MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trên đà phát triển, để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nhanh mạnh hơn
thì những quan hệ sản xuất phải dần được hoàn thiện. Đảng và Nhà nước đã vận dụng đúng
đắn sáng tạo tư tưởng của C.Mác để làm kim chỉ nam dẫn đường cho những bước phát triển
đó. Trong thời đại mới, khi mà quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh
mẽ chúng ta thường quan tâm đến những vấn đề của kinh tế phát triển như cổ phần hoá doanh
nghiệp, kinh tế thị trường ... mà mấy ai quan tâm đến vấn đề “ Địa tô” hay hiện nay thường gọi
là “Phí sử dụng đất đất”. tuy nhiên, đây lại một trong những vấn đề quan trọng trong dự án
phát triển kinh tế. Để tìm câu trả lời cho những câu hỏi: Đất đai thuộc sở hữu của ai? Quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất? Hay khi kinh doanh nông nghiệp thì tiền thuê đất là bao
nhiêu?... Chúng ta phải phân tích lý luận về địa tô của Mác, từ đó tìm hiểu Nhà nước ta đã vận
dụng ra sao và đề ra những qui định, hạn mức gì? Từ đó ta có đề tài: "Lý luận về địa tô của
C.Mác và sự vận dụng lý luận này trong quản lý đất đai ở Việt Nam hiện nay”.
NỘI DUNG
I.Cơ sở lí luận :
1.Địa tô tư bản chủ nghĩa: Địa tô tư bản chủ nghĩa là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi
nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp do công nhân nông nghiệp sáng tạo ra
và nôp cho địa chủ với tư cách là kẻ sở hữu ruộng đất.
2.Bản chất của địa tô:
Nhà tư bản nông nghiệp tiến hành kinh doanh chiếm đoạt một số giá trị thặng dư do công
nhân nông nghiệp mà họ thuê mướn tạo ra. Tuy nhiên, họ không thể chiếm hết giá trị thặng dư
mà phải cắt một phần cho địa chủ. Vì vậy, nhà tư bản kinh doanh ngoài việc đảm bảo thu được
lợi nhuận bình quân do họ bỏ ra còn phải đảm bảo thu được giá trị thặng dư vượt ngoài lợi
nhuận bình quân đó-một khoản lợi nhuận siêu ngạch thường xuyên và tương đối ổn định, do
công nhân tạo ra. Có khi địa chủ không cho thuê ruộng đất mà tự mình thuê công nhân khai
thác ruộng đất của mình, địa chủ hưởng cả địa tô và lợi nhuận. Như vậy, địa tô thực chất là
phương tiện để bọn địa chủ bóc lột sức lao động của người làm thuê. Nhưng sự bóc lột này
không thể hiện trực tiếp mà gián tiếp thông qua tư bản kinh doanh ruộng đất. Vậy tại sao nhà
tư bản có thể thu được phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, trả cho chủ
ruộng đất để tạo thành địa tô tư bản chủ nghĩa? Việc nghiên cứu địa tô chênh lệch và đia tô
tuyệt đối sẽ giải thích điều đó.
3. Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa:
3.1.Địa tô chênh lệch:
1
Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân thu được trên những
điều kiện sản xuất thuận lợi hơn, hoặc do áp dụng hiệu quả kĩ thuật thâm canh. Nó là số chênh
lệch giữa giá cả chung của của nông phẩm quyết định bởi điều kiện sản xuất đất xấu nhất với
giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất trung bình và tốt. Nó sinh ra do độc quyền kinh doanh và
độc quyền chiếm hữu ruộng đất nên cuối cùng lại lọt vào tay chủ ruộng đất. Địa tô chênh lệch
gồm:
3.1.1. Địa tô chênh lệch I:
Địa tô chênh lệch I là địa tô gắn chặt với điều kiện tự nhiên vốn có của đất đai, phát sinh trên
cơ sở việc sử dụng đất đai có điều kiện sản xuất tốt, trung bình so với đất xấu.Do đất đai có
điều kiện tự nhiên khác nhau, chế độ màu mỡ khác nhau (nguồn nước, khí hậu, độ phì
nhiêu…). Ngoài ra vị trí ruộng đất cũng quyết định rất nhiều đến địa tô chênh lệch I. Ví trí
thuận lợi, giao thông phát triển, gần khu dân cư thành phố,…sẽ tiết kiệm được lượng lớn chi
phí lưu thông và dễ dàng cho việc tiêu thụ. Do đó tư bản kinh doanh cũng được hưởng lợi
nhuận siêu ngạch cao hơn. Ví dụ( xem bảng phụ lục 1) ( Hình 1)
3.1.2. Địa tô chênh lệch II:
Địa tô chênh lệch II là phần địa tô hình thành gắn liền với quá tình đầu tư thâm canh tăng
hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà tư bản khi sử dụng đất đai. Tuy nhiên sau mỗi thời kì
hợp đồng thuê đất thì nó thuộc về chủ đất. Do trình độ kĩ thuật, khả năng áp dụng khoa học kĩ
thuật vào sản xuất, kĩ thuật tổ chức quản lý cao,…khiến kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn so
với mức trung bình của xã hội. Dẫn đến tình trạng cùng trên một diện tích đất hoặc trên các
diện tích đất có cùng điều kiện như nhau nhưng kết quả kinh doanh của mỗi cá nhân có sự
khác biệt. Ví dụ (xem bảng phụ lục 2).( Hình 2)
Địa tô chênh lệch II thực chất là lợi nhuận siêu ngạch của nhà tư bản có năng lực.Chừng nào
thời hạn thuê đất còn thì tư bản bỏ túi lợi nhuận siêu ngạch. Nhưng hết hạn hợp đồng thì chủ
ruộng tìm cách nâng địa tô lên để giành lợi nhuận siêu ngạch đó, biến nó thành địa tô chênh
lệch. Vì thế chủ ruộng muốn thuê ruộng đất ngắn hạn còn nhà tư bản muốn thuê ruộng dài
hạn.Cũng vì thế, nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp không muốn bỏ ra số vốn lớn hơn
để tiến hành cải tiến kĩ thuật cải tạo đất đai vì như vậy tốn thời gian thu hồi vốn và cuối cùng
chủ đất sẽ hưởng hết lợi ích cải tiến đó. Nhà tư bản thuê ruộng đất để có lợi nhuận cao nhất chỉ
khi tận dụng hết độ màu mỡ trong thời gian thuê đất. Ví dụ điển hình là ở Mỹ trước đây, chế độ
thâm canh bất hợp lí đã làm hơn 16 triệu ha ruộng đất vốn màu mỡ bị bạc màu hoàn toàn.
3.2. Địa tô tuyệt đối:
Khi ngiên cứu địa tô chênh lệch thì dường như đất canh tác xấu nhất không phải nộp địa tô.
Nhưng trên thực tế, đất canh tác vẫn phải nộp địa tô. Đó là địa tô tuyệt đối. Địa tuyệt đối là
một phần giá trị thặng dư mà địa chủ thu đươc dựa vào sự độc quyền tư hữu ruộng đất. Đó là
2
số dư ra của giá trị so với giá cả sản xuất của nông phẩm. Dưới chế độ tư bản, nông nghiệp lạc
hậu hơn công nghiệp về kinh tế lẫn kĩ thuật. Cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp vì
vậy thấp hơn trong công nghiệp. Cho nên nếu trình độ bóc lột là ngang nhau ở các nhà tư bản
thì giá trị thặng dư sinh ra trong công nghiệp sẽ nhiều hơn giá trị thặng dư trong nông nghiệp.
Vậy địa tô chênh lệch tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận
bình quân, được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản nông nghiệp luôn thấp hơn cấu tạo
hữu cơ của tư bản công nghiệp, nó là chênh lệch giữa giá trị nông phẩm giá trị sản xuất chung.
Địa tô tuyệt đối luôn gắn liền với độc quyền tư hữu về ruông đất. Chính độc quyền tư hữu về
ruộng đất làm cho lợi nhuận siêu ngạch hình thành trong nông nghiệp không bị đem chia đi và
làm lợi nhuận siêu ngạch đó chuyển sang địa tô.
