu nhập trung bình
của công nhân dệt may thì chỉ được dưới 1triệu/tháng. Công nhân dệt may
chiếm số lượng lao động nhiều nhất, ở các KCN xung quanh thành phố
lớn, công nhân dệt may chiếm đến 60% - 70%. Kết quả điều tra cho thấy
một số người chuyển việc từ thành phố như KCN tỉnh Ðồng Nai, Bình
Dương, TP. Hồ Chí Minh về quê Nam Ðịnh mà không phải là do tiền lương
tốt hơn (xem Hình 6).

1 Tháng 8-9 năm 2007 hợp tác với Ban Quản lý các KCN tỉnh Nam Ðịnh.
2 Tháng 12 năm 2007, cuộc phỏng vấn với một XN trong KCN Mỹ Trung.

770 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH


Hình 6: So sánh tiền lương hiện nay và trước kia
(theo điều tra lần thứ hai năm 2007)

Đơn vị: nghìn VNĐ



'Z+PEQO G
























2 TG+PEQO G

3.2.4 Ðiều tra tháng 3 năm 2008
Vị trí của nơi điều tra cách KCN Hòa Xá 7 km, trong các gia đình xóm
B có người đi làm KCN chiếm khoảng 80%. Tiền lương trung bình của lao
động nam là 1389 nghìn VNÐ/tháng, nữ là 888 nghìn VNÐ/tháng. Trung
bình tuổi được phỏng vấn là 24,4 tuổi; trình độ học vấn trung bình là cấp III
( lớp 10,1). Trong cuộc phỏng vấn này có lao động X (nữ) là đã làm được cho
XN hiện giờ được 3 năm, một tháng đi làm 26 ngày (260,8 tiếng đồng hồ),
công việc là may mặc thì nhận được tiền lương trung bình là 724,54 nghìn
VNÐ (đã trừ phí BHXH, BHYT, v.v.).
Bảng 4: Một số chỉ tiêu của kết quả điều tra tháng 3 năm 2008
Sex

Age

Married

Household
(people)

Farmer Education Textile
Income/
(years)
month (VND)

Male(46%)


24,9

40%

4,3

86%

10,5

41%

1.388.829

Female(54%)

24,6

67%

4,5

80%

9,7

84%

888.277


Average

24,8

55%

4,4

83%

10,1

65%

1.121.489

Trong cuộc điều tra cũng phỏng vấn một số người đi xa về, họ chuyển
việc về quê từ khoảng năm 2004 - 2005 là vì khi đó KCN bắt đầu được phát
triển gần nhà họ. Các gia đình của họ đều trả lời rằng cho dù tiền lương

| 771


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

thấp mà làm việc ổn định trong nhà máy gần nhà là sướng rồi, so với việc
làm ruộng. Cuộc điều tra này cũng cho thấy trong vùng như làng này vẫn
còn nhiều lực lượng LÐ trẻ và có qua đào tạo tốt.
3.2.5 “Kinh tế để ăn” và “Kinh tế lấy tiền”
Theo nghiên cứu của GS.TS. Sakurai có “Kinh tế (KT) để ăn” và “KT

lấy tiền”. “KT để ăn” được hiểu là mức chi phí tối thiểu để duy trì sinh hoạt
của một gia đình. “Kinh tế lấy tiền” được hiểu là mức tích lũy thêm của gia
đình. Khi “kinh tế để ăn” ổn định thì mới phát triển bền vững được. Vì theo
điều tra thực tế, có một số lao động mặc dù đi làm ở các KCN Biên hòa,...
có mức thu nhập cao nhưng không đủ mức sinh hoạt tối thiểu, tức là kinh
tế để ăn không ổn định. Vì vậy, mô hình SÐTV sẽ giúp gia đình người lao
động trong khu vực có “kinh tế để ăn” bền vững.
Theo bộ môn truyền thống (nông-lâm-ngư nghiệp), cần giảm người lao
động trong khu vực nông nghiệp và tăng trong khu vực công nghiệp để
thực hiện CNH-HĐH, nhưng vẫn giữ sản xuất nông nghiệp như cũ bằng
cách áp dụng khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động để duy trì kinh tế
để ăn bền vững. Mặc dù trong giai đoạn đầu này thì mức thu nhập của gia
đình chưa tăng cao được nhưng với mức chi phí lương cho người lao động
thấp tương đối lại thu hút được đầu tư nước ngoài, bù lại nước sở tại sẽ tích
lũy được vốn, chuyển giao được công nghệ...; từ đó để chuẩn bị cất cánh.

