BÀI TIỂU LUẬN MÔN:
QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA, GIÁO DỤC VÀ Y TẾ
TÊN ĐỀ TÀI:
QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN
o
o
o
o
GIẢNG VIÊN:
NHÓM SINH VIÊN: NHÓM 4
LỚP : KH14 NHÂN SỰ 2
KHOA: TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÍ NHÂN SỰ
MỤC LỤC:
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1. Khái niệm:
1.2. Hoạt động biểu diễn nghệ thuật và tổ chức biểu diên nghệ thuật
1.3. Các loại hình biểu diễn nghệ thuật
1.4. Nghệ sỹ biểu diễn nghệ thuật
1.5. Đơn vị tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp
1.6. Đối tượng được tổ chức biểu diễn nghệ thuật
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT
2. Thực trạng hoạt động biểu diễn
2.1. Thực trạng về lực lượng nghệ sỹ biểu diễn (diễn viên, nhạc công):
2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật
2.3. Về công tác đào tạo
2.4. Tích cực
2.5. Tiêu cực
CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT
ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT.
3. Tầm quan trọng của quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật
3.1. Cơ quan chịu trách nhiệm quản lý
3.1.1. cơ sở pháp luật
3.1.2. Hoạt động quản lí được diễn ra cụ thể như sau
3.2. Kết quả đạt được trong công tác quản lí nhà nước về hoạt động biểu diễn nghệ
thuật
3.2.1. Về mặt tích cực
3.2.2. Về mặt hạn chế
CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ
HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN
PHẦN KẾT LUẬN
CHƯƠNG I. TỔNG QUÁT CHUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1. Khái niệm:
- Theo khoản 1 điều 2 của nghị định quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình
diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu: “ biểu diễn nghệ thuật là trình
diễn chương trình, tiết mục, vỡ diễn trực tiếp trước công chúng của người
biểu diễn”.
Nghệ thuật biểu diễn bao gồm nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau vì vậy đến nay
chưa có một khái niệm đầy đủ, chính xác. Mỗi khái niệm đưa ra chỉ bao hàm được
một khía cạnh nào đó. Tác giả Đình Quang quan niệm rằng nghệ thuật biểu diễn là
nghệ thuật tổng hợp, là một công trình tập thể. Tổng hợp vì nó bao gồm cả giá trị
văn học, hội họa, âm nhạc, vũ đạo; thể hiện ra trong câu ca, nhạc nền, điệu bộ,
dáng múa, phục trang, ánh sáng... Tập thể vì đây là công sức góp lại của nhiều
người, từ đạo diễn, tác giả, diễn viên đến nhạc sĩ... Tác giả Trần Trí Trắc thì cho
rằng nghệ thuật biểu diễn là sự thể hiện sáng tạo của nghệ sỹ trước khán giả, là
tiếng nói từ trái tim đến trái tim, từ tình cảm đến với tình cảm và trở thành một bảo
tàng sống của dân tộc. Trong hệ thống văn bản luật của nhà nước cũng nêu rõ biểu
diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp là hoạt động đưa chương trình,
tiết mục, vở diễn đến với công chúng qua sự trình diễn của diễn viên chuyên
nghiệp, thể hiện hình tượng nghệ thuật, phản ánh cuộc sống thông qua tác phẩm
sân khấu, ca, múa, nhạc...
Là hoạt động đưa chương trình, tiết mục, vở diễn đến với công chúng qua sự trình
diễn của diễn viên chuyên nghiệp, thể hiện hình tượng nghệ thuật, phản ánh cuộc
sống thông qua tác phẩm sân khấu, ca, múa, nhạc nhằm giáo dục tư tưởng, tình
cảm, đạo đức, lối sống, nâng cao dân trí, thẩm mỹ đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn
hóa tinh thần của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1.2.
Hoạt động biểu diễn nghệ thuật
và tổ chức biểu diên nghệ
thuật( theo điều 11,12,13,14,15,16 nghị định biểu diễn nghệ thuật,
trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu quy định cụ thể
như sau:
Điều 11. Biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang của tổ chức, cá nhân nước
ngoài đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam
1. Khi tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang tại trụ sở không phải đề
nghị cấp giấy phép nhưng phải thực hiện quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 7
Nghị định này.
2. Khi tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang ngoài trụ sở hoặc nơi cư
trú, phải thông qua đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều 8 Nghị định này làm thủ
tục đề nghị cấp giấy phép tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang theo
quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định này. Trường hợp mời tổ chức, cá nhân
nước ngoài, cá nhân là người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam biểu
diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 9
Nghị định này.
Điều 12. Tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang không bán vé, thu
tiền
1. Tổ chức, cá nhân tổ chức cho đoàn nghệ thuật, người Việt Nam biểu diễn nhằm
mục đích phục vụ nội bộ hoặc biểu diễn tại các cơ sở lưu trú du lịch, nhà hàng ăn
uống, giải khát không bán vé, thu tiền xem biểu diễn, không phải đề nghị cấp giấy
phép nhưng phải thực hiện các quy định có liên quan tại Điều 7 và các quy định
khác tại Nghị định này.
2. Trong chương trình biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang có sự tham gia
của cá nhân nước ngoài, cá nhân là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực
hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Nghị định này.