Ngoài ra còn có các loại địa tô khác như: địa tô đất xây dựng, địa tô về hầm mỏ, đại tô về các
lọa cây đặc sản, địa tô độc quyền…
II.Vận dụng lý luận địa tô của C.Mác vào việc quản lý đất đai ở Việt Nam hiện nay:
Đất đai là một tài nguyên vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố của các khu dân cư, xây dựng cơ sở
kinh tế, văn hóa, xã hội an ninh quốc phòng.
Ngày nay, khi đất nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta biến đổi toàn diện, sâu sắc, liên tục. Nó đòi hỏi Đảng và nhân
dân ta chủ động sáng tạo tìm ra quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm ở
nước ta.Những lí luận địa tô của C.Mác được Đảng và Nhà nước ta vận dụng một cách sáng
tạo trong thực tiễn quản lí đất đai của nước ta. Nhà nước ta lấy dân làm gốc,ruộng đất được
giao cho từng người dân, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang .. để sử dụng. Thực hiện sự tách rời
giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng ruộng đất nhằm sử dụng tài nguyên của đất nước một
cách hiệu quả. Nhà nước ta thật sự là đúng đắn, bởi lẽ để trong tay địa chủ thì sự độc quyền tư
hữu ruộng đất không chỉ tạo ra sự chiếm đoạt địa tô, chiếm đoạt sản phẩm lao động của người
khác, làm giá cả nông sản cao lên, gây thiềt hại cho xã hội, đem lại sự giàu có cho một nhóm
địa chủ, mà chế độ tư hữu, còn hạn chế tư bản đầu tư thâm canh,cản trở sự phát triển của một
nền nông nghiệp hợp lý, làm cạn kiệt độ màu mỡ của đất đai. Chính nhờ sự phân tích nghiên
cứu về địa tô đã làm cho chúng ta nhận thức rằng cần xoá bỏ chế độ tư hữu ruộng đất, biến
ruộng đất của tư nhân thành ruộng đất của nhà nước xoá bỏ địa tô tuyệt đối, thông qua con
đường quốc hữu hoá ruộng đất.Mặc dù vậy, địa tô chênh lệch vẫn còn.
Để bổ sung cho nguồn ngân sách và quản lí đất đai hiệu quả những người thuê đất phải đóng
thuế cho nhà nước. Thuế này khác xa với địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa vì thuế
này tập trung vào ngân sách mang lại lợi ích cho toàn dân, nó không mang bản chất bóc lột của
địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa...
3
Việc vận dụng lý luận địa tô của Mác vào quản lý đất đai ở nước ta hiên nay thể hiện rõ trên
ba phương diện là: Vận dụng trong luật đất đai và vận dụng trong thuế nông nghiệp, và vận
dụng trong việc cho thuê đất.
1. Vận dụng trong luật đất đai
Với việc vận dụng một cách sáng tạo lí luận về địa tô của Mác, căn cứ vào Hiến pháp 2013
Quốc hội đã ban hành luật đất đai ngày 29/11/2013 để quy định một cách rõ ràng quyền và
nghĩa vụ của người dân theo những điều khoản sau :
Điều 4: Qui định rõ đất đai thuộc về Nhà nước và Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho các
đối tượng theo qui định của luật này (qui định tại điều 5).
Điều 9: Nhà nước khuyến khích người sử dụng đất đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp
dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào các việc sau đây: (1) Bảo vệ, cải tạo, làm tăng độ
màu mỡ của đất; (2)Khai hoang, phục hóa lấn biển, đưa diên tích đất trống đồi núi trọc, đất có
mặt nước hoang hóa vào sử dụng theo qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất;(3) phát triển kết cấu
hạ tầng làm tăng giá trị của đất.( Điểm này mục đích không giống như các địa chủ muốn thu
lợi về cho mình vì nhà nước ta cho nhân dân sử dụng đất một cách lâu dài nên việc cải tạo đất
góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng đất cũng như tăng lợi nhuận cho người sử dụng đất vì mục
đích phát triển chung của toàn xã hội).