4. Kết luận
Trả lời cho vấn đề đã đặt ra ở đầu bài viết, việc CNH-HĐH của Việt Nam
mới chỉ được tập trung ở xung quanh các thành phố lớn như TP. HCM và Hà
Nội, ví dụ như tỉnh Bình Dương đã thu hút lực lượng LÐ trong KCN mạnh
(xem Hình 2); thì rõ ràng là tiền lương lao động sẽ tăng rất nhanh mặc dù
các vùng khác vẫn còn lực lượng LÐ dôi dư. Cho nên, xung quanh các thành
phố lớn đã phát triển nhanh chóng, thu hút đầu tư và lực lượng lao động
từ cả nước mà vẫn tiếp tục xây dựng mới KCN thì sẽ gây ra không ít vấn đề.
Thế nên hiện tại, Việt Nam cần tranh thủ phát huy lợi thế của mình. Bài này
đã đóng góp một góp một gợi ý để mong muốn Việt Nam tiếp tục phát triển
bền vững và hiệu quả hơn nữa. Sau đây là một số kết luận:
1) Mô hình SÐTV
Mô hình SÐTV có thể áp dụng với các điều kiện đã được trình bày ở
trên, mà đặc biệt là phạm vi thu hút lực lượng lao động địa phương khoảng

772 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

10 km từ KCN đến nhà của người lao động, theo kết quả của cuộc điều
tra. Với mô hình này, người lao động sẽ lựa chọn đi làm gần nhà tại địa
phương của mình mặc dù mức tiền lương thấp hơn ở các khu công nghiệp
lớn nhưng phải sống xa nhà.
2) Phát triển vùng
Nếu thực hiện được như điều kiện ở trên, xây dựng được mô hình
SÐTV tại địa phương thì từ đó sẽ thực hiện CNH-HĐH trong vùng. Tuy
nhiên, khi đã xác định xây dựng mô hình này ở một địa phương, ví dụ như
Nam Ðịnh thì cần có sự thống nhất về chính sách của cả địa phương và
Trung ương tích cực đầu tư vào Nam Ðịnh để phát triển bền vững được.
3) KTPT bền vững
Mô hình SÐTV là rất phù hợp với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Theo mật độ phân bố các KCN của Việt Nam cũng thấy sự mất cân bằng,
các KCN còn tập trung quá nhiều ở xung quanh các thành phố lớn, gây ra
rất nhiều vấn đề về đô thị hóa, di dân, môi trường... Vì vậy, khuyến khích
xây dựng KCN tại các địa phương, thực hiện được mô hình SÐTV, tạo việc
làm cho người lao động của địa phương, đào tạo tay nghề cho họ, giúp họ
nắm được công nghệ cao và học hỏi được từ môi truờng làm việc của các
xí nghiệp nước ngoài thì dần dần điều kiện kinh tế - xã hội của các vùng sẽ
nâng cao lên nhiều được, từ đó cả nước sẽ phát triền bền vững.
4) KCN - thị trường
Trong thời kỳ toàn cầu hóa và thông tin cởi mở hiện nay, thông tin bay
trên đầu những người kinh doanh, họ muốn có thông tin về vấn đề gì là đều
có thể tìm thấy được. Sau khi đổi mới, Việt Nam tranh thủ hòa nhập vào thị
trường thế giới như đã ký kết WTO năm 2006. Ðồng thời, Việt Nam đã thu