Điều 13. Tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang của lực lượng vũ
trang
1. Tổ chức thuộc lực lượng vũ trang tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời
trang phục vụ nội bộ, phục vụ nhiệm vụ chính trị; tổ chức, cá nhân thuộc lực
lượng vũ trang ra nước ngoài biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; tổ chức,
cá nhân thuộc lực lượng vũ trang nước ngoài vào Việt Nam biểu diễn nghệ thuật,
trình diễn thời trang thực hiện theo quy định của Bộ chủ quản.
2. Trường hợp tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang nhằm mục đích
kinh doanh thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định này.
Điều 14. Tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang của cơ quan phát
thanh, cơ quan truyền hình
1. Khi tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang trong trụ sở cơ quan phát
thanh, cơ quan truyền hình hoặc nhằm mục đích phát sóng, người đứng đầu cơ
quan phát thanh, cơ quan truyền hình chịu trách nhiệm về nội dung chương trình
và không phải đề nghị cấp giấy phép biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang.
2. Trường hợp tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang nhằm mục đích
kinh doanh, ngoài trụ sở của cơ quan phát thanh, cơ quan truyền hình thực hiện
theo quy định tại các Khoản 1 và 2 Điều 9 Nghị định này.
Điều 15. Biểu diễn nghệ thuật quần chúng
1. Khi tổ chức biểu diễn nghệ thuật quần chúng không phải đề nghị cấp giấy phép
nhưng phải thực hiện các quy định tại Điều 6, các Khoản 1, 2 và 3 Điều 7 Nghị
định này và các quy định cụ thể sau:
a) Khi tổ chức trong khu dân cư, trong nội bộ nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị
hoặc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, văn nghệ cơ sở do người tổ chức chịu
trách nhiệm;
b) Khi tổ chức ngoài phạm vi nội bộ, phải thông báo bằng văn bản về mục đích,
phạm vi, nội dung chương trình, thời gian, địa điểm biểu diễn với Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch nơi biểu diễn ít nhất 05 ngày làm việc trước ngày biểu diễn.
2. Đoàn nghệ thuật quần chúng khi biểu diễn ở địa phương khác phải thông báo
bằng văn bản cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại địa phương nơi biểu diễn ít
nhất 05 ngày làm việc trước ngày biểu diễn về nội dung chương trình, thời gian,
địa điểm biểu diễn, người chịu trách nhiệm tổ chức.
3. Đoàn nghệ thuật quần chúng khi biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang có
bán vé, thu tiền thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định này.
Điều 16. Tổ chức các cuộc thi và liên hoan các loại hình nghệ thuật
Việc tổ chức thi và liên hoan các loại hình nghệ thuật do Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch quy định.
1.3.
Các loại hình biểu diễn nghệ thuật
Theo điều 5 của nghị định định quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời
trang; thi người đẹp và người mẫu : “Loại hình nghệ thuật biểu diễn bao gồm:
Tuồng, chèo, cải lương, xiếc, múa rối, bài chòi, kịch nói, kịch dân ca, kịch câm,
nhạc kịch, giao hưởng, ca, múa, nhạc, ngâm thơ, tấu hài và các loại hình nghệ thuật
khác được thể hiện trên sân khấu thông qua diễn xuất của diễn viên chuyên
nghiệp”.
1.4.
Nghệ sỹ biểu diễn nghệ thuật
Là người được đào tạo tại các trường nghệ thuật hoặc được truyền nghề về những
loại hình nghệ thuật quy định tại Điều 5 quyết định của bộ trưởng bộ văn hoá
thông tin về việc ban hành "Quy chế hoạt động biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ
thuật chuyên nghiệp" và đang hoạt động biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp.
1.5.
Đơn vị tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp
Là đơn vị hoạt động về tổ chức biểu diễn nghệ thuật được cơ quan có thẩm quyền
ra quyết định thành lập hoặc thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp bao
gồm:
1. Đơn vị tổ chức biểu diễn nghệ thuật công lập gồm: đơn vị do Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương ra quyết định thành lập.
2. Đơn vị tổ chức biểu diễn nghệ thuật ngoài công lập gồm: đơn vị được thành lập
và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
1.6.
Đối tượng được tổ chức biểu diễn nghệ thuật
Điều 8 nghị định quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người
đẹp và người mẫu: Đối tượng biểu diễn, tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn
thời trang
1. Đối tượng tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang bao gồm:
a) Nhà hát; Đoàn nghệ thuật; Nhà Văn hóa; Trung tâm Văn hóa, Thể thao;
b) Nhà hát, đoàn nghệ thuật thuộc lực lượng vũ trang;
c) Doanh nghiệp có chức năng tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang;
d) Hội Văn học, nghệ thuật; cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật;
đ) Cơ quan phát thanh, cơ quan truyền hình;
e) Chủ địa điểm, hộ kinh doanh tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang;
2. Đối tượng biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang
a) Cá nhân là người Việt Nam;
b) Cá nhân là người nước ngoài
c) Cá nhân là người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT
2. Thực trạng hoạt động biểu diễn
2.1. Thực trạng về lực lượng nghệ sỹ biểu diễn (diễn viên, nhạc công):
Là lực lượng trung tâm của sân khấu nghệ thuật truyền thống, người diễn viên,
nhạc công đóng vai trò quan trọng trong việc tham gia vào quá trình sáng tạo nên
tác phẩm sân khấu nghệ thuật sân khấu. Tại các đơn vị nghệ thuật truyền thống
hiện nay, đa số nghệ sỹ là diễn viên, nhạc công đã lớn tuổi. Một số diễn viên, nhạc
công có trình độ chuyên môn đang kiêm nhiệm công tác quản lý nên ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng các chương trình nghệ thuật. Một số khác, diễn viên,
nhạc công đã hết tuổi làm nghề nhưng chưa đến tuổi nghỉ hưu (do bất cập về cơ
chế chính sách nên chưa thể giải quyết được vấn đề này). Vì vậy, nguồn nhân lực
tính theo chỉ tiêu biên chế được giao cơ bản là đủ, nhưng trên nên thực tế lại thiếu
hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực khi triển khai dàn dựng và biểu diễn tác phẩm
bởi số lượng nghệ sỹ tuổi cao, không còn sức làm nghề chiếm số đông trong biên
chế.