Điều 113 và 114: Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất,
thu tiền khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi đất. Chính phủ qui định khung giá
các loại đất đối với từng vùng và theo từng thời gian. Việc thu thuế đất này cũng là một loại
đia tô nhưng bản chất nó đã khác so với thời kì phong kiến và tư bản chủ nghĩa vì dù phải nộp
thuế nông nghiệp nhưng thuế đó không cao và bù lại nông dân có thể tự do kinh doanh tùy ý
trên thửa đất của mình. Ví dụ có vùng trồng lúa, có vùng trồng đay, có vùng trồng cà phê…
Ngoài ra, trong pháp luật về đất đai của Nhà nước ta hiện nay còn ban hành những quy định
để người dân phải trả tiền thuê đất (một hình thức của địa tô ) khi sử dụng đất một cách tự
nguyện. Những qui định này đều rõ rang công khai và phù hợp. Điều 54 và 55 luật đất đai
2013 qui định rõ các trường hợp giao đất thu tiền và trường hợp giao đất không thu tiền sử
dụng đất. Còn việc cho thuê đất qui định cụ thể trong điều 56. Điều 108 qui định rõ căn cứ,
thời điểm tính tiền sử dụng đất và cho thuê đất (Việc giao đất đối với các loại đất có thể khái
quát theo bảng phụ lục 3)(Hình 3)
Luật đất đai đã tạo môi trường pháp lý thông thoáng và công bằng hơn đối với người sử
dụng. Đồng thời khẳng định được vai trò của nhà nước là người bảo hộ quyền và lợi ích hợp
pháp của người sử dụng đất. Điều này làm cho người sử dụng đất yên tâm đầu tư, đạt hiệu quả
cao trong sử dụng đất đai. Kết quả của việc thực hiện chính sách ruộng đất đã tạo ra bước
chuyển biến lớn trong nông nghiệp và nông thôn. Sản lượng nông nghiệp tăng trưởng tương
4
đối ổn định trong suốt giai đoạn 1995 đến 2003 (Bình quân khoảng 4,2%/năm), nghèo đói ở
khu vực nông thôn cũng giảm dần. Tỷ lệ nghèo lương thực giảm từ 25,1% (1993) xuống còn
13,6% (2002). Từng bước thực hiện mục tiêu tăng trưởng bền vững ở nông nghiệp- nông thôn.
2. Vận dụng trong thuế nông nghiệp:
Thuế nông nghiệp ở đây không hề thể hiện sự bóc lột đối với người nông dân mà đó là quyền
và nghĩa vụ của mỗi người nông dân. Để khuyến khích sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả,
thực hiện công bằng, hợp lý sự đóng góp của tổ chức, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp vào
ngân sách nhà nước. thu thuế đất với mức rất thấp để người dân có thể canh tác hiêu quả hơn.
Ví dụ: Hiện nay nhà nước ta đang có những văn bản thu thuế sử dụng đất, đối với những nhà
ở mặt đường thì mức thuế nhà đất là 15000đ/1m 2/năm. Còn với những nhà trong khu dân cư thì
thuế nhà đất là 10 000/1m2/năm..
Căn cứ vào điều 84 của hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992,
Đảng và nhà nước ta đã đưa ra luật quy định sử dụng đất nông nghiệp.
Điều 1: Tổ chức, cá nhân sử dụng đất vào sản xuất mà không sử dụng vẫn phải nộp thuế sử
dụng đất nông nghiệp. Họ vẫn được giao quyền sử dụng đất nông nghiệp mà không sử dụng
vẫn phải nộp thuế sử dông đất nông nghiệp.
Điều 2: Đất chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp là đất dùng vào sản xuất nông nghiệp bao
gồm:Đất trồng trọt; Đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản; Đất trồng rừng.
Điều 4: Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam sử dụng đất nông nghiệp phải
nộp tiền thuê đất theo quy định tại điều 29 của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, không phải
nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp theo quy định của luật này.
