SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"GIÁO DỤC NẾP SỐNG THANH LỊCH, VĂN MINH QUA TÁC
PHẨM: “ MỘT NGƯỜI HÀ NỘI” CỦA NGUYỄN KHẢI - NGỮ
VĂN LỚP 12"
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhân dịp kỷ niệm 1000 năm thăng Long- Hà Nội. Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội
đã đưa vào giảng dạy “ Giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho học sinh Hà Nội”
vào các cấp học như: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Nhằm khơi dậy niềm tự hào được kế thừa truyền thống thanh lịch, giữ gìn
nét văn hóa đặc trưng của người Hà Nội, qua đó tạo sự chuyển biến từng bước về nhận
thức hành vi cho học sinh, góp phần đào tạo, xây dựng thế hệ người Hà Nội thanh lịch,
văn minh để xây dựng Thủ đô và đất nước phồn vinh, giàu mạnh.
Để giúp mỗi người hình thành và giữ nếp sống thanh lịch, văn minh phải là một
quá trình liên tục. Làm cho mọi người nâng cao nhận thức về giá trị của nếp sống thanh
lịch, văn minh, ý nghĩa của việc xây dựng đời sống văn hóa Thủ đô. Ở nhà trường cần
xây dựng nếp sống thanh lịch , văn minh cho học sinh thông qua các hoạt động giáo dục
và những bài học cụ thể, từ định hướng đến chỉ dẫn hành vi, trong sinh hoạt trong học tập
và trong giao tiếp ứng xử góp phần hình thành nhân cách, phong cách của người Hà Nội.
Trên thực tế các trường trên địa bàn của thành phố Hà Nội đã đang giảng dạy giáo
dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho học sinh Hà Nội vào trong các bộ môn như:
chuyên đề giảng dạy thanh lịch, văn minh vào tiết học trong tuần ở thời khóa biểu chính
khóa của nhà trường mỗi tuần một tiết cho các lớp học, các hoạt động ngoài giờ lên lớp
và một số bộ môn như Giáo dục công dân, Địa lí, Văn học… cũng đang sử dụng phương
pháp tích hợp để giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho học sinh với đặc thù riêng
của bộ môn học sao cho các em hiểu và tiếp cận một cách nhanh nhất.
Vì vậy trường THPT Ba Vì mà tôi đang công tác giảng dạy cũng đã và đang giáo
dục truyền thống văn hóa của Hà Nội, để nhằm giúp các em hiểu được thế nào là thanh
lịch, văn minh của người Hà Nội. Bản thân tôi là một giáo viên dạy văn được tiếp cận với
rất nhiều tác phẩm văn học đã thể hiện nét đẹp và truyền thống văn hóa của người Hà Nội
vì thế tôi cũng muốn cung cấp thêm cho các em nhữn kiến thức về nét đẹp thanh lịch, văn
minh của người Hà Nội xưa và nay. Nhằm giúp các em hiểu và xây dựng nếp sống thanh
lịch, văn minh vừa là trách nhiệm vừa là niềm tự hào cũng là khát vọng của mỗi người
Hà Nội luôn hướng tới.
Đây cũng chính là lí do để tôi thực hiện đề tài này của mình nhằm để giúp học sinh
của trường hiểu và gìn giữ nét đẹp văn hóa Hà Nội mà mình đã và đang được thừa
hưởng.
II. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
1. Cơ sở lý luận:
2
Thanh lịch văn minh là nét đẹp truyền thống đã được nhiều thế hệ người dân Hà
nội tạo nên và lưu giữ. Trân trọng, kế thừa và phát huy nét đẹp ấy trong đời sống người
Hà Nội hôm nay và mai sau là trách nhiệm, là niềm tự hào và vinh dự của người dân Thủ
đô trong đó có thế hệ trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường.
Nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội có những biểu hiện vô cùng
phong phú và có giá trị văn hóa cao, đó là những nét đẹp văn hóa đặc trưng của người Hà
Nội. Văn minh trong sinh hoạt trong học tập làm việc và giao tiếp ứng xử trong gia đình,
nhà trường, ở nơi công cộng với người nước ngoài và với thiên nhiên môi trường.
Thanh lịch là gì? Đó là “ thanh nhã và lịch thiệp” là một khuynh hướng thẩm mĩ
thiên về sự nhã nhặn và lịch thiệp đã trở thành nét đẹp trong nếp sống người Hà Nội. Đó
là nét đẹp hài hòa của diện mạo của phong cách, hành vi, sự tu dưỡng trải nghiệm của
con người. Và biểu hiện ở chiều sâu như một tính cách cơ bản, hồn cốt của con người, là
lối sống có văn hóa phù hợp với thời đại.