Phần lớn lực lượng diễn viên hiện nay có trình độ Trung cấp được đào tạo tại các
cơ sở đào tạo nghệ thuật chuyên nghiệp trong cả nước. Nghệ sỹ diễn viên, nhạc
công có trình độ Đại học chiếm tỷ lệ khoảng từ 17 đến 22%. Bên cạnh những nghệ
sỹ tài năng thành danh hoạt động lâu năm đã xuất hiện các tài năng trẻ sân khấu
được khẳng định qua các cuộc thi Tài năng trẻ sân khấu toàn quốc nhưng kinh
nghiệm, kiến thức chung về lịch sử, văn hoá nghệ thuật thuộc ngành, lĩnh vực còn
non yếu và chưa đủ trí, lực để đảm đương những vai diễn trong cả một chương
trình,vởdiễn.
Đối với các đơn vị nghệ thuật truyền thống chuyên nghiệp, công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ nghệ sỹ, diễn viên biểu diễn nghệ thuật truyền thống có tài, tâm
huyết với nghề được cải thiện đáng kể, với khoảng 3.000 nghệ sỹ chuyên nghiệp.
Các nghệ sỹ đã nỗ lực cố gắng, khắc phục khó khăn của cuộc sống để gìn giữ, bảo
tồn và tiếp tục phát huy vốn di sản nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Đến tháng
6.2011, đã có 191 nghệ sỹ được được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sỹ
nhân dân, 1.580 nghệ sỹ được Nhà nước trao tặng danh hiệu Nghệ sỹ ưu tú. Các
đơn vị nghệ thuật truyền thống như Tuồng, Chèo, Cải lương, Múa rối, Ca Múa
Nhạc dân tộc đã có những tác phẩm tốt, những chương trình, vở diễn hấp dẫn.
Nhiều đơn vị đã đổi mới phương thức hoạt động để đến với khán giả, đặc biệt là
khán giả vùng sâu, vùng xa, số lượng buổi diễn ngày càng tăng. Công việc sưu
tầm, sưu tập, giới thiệu một số tác phẩm Tuồng, Chèo truyền thống đã đạt được
nhiều kết quả.
Thực tế cho thấy, các đơn vị nghệ thuật sân khấu truyền thống đang thiếu tài năng
trẻ sân khấu biểu diễn; nhiều đơn vị hoạt động cầm chừng, chỉ đáp ứng đủ chỉ tiêu
đêm diễn được giao và phục vụ công tác chính trị, lễ tết, vùng sâu vùng xa; Nhiều
năm không dàn dựng được tác phẩm nghệ thuật đạt chất lượng cao vì thiếu hụt lực
lượng nghệ sỹ biểu diễn.
2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật
Cả nước hiện có khoảng 130 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp, hơn 200 đoàn nghệ
thuật xã hội hóa, hơn 42.000 đội văn nghệ cấp xã, phường, hàng trăm đội thông tin
tuyên truyền và gần 200 câu lạc bộ nghệ thuật tư nhân. Tuy nhiên, hầu như hệ thống
cơ sở vật chất của các đơn vị không đáp ứng được những yêu cầu về công năng biểu
diễn chuyên nghiệp và nhu cầu hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của công chúng.
2.3. Về công tác đào tạo:
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu, cải tiến phương pháp dạy
và học, kết hợp với truyền nghề nhưng vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả; công tác
tuyên truyền về chủ trương và chiến lược đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực
cho các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống chưa tốt. Mô hình đào tạo theo
hướng xã hội hóa xuất hiện tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn nhưng chỉ thích
hợp với các loại hình nghệ thuật khác, cả nước chưa có mô hình đào tạo diễn viên
nghệ thuật sân khấu truyền thống theo phương thức xã hội hóa.
Nguồn tuyển sinh cho sân khấu truyền thống thời gian qua đều ở tình trạng báo
động vì thưa vắng thí sinh đăng ký. Mặc dù Nhà nước đã có chế độ ưu đãi giảm
70% học phí cho sinh viên theo học sân khấu truyền thống, hằng tháng có tiền bồi
dưỡng nghề, được cấp quần áo tập và các phương tiện học tập khác nhưng số lượng
thí sinh thi vào các chuyên ngành nghệ thuật truyền thống vẫn ngày càng giảm.
2.4. Tích cực
Nghệ thuật biểu diễn truyền thống chính là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng
hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng. Loại hình nghệ thuật này không ngừng
được tái tạo và lưu truyền từ thể hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền
nghề, trình diễn và các hình thức khác
Nghệ thuật biểu diễn góp phần khơi dậy lòng yêu nước, giữ gìn và lưu truyền bản
sắc văn hóa dân tộc.