Điều 5: Căn cứ thuế sử dụng đất nông nghiệp:Diện tích; Hạng đất; Định suất thuế tính bằng
kilogam thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất
Điều 9: Định suất thuế một năm tính bằng kg thóc/ha của từng hạng đất sau:
(1)Đối với đất trồng cây hàng năm và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản.( Xem bảngphụ
lục 4) (2)Đối với đất trồng cây lâu năm( Xem bảng phụ lục 5) (3).Đối với cây ăn quả lâu năm
trồng trên đất trồng cây hàng năm chịu mức thuế như sau: Bằng 1,3 lần thuế đất trồng cây hàng
năm cùng hạng đất 1, hạng 2 và hạng 3; Bằng thuế đất trồng cây hàng năm cùng hạng, nếu
thuộc đất hạng 4,hạng 5 và hạng 6. (4)Đối với cây lấy gỗ và các loại cây lâu năm thu hoạch
một lần chịu mức thuế bằng 4% giá trị sản lượng khai thác.
Điều 24: Chính phủ quy định chi tiết việc giảm thuế, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp.( ví
dụ Việc giảm, miễn thuế cho những người dân có hoàn cảnh đặc biệt là một điều khác xa với
5
việc thu địa tô tư bản chủ nghĩa, điều này cho thấy sự sáng tạo của Đảng ta trong việc ứng
dụng lí luận địa tô của Mác khi đề ra chính sách thuế nông nghiệp động viên thúc đẩy người
dân sản xuất làm cho dân giàu nước mạnh. Miễn giảm thuế còn qui định ở các điều khác như
điều 21, 22, 23, 26. Ví dụ: Tổng cục thuế đã ban hành qui trình miễn giảm thuế sử dụng đất
nông nghiệp số 137/TCT/QD/NV7 ngày 21/8/2001 cho các đối tượng chính sách xã hội sau:
“Căn cứ đơn đề nghị miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệpcủa các hộ nộp thuế thuộc đối
tượng chính sách xã hội. Đội thuế xã hội kết hợp với hội đồng tư vấn thuế xã hộilên danh sách
các hộ nộp thuế thuộc diện được miễn giảm thuế như hộ gia đình có công với cách mạng, hộ
đời song có bệnh binh, hộ gia đình có nhiều khó khăn và đầu năm giảm thuế cho các hộ này”.
(theo báo pháp luật số 159 ngày 29/08/2001). ( Hình 4)
Trên đây là những ứng dụng lí luận của Mác về địa tô trong việc đề ra thuế nông nghiệp
cũng như luật đất đai để quy định nghĩa vụ quyền lợi đóng thuế của người dân. Cải cách chính
sách sử dụng thuế đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay một mặt có xu hướng giảm mức huy
động trực tiếp từ nông dân cho ngân sách Nhà nước. Mặt khác, đảm bảo công bằng giữa các tổ
chức, cá nhân nhận đất phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp. Quá trình thực hiện chính sách
thuế sử dụng đất còn có hạn chế nhất định đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu và điều chỉnh.
3. Vận dụng trong việc cho thuê đất:
Bên cạnh nghiên cứu việc thuê đất để phát triển nông nghiệp thì một điều mà chúng ta,
những người kinh doanh trong tương laiquan tâm đến,đó là việc thuê đất để kinh doanh. Hiện
nay, một số nhà kinh doanh có vốn muốn lập một công ty thì phải thuê đất của nhà nước, với
việc thuê đất này họ phải trả cho nhà nước một số tiền tương đương với diện tích cũng như vị
trí của nơi được thuê.
Điều này cho thấy sự khác biệt và sự vận dụng lí luận về địa tô của Mác của Đảng ta trong
thời đại ngày nay. Đó chính là việc nhà nước sử dụng những văn bản pháp lý quy định quyền
và nghĩa vụ của người thuê đất để người dân khi nộp tiền thuê đất đều thông suốt và tự nguyện.
Trong việc thuê đất kinh doanh thì người thuê đã thuê đất của nhà nước, sau đó phát triển kinh
doanh trên mảnh đất ấy và lấy lợi nhuận mà mình làm ra để trả cho nhà nước.Ví dụ: nhà nước
đã quy hoạch khu đô thị Định Công, xây dựng những kiôt và cho những người kinh doanh
thuê, người này có thể tự kinh doanh trên kiôt của mình, một phần lợi nhuận mà họ thu được
trong việc kinh doanh sẽ được trả cho nhà nước, số tiền đó được cho vào ngân sách nhà nước.