Văn minh là gì? Là “ nền văn hóa có đặc trưng riêng tiêu biểu cho một xã hội rộng
lớn, một thời đại hay cả nhân loại”. Văn minh biểu hiện ở trình độ phát triển cao của văn
hóa về phương diện vật chất theo hướng xóa bỏ những lạc hậu, thấp kém để xây dựng
một xã hội tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn.
Thanh lịch, văn minh là đặc trưng nổi bật trong nếp sống người Hà Nội đó là nếp
sống có văn hóa tích cực tiến bộ phù hợp với các giá trị sống của cộng đồng. Người thanh
lịch văn minh là người có dáng vẻ hành vi trang nhã, giao tiếp ứng xử lịch sự, thể hiện sự
tiến bộ hiểu biết phù hợp với thời đại với dân tộc.
Lịch sử của Hà Nội với 1000 năm tuổi có điều kiện tự nhiên đất đai trù phú, địa
hình thuận lợi, khí hậu ôn hòa. Sự ưu đãi của thiên nhiên đã làm cho Hà Nội là “ Chốn
hội tụ của bốn phương đất nước" “ muôn vật phong phú tốt tươi” đã làm cho Hà Nội là
một đô thị lớn bậc nhất của nước ta “ Thứ nhất kinh kì, thứ nhì phố Hiến” là sự phồn
thịnh về kinh tế, phát triển về văn hóa. Đây cũng là nơi hội tụ của các tài năng tinh hoa về
trí tuệ tiêu biểu của dân tộc Việt Nam để tạo nên những nét đẹp truyền thống mang màu
sắc riêng của mảnh đất ngàn năm văn hiến.
Bản sắc văn hóa Thăng Long - Hà Nội thể hiện độc đáo của vùng văn hóa dân cư
Hà Nội. Có thể hình dung chân dung văn hóa con người Hà Nội với những giá trị nổi bật
như sự lịch lãm, tinh tế, hào hoa trí tuệ, có nghĩa khí, giàu lòng yêu nước, tình nhân ái,
yêu chuộng hòa bình; người Hà Nội trang nhã, nền nã, hướng nội sâu sắc, quan hệ rộng
mở, có bản lĩnh và tự trọng.
Một trong những nét nổi bật trong bản sắc văn hóa riêng của người Hà Nội là thanh
lịch, văn minh. Đây là kết quả của sự hội tụ, kết tinh những giá trị trong và quốc tế trên
3
trục văn hóa Bắc- Nam, Đông- Tây. Đồng thời, nhiều giá trị văn hóa của các vùng đất
khác khi được “ Hà Nội hóa” đã mang giá trị mới- kết quả của quá trình lan tỏa những
tinh hoa văn hóa Thăng Long- Hà Nội.
Vì thế chúng ta đã biết, nhà trường phổ thông có chức năng cơ bản là hình thành
và phát triển nhân cách của học sinh, có nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức công tác giảng dạy,
học tập và các hoạt động giáo dục khác trong và ngoài nhà trường theo mục tiêu,
chương trình giáo dục của từng bậc học, cấp học. Nhà trường là nơi đào tạo thế hệ trẻ,
những người chủ tương lai của đất nước, những người sẽ làm nhiệm vụ tuyên truyền
giáo dục sau này. Nếu họ có đầy đủ những nhận thức về thanh lịch, văn minh của Hà
Nội, thì từ khi đang học trên ghế nhà trường và cho đến khi ra trường, dù họ làm việc
gì, ở bất cứ nơi đâu, bất kì cương vị hoạt động nào, cũng đều có thể thực hiện nhiệm
vụ của mình là tuyên truyền giáo dục cho mọi người hiểu thế nào là thanh lịch, văn
minh của người Hà Nội. Ở trường THPT, việc truyền thụ kiến thức giáo dục ý thức về
nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội đến học sinh thuận lợi và hiệu quả
nhất vẫn là hình thức tích hợp và lồng ghép vào các môn học. Hiện nay, nội dung này
đã và đang được triển khai, phổ biến rộng rãi trong giờ học kể cả chính khóa lẫn ngoại
khóa, đặc biệt là lồng ghép trong các môn học như: Ngữ văn, Địa lí, Giáo dục công
dân...
2. Cơ sở thực tiễn:
Môn Ngữ văn với những đặc trưng bộ môn- vừa có tính chất khoa học vừa có tính
chất nghệ thuật. Chương trình Ngữ văn lớp 12 có một số bài học có liên quan đến nếp
sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội . Do vậy, đây chính là điều kiện thuận lợi
để giáo viên có thể tích hợp, lồng ghép nội dung giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh
của người Hà Nội vào một số bài học. Tuy nhiên, trong thực tế cho thấy việc giảng dạy
còn chưa được một số giáo viên thực sự chú trọng đến nội dung này, nên chưa phù hợp
với yêu cầu xã hội. Chính vì vậy việc lồng ghép nội dung giáo dục giáo dục nếp sống
thanh lịch, văn minh của người Hà Nội vào môn học này vẫn chưa được thực hiện một
cách triệt để.