Nghệ thuật biểu diễn là tinh tế của văn hóa, là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng
chân thiện mỹ của con người, là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp
phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con
người Việt Nam.
Trong nghệ thuật biểu diễn, những vấn đề đạo đức xã hội được chuyển tải bằng
yếu tố thẩm mỹ, từ đó góp phần bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc,
đạo đức, lối sống và nhân cách. Khi cảm thụ, thưởng thức tác phẩm nghệ thuật ,
công chúng đánh giá - tiếp nhận không chỉ cảm nhận cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái
hài...
Nghệ thuật biểu diễn ca – múa – nhạc đã đáp ứng nhu cầu thưởng thức của khán
giả. Với các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp (Đoàn nghệ thuật Chèo, đoàn nghệ
thuật Cải lương, đoàn Kịch...), và các nhóm biểu diễn nghệ thuật hoạt động tự do
hàng trăm nghìn chương trình biểu diễn ca – múa – nhạc lớn nhỏ khác nhau, với đủ
các thể loại từ độc tấu, hòa tấu các loại nhạc cụ đến đơn ca, hợp ca các tiết mục hát
mới, các ca khúc nước ngoài, hát chầu văn, hát xẩm, hát quan họ, hát chèo, hát cải
lương, các tiết mục dân vũ, các tiết mục múa dân gian đương đại… đảm bảo đáp
ứng nhu cầu khách du lịch trong nước và nước ngoài.
Việc gắn nghệ thuật ca – múa – nhạc với du lịch đã phần nào đáp ứng nhu cầu vật
chất – tinh thần của nghệ sĩ. Từ việc biểu diễn các tiết mục trong chương trình ca –
múa – nhạc phục vụ khách du lịch, người nghệ sĩ sẽ được trả công theo hợp đồng
hoặc hoặc theo thỏa thuận. Các khoản thù lao này góp phần nâng cao đời sống vật
chất của người nghệ sĩ. Bên cạnh đó, chính việc đi diễn này đã góp phần rèn giũa
chuyên môn, tạo động lực trong sự đam mê nghề nghiêp cho các nghệ sĩ.
2.6.
Tiêu cực
Tuy nhiên, hoạt động tổ chức và biểu diễn nghệ thuật thời gian qua vẫn còn không
ít sai phạm. Bên cạnh nhiều vụ việc mang tính cá nhân của các ca sĩ, diễn viên như:
hát nhép, sử dụng trang phục, lời nói, hành vi phản cảm trên sân khấu, không phù
hợp thuần phong mỹ tục..., đã xảy ra nhiều sai phạm của các đơn vị và công ty tổ
chức sự kiện, biểu diễn nghệ thuật, thể hiện sự coi thường quy định của ngành
chức năng và mang tính không chuyên nghiệp. Ðã có không ít đơn vị, công ty tìm
cách lách luật, tự tiện thay đổi nội dung hoặc biểu diễn không đúng với kiểm
duyệt. Có trường hợp còn cố tình biểu diễn khi chưa được cấp phép tổ chức, ký
hợp đồng, bán vé thu tiền song không thực hiện đúng hợp đồng, bán vé quá số ghế
quy định; tự ý tăng giá vé; quảng cáo sai, không đúng chương trình, thậm chí mạo
danh các ca sĩ, diễn viên nổi tiếng để lừa khán giả, sử dụng tác phẩm biểu diễn thu
tiền mà không thực thi quyền tác giả, vi phạm tổ chức in ấn, ghi âm, ghi hình,...
Gần đây nhất, cuộc thi "Nữ hoàng biển Việt Nam 2013" tại Nha Trang (Khánh
Hòa) có nhiều sai phạm trong tổ chức, bị Cục Nghệ thuật biểu diễn thu hồi giấy
phép trước vòng chung kết diễn ra ngày 9-6, là một thí dụ. Nguyên nhân là do đơn
vị tổ chức đã không thực hiện đúng quy định về biểu diễn nghệ thuật, thi người đẹp
và người mẫu. Ban tổ chức đã khá tùy hứng, lộn xộn khi nhận thí sinh tham gia
vòng sơ khảo, không có hồ sơ, cũng không có cả ban giám khảo và quy chế hoạt
động, chấm thi khi sơ tuyển, không tổ chức thi bán kết như quy định mà tuyển
thẳng vào chung kết. Trong tháng 5 vừa qua, đơn vị tổ chức chương trình thời
trang "Ðêm hội chân dài" tại TP Hồ Chí Minh cũng đã bị xử phạt 35 triệu đồng vì
trình diễn nội y phản cảm không đúng với nội dung đã được duyệt. Trước đó, đơn
vị này còn bị nhắc nhở vì phát hành thiệp mời có hình ảnh các người mẫu bán khỏa
thân và quảng cáo rượu. Theo nhiều người tham dự, đêm hội tuy mang danh trình
diễn thời trang, nhưng thật ra chủ yếu là tập trung vào phô diễn cơ thể người mẫu...
Hiện nay cả nước có tới 130 đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp được Nhà nước bao
cấp, gần 100 đoàn hát tư nhân và 34.622 đội văn nghệ, tuy hoạt động không
chuyên nhưng mỗi năm cũng tổ chức hơn 2.400 cuộc liên hoan, hội diễn… Thành
lập ra nhiều đoàn nghệ thuật như vậy nhưnglại phân bố không hợp lý, có nơi thừa,
nơi
thiếu,chồng
chéo,
trùng
lặp
nhiều
đơn
vị
trên
một
địa
bàn.