Hiện nay, không chỉ có việc thuê đất trong nông nghiệp trong việc kinh doanh mà nhà nước
còn cho nước ngoài thuê đất để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam, và tăng
nguồn thu cho ngân sách nhà nước. (Hình 5)
Có một hình thức thuế mà cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại rất rõ,đó là địa tô độc quyền.
Trong các thành phố lớn, ở các khu đất có vị trí thuận lợi cho xây dựng các trung tâm công
nghiệp, thương mại, dịch vụ, nhà cho thuê có khả năng thu lợi lớn thì giá thuê nhà, đất rất cao.
6
4.Nhận xét và giải pháp
Sau khi đã nghiên cứu kỹ về luật đất đai, thuế nông nghiệp cũng như trong một số lĩnh vực
kinh doanh, ta có thể khẳng định hiện nay địa tô vẫn còn tồn tại nhưng về bản chất của nó hoàn
toàn khác so với địa tô tư bản chủ nghĩa hay địa tô phong kiến. Nếu như trong xã hội phong
kiến,xã hội tư bản, người sử dụng đất phải nộp tô cho địa chủ. Tô đó là do các nhà địa chủ nắm
giữ. Thì ngày nay, địa tô hay là thuế đất, thuế nhà, tiền thuê đất đều được nộp vào ngân sách
Nhà nước. Nguồn ngân sách đó lại được dùng vào những việc công nhằm xây dựng đất nước.
Tuy nhiên trong việc sử dung lí luận của Mác về địa tô vào trong luật đất đai, thuế nông
nghiệp và một số ngành khác vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Như việc nhà nước thu đất của
nông dân với giá rất rẻ sau đó quy hoạch, xây dựng nhà ở... và cho thuê với giá rất cao. Đây
cũng là một vấn đề cần kiến nghị lên cấp có thẩm quyền nhằm có sự đền bù thỏa đáng. Ngay
việc thực hiện xoá bỏ thuế hạn điền cũng gặp nhiều vướng mắc, để thực hiện được nhanh
chóng thì các địa phương cần rà soát lại hệ thống chính sách đất đai rành mạch hoá phần diện
tích cuả từng hộ nông dân, nhất là với diện tích đất nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh ven biển, nơi
mà nhiều nông ngư dân đã chuyển nhượng quyền sử dụng cho nhau, xác định chủ sở hữu ở
những nơi này sẽ gặp khó khăn hơn trước. Bên cạnh đó việc xoá bỏ thuế hạn điền cho người
nông dân sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách của các cấp chính quyền địa phương đặc biệt
là cấp xã. Họ sẽ gặp khó khăn trong chi trả phụ cấp cho cán bộ xã đang làm việc trực tiếp. Nhà
nước nên có những hỗ trợ ngân sách trong một vài năm đầu, sau đó các địa phương phải từ
vượt lên khó khăn tận thu các nguồn để dần tự trang trải.
Mặc dù hiện nay vấn đề thu địa tô (thuế đất và tiền thuê đất) có những cải tiến vượt bậc so
với trước nhưng đôi khi vẫn gặp những bất lợi trong công tác thu tiền và chỉ đạo người dân thi
hành nghĩa vụ nộp thuế. Vì vậy, nhà nước đã phải đưa ra những giải pháp kịp thời. Các đơn vị
và cá nhân trong diện kê khai phải kê khai về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính, trong đó xem
đã nộp đủ tiền sử dụng đất hay chưa, số tiền đã nộp, đồng thời ghi tương ứng với số diện tích
đã nộp tiền sử dụng đất thì tương ứng với số tiền phần trăm so với tổng số diện tích được giao.
Cần ghi rõ phần lệ phí trước bạ đã nộp và đã đạt bao nhiêu phần trăm so với nghĩa vụ phải nộp.