hút được nhiều xí nghiệp nhà nước có quan tâm đầu tư vào thì đây là một
cơ hội lớn của Việt Nam để có thể sẽ phát triển nổi bật. Hiện tại, Việt Nam
nên cố gắng tích lũy vốn; công nghệ cao và đào tạo nhân lực để phát huy
quốc lực là lợi thế so với các nước trong khu vực và thế giới. Mặc dù ở các
địa phương xa xôi, nhưng nếu có lợi thế về nguồn nhân lực có tay nghề, giá
nhân công rẻ,... thì nhờ kỹ thuật thông tin hiện nay, sẽ thu hút được các xí
nghiệp nước ngoài và Việt Nam đến đầu tư, áp dụng được mô hình SÐTV.
Giữ được mức lương thấp tương đối so với các nước trong khu vực
là lợi thế của Việt Nam. Mô hình này giúp phát huy lợi thế đó. Các địa
phương tranh thủ xây dựng và triển khai những chiến luợc phát triển bền
vững, thu hút vốn đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, công nghệ cao, khuyến

| 773


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

khích thanh niên thành lập doanh nghiệp. Một vấn đề về CNH của Việt
Nam là bị thiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ cung cấp phụ tùng cho doanh
nghiệp NN mặc dù nhu cầu này rất lớn. Vì vậy, khuyến khích phát triển
sản xuất trong lĩnh vực này tại địa phương là một hướng quan trọng để
phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước và sau đó là tìm cách thâm nhập vào
các thị truờng khác trên toàn thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

4.

5.

6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.

Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, 2006, 15 năm Xây dựng và Phát triển các Khu công
nghiệp, Khu chế xuất ở Việt Nam, Long An.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, 2006, Số liệu thống kê việc làm và thất
nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1996-2005, Nxb LÐ-XH.
Harris, John R., Michael P. Todaro, 1970, “Migration, Unemployment &
Development: A Two-Sector Analysis”, The American Economic review 60(1),
pp. 126-142.
Lewis, W.A, 1954, “Economic development with unlimited supplies of labour”, The
manchester School of Economic and Studies 22, pp.139-191.
Kawabata Motoo, Miyanaga Masao eds, 1998, Đaikyousoujiđaino”monodukuri”
kyoten - kougyouđanchino survival senryaku (Cứ điểm “sáng tác” trong thời đại
cạnh tranh), Shinhyousha, Tokyo 1998.
M.E.Porter, 1998, On competition, Harvard Business School Press, MA, 485 trang.
Quy hoạch tổng thể Phát triển Kinh tế - Xã hội tỉnh Nam Ðịnh đến năm 2020, 2006,
UBND Tỉnh Nam Ðịnh.
Niên giám thống kê 2006, GSO.

Niên giám thống kê Tỉnh Nam Ðịnh 2006, Nxb Thống kê.
Sakurai Yumio, 2006, Sơ thám Lịch sử khu vực học - Bách Cốc, Tokyo Daigaku
Daigakuin, Tokyo.
Sangyou youchi guide 2008 (Hướng dẫn về đất đai cho doanh nghiệp 2008),
Nippon Ricchi Center.
Trần Văn Thọ,1996, Betonamu keizai no shin tenkai (Triển khai mới của kinh tế
Việt Nam), Nippon keizai shinbun sha, Tokyo.
Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, (hàng tháng).
Vietnam’s IPs, EPZs and Ezs. 2007. MPI.
Yamasaki Akira ed, 2002, Strategy for creating Industrial Clusters, Yuuhikaku,
Tokyo.
JI Zengmin, 2007, A Geographical Study on Development of Industrial Parks and
Changes in Rural Areas - A comparision of the Tokyo and Shanghai Metropolitan
Areas, Kokon Shoin Publishers, Tokyo.

774 |



×