Ngay tại Hà Nội có tới 23 đoàn nhưng công chúng và du khách quốc tế chẳng biết
xem gì và xem ở đâu. Đó là chưa kể việc tổ chức không khoa học nên dẫn đến tuỳ
tiện, manh mún. Trong tổng số 5.200 nghệ sỹ, diễn viên thì số người được đào tạo
chính quy có trình độ đại học chỉ chiếm 11%, trong khi đó số tuổi "quá đát" rất
cao, trung bình là gần 40 tuổi, mặc dù ai cũng biết "thầy già con hát trẻ
Chỉ riêng năm 2005, Cục Nghệ thuật biểu diễn đã cấp phép cho 45 ca sỹ, nhạc sỹ
hải ngoại về nước biểu diễn, cấp phép cho 26 đoàn nghệ thuật, nghệ sỹ nước ngoài
vào Việt Nam biểu diễn, gần 4 triệu băng đĩa với 600 chương trình được lưu hành
phổ biến trong công chúng.Trong khi đó, chúng ta có quá ít nhà hát để biểu diễn
nghệ thuật nhưng lại dư thừa các loại hội trường, nên việc biểu diễn trong những
cái rạp hội trường như thế vô cùng khó khăn, kể cả Nhà hát lớn Hà Nội cũng còn
quá nhiều bất tiện trong việc biểu diễn…
Hiện nay có những biểu hiện không phù hợp với truyền thống văn hóa việt
nam.Trên sân khấu nhiều nghệ sĩ trưng bày những hình ảnh không hề đẹp
mắt.Nghệ sĩ phản cảm khoe thân thể trên sân khấu.
Người đẹp, người mẫu “xé rào” thi chui không xin giấy phép ngày càng phổ biến.
CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ
HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT.
3. Tầm quan trọng của quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật
Hơn một thập niên trở lại đây, với chủ trương đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà
nước đã tạo nên một sự biến đổi và phát triển mạnh mẽ cho toàn bộ đời sống xã
hội, trong đó có văn hóa nghệ thuật. Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ngày càng đáp
ứng kịp thời, linh hoạt thị hiếu, nhu cầu khác nhau của công chúng. Các loại hình
nghệ thuật biểu diễn trở nên sinh động, phong phú với những hình thức, thể loại đa
dạng, nội dung hấp dẫn... tạo sinh khí và sắc thái mới cho đời sống tinh thần xã
hội. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, ngành nghệ thuật biểu diễn hiện nay
vẫn còn những tồn tại, bất cập. Một số quốc gia lớn đang tạo áp lực đến đời sống
văn hóa, nghệ thuật của nước ta, tác động không nhỏ vào quá trình nhận thức và thị
hiếu về nghệ thuật, thẩm mỹ, dẫn đến hiện tượng một bộ phận giới trẻ đã bị lệch
chuẩn về văn hóa. Trước sức ép về nhu cầu hưởng thụ cuộc sống, một số nghệ sỹ,
người mẫu bất chấp quy định của pháp luật, coi thường chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp dẫn đến những hành vi vi phạm về thuần phong mỹ tục, đi ngược lại truyền
thống văn hóa của dân tộc. Những hành vi sai phạm này đã tác động xấu đến nhận
thức của giới trẻ, làm suy giảm các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ của
văn học nghệ thuật đối với đời sống xã hội.
Trên toàn quốc có khoảng gần 2.000 doanh nghiệp có chức năng tổ chức biểu diễn
nghệ thuật, có khoảng gần 10.000 nghệ sĩ, người mẫu, trong đó có khoảng 1/3
ngoài công lập. Con số nghệ sĩ đông đảo, sự bùng nổ tự phát của nhiều thành phần
tham gia hoạt động biểu diễn nghệ thuật dẫn đến tình trạng cơ quan quản lý nhà
nước trên địa bàn toàn quốc không nắm được số lượng, nhân thân của các cá nhân
tham gia hoạt động biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang trên địa bàn được
giao quản lý.
Trong bối cảnh đó, việc uốn nắn, điều chỉnh, quản lý của các cơ quan Nhà nước có
chức năng đã và đang trở thành một tất yếu khách quan vì quản lý hoạt động biểu
diễn nghệ thuật tạo môi trường thuận lợi cho ngành nghệ thuật biểu diễn phát triển,
góp phần tạo nên sự ổn định về chính trị, đem lại hiệu quả kinh tế, tạo nên sự ổn
định và công bằng xã hội. Hơn nữa, quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật còn
nhằm bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
3.1. Cơ quan chịu trách nhiệm quản lý:
3.1.1. cơ sở pháp luật
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2012/NĐ-CP quy định về biểu diễn nghệ
thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản
ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu.
Điều 5 của nghị định số 79/2012/NĐ-CP này quy định rõ về cơ quan quản lí
nhà nước chịu trách nhiệm quản lí về hoạt động biểu diễn nghệ thuật, cụ thể:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời
trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca
múa nhạc, sân khấu trong phạm vi cả nước.
2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm giúp Chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và
người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu.
3. Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch thực hiện quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời
trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca
múa nhạc, sân khấu theo thẩm quyền.
4. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh) thực hiện quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn
thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình
ca múa nhạc, sân khấu tại địa phương trong phạm vi, quyền hạn của mình.