C. KẾT LUẬN
Lý luận về địa tô tư bản chủ nghĩa của Mác không chỉ vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa trong nông nghiệp,mà còn là cơ sở khoa học để xây dựng chính sách thuế đối
với nông nghiệp và các ngành khác có liên quan một cách hợp lý. Đảng và Nhà nước ta đã vận
dụng lí luận này một cách hợp lí đúng đắn sáng tạo, tìm ra những phương hướng áp dụng phù
hợp với thực tiễn quản lý đất đai ở nước ta. Việc quản lý đất đai ở nước ta hiên nay cơ bản
hoàn thiện và khá tích cực song vẫn tồn tại những hạn chế đòi hỏi Đảng Nhà nước phải tích
cực khắc phục đảm bảo mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
7
PHỤ LỤC
I. Bảng biểu
Sự hình thành địa tô trung bình I thu được trên thửa ruộng có độ màu mỡ khác nhau: Ở 3
thửa ruộng 100 m2 và tỉ suất lợi nhuận bình quân (P’)= 5% ta có bảng:
Bảng 1
Loại Chi phí tư
Sản
Hao phí Giá 1sản Doanh
Lợi
Địa tô chênh
đất
bản
lượng
cá biệt
phẩm
thu
nhuận
lệch I
Tốt
100 USD
100 sp 0,1/ 1sp
1,1
1100
1000
990
TB
100 USD
100 sp 0,2/1sp
1,1
550
450
440
Xấu
100 USD
100sp
1/1sp
1,1
110
10
0
Chủ đất thu địa tô: Đất tốt: 995 USD, đất TB: 445 USD, Đất xấu 5USD => Như vậy nhà tư
bản kinh doanh dù canh tác trên thửa ruộng có điều kiện tốt như thế nào cũng chỉ thu được lợi
nhuận là 5 USD. Do chủ ruộng đất tìm cách tăng giá thuê nhằm chiếm đoạt phần lợi nhuận siêu
ngạch của nhà tư bản kinh doanh tạo ra.
Bảng 2
Lần
đầu tư
Lần 1
Lần 2
Tư bản
đầu tư
100 USD
100 USD
Số
Giá cả sản
lượng xuất cá biệt
4 tạ
25 USD
5 tạ
20 USD
Gía cả sản xuất chung
Của 1 tạ
Của TSL
25 USD
100 USD
25 USD
125 USD
Địa tô chênh
lệch II
0
25
Bảng 3
Loại đất
Khi giao
1.Đất
- Giao ổn định lâu dài cho
nông
hộ gia đình, cá nhân từ 20nghiệp
50m
- Không nộp tiền sử dụng
đất
2. Đất ở -Giao sử dụng ổn định lâu
(khu dân dài.
cư)
-Phải nộp tiền sử dụng đất
3.Đất
chuyên
Khi sử dụng
- Nộp thuế sử dụng đất hàng
năm.
- Nộp thuế chuyển quyền sử
dụng đất khi chuyển nhượng
quyền sử dụng đất
- Nộp thuế đất hàng năm.
-Nộp thuế chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, khi
chuyển quyền sử dụng đất.
-1. Giao vào quốc phòng an
- Không nộp thuế sử
nnh, lợi ích quốc gia, lợi ích
dụng đất.
8
Thu hồi đền
bù thiệt hại
hoặc trợ cấp
theo qui định
của Nhà nước
dùng
4. Đất
chưa sử
dụng
công cộng:
+ Không phải nộp tiền sử
dụng đất( miễn phí).
+ Nộp lệ phí địa chính.
2. Giao quyền sử dụng đất
vào mục đích kinh doanh.
+ Phải nộp tiền sử dụng đất.
+ Cho thuê đất
-
Nộp thuế đất.
Nộp thuế chuyển
quyền sử dụng đất khi
chuyển quyền sử dụng
đất.
- Trả tiền thuê đất trực
tiệp hoặc nhận nợ
ngân sách nhà nước
nếu góp vốn liên
doanh.
Tất cả mọi trường hợp đều phải nộp lệ phí địa chính
(nếu được phục vụ về địa chính). Tùy trường hợp
phải nộp lệ phí trước bạ
-
Bảng 4
Hạng đất
1
2
3
4
5
6
Định suất thuế
550
460
370
280
180
50
Bảng 5
Hạng đất
1
2
3
4
5
Định suất thuế
650
550
400
200
80
II. Hình ảnh
9
10