Nghị định số 76/2013/NĐ – CP ngày 16/07/2013 quy định rõ về chức năng
nhiệm vụ, quyền của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác
quản lí về hoạt động biểu diễn nghệ thuật:
1. Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm: Quản lý hoạt
động biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp
và người mẫu trực tiếp trước công chúng; phổ biến tác phẩm âm nhạc, sân khấu
trên mạng internet; phát sóng các chương trình biểu diễn nghệ thuật; phát hành, lưu
hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu trên lãnh thổ Việt
Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài.
2. Cấp giấy phép cho tổ chức, cá nhân thuộc Trung ương ra nước ngoài biểu diễn
nghệ thuật, trình diễn thời trang; tổ chức nước ngoài vào Việt Nam biểu diễn nghệ
thuật, trình diễn thời trang theo chương trình giao lưu, hợp tác văn hóa.
3. Cấp giấy phép tổ chức cuộc thi người đẹp có quy mô toàn quốc; cuộc thi người
đẹp quốc tế tại Việt Nam.
4. Cấp phép tổ chức cuộc thi người mẫu quốc tế tại Việt Nam.
5. Đình chỉ phát sóng các chương trình biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang
vi phạm quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan
6. Đình chỉ, thu hồi quyết định đã cấp theo thẩm quyền khi phát hiện tổ chức, cá
nhân vi phạm quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan.
Quyết định 39/2008/QD – BVHTTDL quy định rõ về chứ năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Cục Nghệ thuật biểu diễn trong công tác quản lí về hoạt
động biểu diễn:
1. Duyệt, cấp giấy phép công diễn chương trình, tiết mục, vở diễn ở trong nước và
có yếu tố nước ngoài cho các đối tượng:
2. Đơn vị nghệ thuật biểu diễn, đơn vị tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp
thuộc Bộ Văn hóa - Thông tin, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc
Chính phủ;
3. Đơn vị nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp thuộc Hội nghề nghiệp, cơ sở đào
tạo chuyên ngành nghệ thuật biểu diễn và các tổ chức chính trị, văn hóa, xã hội
thuộc Trung ương.
4. Đề xuất nhân sự, xây dựng chương trình nghệ thuật lớn ở trong nước và tổ chức
ra nước ngoài biểu diễn do Bộ Văn hóa Thông tin yêu cầu. 3. Đề nghị Bộ Văn
hóa - Thông tin đình chỉ hoạt động biểu diễn, những chương trình tiết mục, vở
diễn nghệ thuật, diễn viên cố tình làm trái với Quy chế này và các quy định có
liên quan.
5. Tiếp nhận hồ sơ và xin ý kiến cơ quan chức năng trước khi trình Bộ Văn hóa Thông tin cho phép đơn vị nghệ thuật Trung ương, diễn viên thuộc Trung ương
ra nước ngoài biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp.
6. Tiếp nhận hồ sơ và xin ý kiến cơ quan chức năng trước khi trình Bộ Văn hóa Thông tin cho phép:
7. Đơn vị tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp thuộc Trung ương mời đơn
vị nghệ thuật, diễn viên nước ngoài vào Việt Nam biểu diễn nghệ thuật chuyên
nghiệp;
8. Đơn vị tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp Việt Nam mời diễn viên là
người Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước biểu diễn nghệ thuật trên phạm
vi toàn quốc.
9. Phối hợp với Thanh tra Bộ Văn hóa - Thông tin thanh tra, kiểm tra việc thực
hiện Quy chế hoạt động biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp và các quy định
pháp luật có liên quan đến hoạt động biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp trên
phạm vi toàn quốc.
Thông tư liên tịch 43/2008/TTLT – BVHTTDL – BNV hướng dẫn về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn hoá, Thể thao và Du
lịch thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Văn hoá và Thông tin thuộc Uỷ
ban nhân dân cấp huyện trong công tác quản lí họat động biểu diễn nghệ thuật:
1. Cấp giấy phép cho đối tượng thuộc địa phương tổ chức biểu diễn nghệ thuật,
trình diễn thời trang.
2. Cấp giấy phép cho đoàn nghệ thuật thuộc lực lượng vũ trang; Đoàn nghệ thuật
quần chúng biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang tại địa phương.
3. Cấp giấy phép cho tổ chức thuộc địa phương phát hành, phê duyệt nội dung và
nhãn kiểm soát bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu.
4. Tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tổ chức biểu diễn tại địa điểm đã thông
báo theo quy định.
5. Đình chỉ, thu hồi giấy phép, quyết định đã cấp theo thẩm quyền khi phát hiện tổ
chức, cá nhân vi phạm quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan.
Trách nhiệm và thẩm quyền của Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh:
1. Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm: Quản lý hoạt động biểu
diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người
mẫu trực tiếp trước công chúng; phổ biến tác phẩm âm nhạc, sân khấu trên mạng
internet; phát sóng các chương trình biểu diễn nghệ thuật; phát hành, lưu hành,
kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu trong phạm vi địa phương.
2. Cấp giấy phép chotổ chức, cá nhân thuộc địa phương ra nước ngoài tổ chức biểu
diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang;
3. Cấp giấy phép cho tổ chức, cá nhân nước ngoài vào biểu diễn nghệ thuật, trình
diễn thời trang tại địa phương. Trường hợp tổ chức biểu diễn tại địa phương khác,
phải có ý kiến bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền của địa phương nơi dự
định đến biểu diễn.
4. Cấp phép tổchức cuộc thi người đẹp và người mẫu trong phạm vi địa phương.
5. Đình chỉ phát sóng các chương trình biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang
của các tổ chức thuộc địa phương vi phạm quy định của Nghị định này và pháp
luật có liên quan.
6. Đình chỉ, thu hồi quyết định đã cấp theo thẩm quyền khi phát hiện tổ chức, cá
nhân vi phạm quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan.
3.1.2. Hoạt động quản lí được diễn ra cụ thể như sau:
Để quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật một cách có hiệu quả, các cơ quan
nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực này. Cụ thể
gồm một số văn bản như sau:
- Nghị định số 79/2012/NĐ-CP Nghị định quy định về biểu diễn nghệ thuật,
trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; người lưu hành, kinh
doanh bản ghi âm, ghi ca múa nhạc, sân khấu.
- Thông tư 01/2016/TT-BVHTTDL Thông tư quy định chi tiết thi hành một
số điều của nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2012 của
Chính phủ quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người
đẹp và người mẫu; người lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi ca múa
nhạc, sân khấu và Nghị định số 15/2016/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm
2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số
79/2012/NĐ-CP.
Về chế tài xử lí: theo Nghị định số 15/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo
Cụ thể, xử phạt vi phạm quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang
được quy định tại Điều 13 Nghị định 158/2013/NĐ-CP như sau:
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi
sau đây:
a) Không thông báo bằng văn bản về nội dung chương trình biểu diễn nghệ thuật,
trình diễn thời trang đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi biểu diễn, trình diễn
theo quy định;
b) Không thông báo bằng văn bản về nội dung chương trình biểu diễn nghệ thuật,
trình diễn thời trang của tổ chức nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại Việt
Nam đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi đặt trụ sở theo quy định.
2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi tự ý thêm, bớt
lời ca, lời thoại hoặc thêm động tác diễn xuất khác với khi duyệt cho phép biểu
diễn.
3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi
sau đây:
a) Biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang không đúng nội dung ghi trong giấy
phép;
b) Sử dụng bản ghi âm để thay cho giọng hát thật của người biểu diễn hoặc thay
cho âm thanh thật của nhạc cụ độc diễn;
c) Sử dụng trang phục hoặc hóa trang không phù hợp với mục đích, nội dung biểu
diễn, trình diễn và thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa Việt Nam;
d) Biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang sau 12 giờ đêm đến 8 giờ sáng mà
không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
4. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi sau đây:
a) Biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang mà không có giấy phép;
b) Thực hiện hành vi không phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn
hóa Việt Nam hoặc hành vi làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ đối ngoại trong quá
trình tổ chức biểu diễn;
c) Tổ chức biểu diễn hoặc biểu diễn tác phẩm chưa được phép phổ biến.
5. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi sau đây:
a) Tổ chức cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước
ngoài biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang không đúng nội dung ghi trong
giấy phép;
b) Tổ chức biểu diễn cho người đã bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấm biểu
diễn hoặc trong thời hạn bị đình chỉ hoạt động biểu diễn;
c) Mua, bán, chuyển nhượng, sửa chữa, cho mượn, cho thuê giấy phép tổ chức
biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang;
d) Ra nước ngoài biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang hoặc dự thi theo quy
định phải có giấy phép mà không có giấy phép.
6. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi sau đây:
a) Tổ chức cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước
ngoài biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang mà không có giấy phép;
b) Tổ chức cho người ra nước ngoài biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang
mà không có giấy phép.
7. Phạt tiền từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức
biểu diễn tác phẩm có nội dung truyền bá tệ nạn xã hội, không phù hợp với thuần
phong mỹ tục, truyền thống văn hóa Việt Nam; xúc phạm uy tín của tổ chức,
danh dự và nhân phẩm của cá nhân.
8. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức
biểu diễn tác phẩm có nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực, tác phẩm bị cấm
biểu diễn.
9. Đình chỉ hoạt động biểu diễn từ 3 tháng đến 6 tháng đối với người biểu diễn có
một trong các hành vi sau đây:
a) Biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang có nội dung truyền bá tệ nạn xã hội,
không phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa Việt Nam; xúc
phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân;
b) Biểu diễn tác phẩm có nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực, tác phẩm bị
cấm biểu diễn.
10. Hình thức xử phạt bổ sung:
a) Đình chỉ hoạt động biểu diễn từ 1 tháng đến 3 tháng đối với người biểu diễn có
hành vi quy định tại Điểm b và Điểm c Khoản 3, Điểm b Khoản 4 Điều này;
b) Đình chỉ hoạt động tổ chức biểu diễn từ 1 tháng đến 3 tháng đối với tổ chức có
hành vi quy định tại Khoản 7 và Khoản 8 Điều này.
Bên cạnh đó Cục Nghệ thuật biểu diễn đã thực hiện tốt vai trò tham mưu với
lãnh đạo Bộ trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chỉ đạo điều
hành công tác phát triển văn học nghệ thuật trên phạm vi toàn quốc tạo cơ sở
pháp lý để các Sở, ban ngành, các đơn vị nghệ thuật hoạt động, phát triển đạt kết
quả tốt. Trong năm 2014, Cục Nghệ thuật biểu diễn đã và đang hoàn thiện các
văn bản sau:
- Đề án Quy hoạch tổng thể phát triển Nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030, trình Thủ tướng Chính phủ và đã được Thủ tướng Chính
phủ ký phê duyệt;
- Xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện “Quy hoạch phát triển nghệ thuật biểu
diễn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”, trình lãnh đạo Bộ phê duyệt
trong tháng 12 năm 2014;
- Xây dựng dự thảo Quyết định thay thế Quyết định số 180/QĐ-TTg ngày
09/6/2006 về chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề và tiền bồi dưỡng luyện tập, biểu
diễn đối với lao động lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn - đã trình Thủ tướng Chính
phủ tháng 11 năm 2014;
- Xây dựng Đề án Xác định vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức;
- Phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ xây dựng Thông tư liên tịch giữa Bộ Văn hoá,
Thể thao và Du lịch và Bộ Tài chính quy định về tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp, mã số ngạch viên chức ngành Nghệ thuật biểu diễn;
- Xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
79/2012/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ quy định về biểu
diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh
doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu;
- Xây dựng Thông tư quy định chi tiết thi hành một số điều Nghị định sửa đổi, bổ
sung một số điều Nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2012 của
Chính phủ;
- Hoàn thiện Thông tư quy định chi tiết việc cấp Thẻ hành nghề biểu diễn nghệ
thuật, trình diễn thời trang;
- Xây dựng Thông tư quy định về đấu thầu, đặt hàng, cung cấp dịch vụ sự nghiệp
công sử dụng ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn;
- Xây dựng Thông tư liên tịch giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nội vụ
về Quy chế tổ chức và hoạt động của các Câu lạc bộ Văn học;
- Thông tư ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng Nghệ thuật
trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn;
- Xây dựng và ban hành Quy chế phối hợp giữa Cục Nghệ thuật biểu diễn và các
Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành ở Trung ương: Hội Nhà văn Việt Nam,
Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt nam, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Múa Việt
Nam.
- Phối hợp xây dựng và đóng góp ý kiến một số Nghị định, Thông tư do các Cục,
Vụ trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì.
(Trong số các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, lãnh đạo Bộ đã chỉ đạo Cục
Nghệ thuật biểu diễn chuyển một số văn bản trình phê duyệt sang năm 2015 như:
Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 79/2012/NĐ-CP; Thông tư sửa đổi thông
tư 03/2013/TT-BVHTTDL; Thông tư cấp Thẻ hành nghề và Thông tư quy định
về đấu thầu, đặt hàng, cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách Nhà
nước trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)
3.2. Kết quả đạt được trong công tác quản lí nhà nước về hoạt động biểu diễn
nghệ thuật:
Từ khi Nghị định 79 được thực thi, công tác quản lý hoạt động nghệ thuật biểu
diễn trên cả nước đã có chuyển biến rõ rệt:
3.2.1. Về mặt tích cực: Với việc ban hành văn bản trên, lần đầu tiên có một Nghị
định điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực hoạt động nghệ thuật biểu diễn đã đánh dấu
bước tiến đáng kể trong công tác xây dựng pháp luật ở lĩnh vực này. Sau một thời
gian triển khai đã có những kết quả đáng ghi nhận mà nổi bật là việc khắc phục
tình trạng dàn trải, chồng chéo các văn bản quy phạm pháp luật, đơn giản hóa thủ
tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị tổ chức biểu diễn. Hoạt động
biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, thi người đẹp, người mẫu, lưu hành,
kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu... đã có những chuyển biến
tích cực, đi vào nề nếp. Các vi phạm trong hoạt động biểu diễn nghệ thuật, trình
diễn thời trang giảm mạnh, ít xảy ra tình trạng sử dụng trang phục, lời nói, hành vi
phản cảm, không phù hợp thuần phong mỹ tục; hát nhép trên sân khấu hoặc vi
phạm quá lớn trong các chương trình biểu diễn. Ưu điểm của văn bản mới này là
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp về việc xin phép cũng như đơn giản hóa thủ tục tiếp
nhận các đơn vị nghệ thuật tại địa phương.
Tạo ra được môi trường nghệ thuật trong sạch, lành mạnh, tạo hành lang pháp lý và
năng lực quản lý được nâng lên
3.2.2. Về mặt hạn chế: ở một số địa phương, việc cấp giấy phép biểu diễn, tổ chức
biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang chủ yếu thực hiện trên hồ sơ, không thực
hiện thẩm định nội dung chương trình, công tác kiểm tra, hậu kiểm còn lỏng lẻo,
chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn, trình diễn
thời trang còn quá nhẹ nên chưa đủ sức răn đe, một số điều khoản chưa phù hợp
với thực tế.
Việc cấp giấy phép công diễn, tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang
hiện nay chủ yếu được thực hiện qua việc thẩm định hồ sơ của các tổ chức, cá nhân
nên vẫn còn xảy ra tình trạng vi phạm quảng cáo không đúng sự thật, tổ chức biểu
diễn không đúng nội dung trong giấy phép. Bên cạnh đó, giấy phép tổ chức biểu
diễn nghệ thuật cấp cho các doanh nghiệp kèm theo nội dung chương trình có quá
nhiều tiết mục và nghệ sỹ biểu diễn, nhưng lại không quy định cụ thể số tiết mục,
số nghệ sỹ tham gia trong một đêm diễn. Tình trạng một số đoàn nghệ thuật đến
các cơ quan, xí nghiệp, trường học thường xuyên nài ép, vận động mua vé xem
biểu diễn gây bức xúc. Một số quán cà phê mời ca sỹ về hát dưới hình thức giao