Nên giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội đang là nhiệm vụ
cấp thiết đối với mỗi trường học trong sở giáo dục Hà Nội vì thế Trường THPT Ba Vì
cũng không là ngoại lệ. Nhằm để giúp học sinh hiểu rõ nếp sống thanh lịch, văn minh
của người Hà Nội vì người Hà Nội rất thanh lịch văn minh trong sinh hoạt, đời sống,
trong làm việc và vui chơi. Bởi vậy ta có thể nhận thấy phong cách thanh lịch, văn minh
trong ẩm thực trong trang phục và trong giao tiếp ứng xử của người Hà Nội đã đi vào
văn chương Việt Nam một cách sâu đậm.
4
Với môn ngữ văn trong trường THPT đã thể hiện được rất rõ nét đẹp văn hóa thanh
lịch, văn minh của người Hà Nội. Hà Nội là thủ đô, nơi hội tụ, gạn lọc, kết tinh và lan
tỏa hoa ra cả nước. Trong thời đại hội nhập, sự hội tụ lan tỏa của Hà Nội còn rộng ra với
cả thế giới. Hà Nội là đầu mối giao lưu quốc tế, có đại sứ quán của các nước, có nhều
người nước ngoài sinh sống và làm việc, du lịch.
Người Hà Nội vừa tự hào về truyền thống thanh lịch của đất đô thành, vừa đại diện
cho nhân dân cả nước tự hào giới thiệu về văn hóa Việt Nam, đất nước con người Việt
Nam. Người Hà Nội cần hiểu sâu về lịch sử Việt Nam, văn hóa Việt Nam và nét đẹp đặc
trưng của văn hóa Hà Nội là thanh lịch; có khả năng giới thiệu với bạn bè bốn phương về
văn hóa ẩm thực Hà Nội, đặc biệt là về phở Hà Nội, về cách ăn bằng bát đũa; về cái áo
dài duyên dáng, về phố cổ, về Hồ Gươm, về hát chèo, về ca trù và rối nước…Thể hiện sự
hào hoa, người Hà Nội sẵn sàng đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng về văn hóa của bạn bè,
rộng rãi, phóng khoáng trong giao tiếp.
Xuất phát từ những lý do trên đã tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “GIÁO DỤC
NẾP SỐNG THANH LỊCH, VĂN MINH QUA TÁC PHẨM: “ MỘT NGƯỜI HÀ
NỘI” CỦA NGUYỄN KHẢI - NGỮ VĂN LỚP 12.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu nội dung: “GIÁO DỤC NẾP SỐNG THANH LỊCH, VĂN
MINH QUA TÁC PHẨM: “ MỘT NGƯỜI HÀ NỘI” CỦA NGUYỄN KHẢI- NGỮ
VĂN LỚP 12 và qua một số bài học trong môn Ngữ văn lớp 12- THPT để góp phần giáo
dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho HS.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng:
Học sinh lớp 12A8 và lớp 12A9 của trường THPT Ba Vì năm học 2011-2012.
2. Phạm vi:
Phạm vi của đề tài tập trung vào các bài: Một người Hà Nội- Nguyễn Khải, Mùa lá
rụng trong vườn- Ma Văn Kháng trong chương trình Ngữ văn lớp 12.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Phân tích và hệ thống hóa các tài liệu có liên
quan đến đề tài trên báo chí và nhiều tài liệu khác.
- Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành thí nghiệm ở các giờ dạy trên lớp từ bản
thân.
5
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. NHỮNG BIỂU HIỆN NÉT ĐẸP VĂN HÓA CỦA NGƯỜI HÀ NỘI.
“ Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng là người Tràng An”
Đã có biết bao nhà văn nhà thơ thể hiện tình yêu của mình với mảnh đất văn hiến
ấy. Mỗi người đều thể hiện tình yêu của mình với Hà Nội với các góc độ khác nhau như
nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Đình Thi, Thạch Lam, Vũ
Bằng…sự cảm nhận tinh tế về Hà Nội đã đi vào văn thơ của họ một cách thơ mộng và
lãng mạn, đã gây ấn tượng với người đọc nhất là những người yêu và gắn bó với mảnh
đất văn hiến ấy. Bởi người Hà Nội có những nét biểu hiện tinh tế về vẻ đẹp văn hóa của
mình.
1. Người Hà Nội họ rất tinh tế thanh cảnh trong ẩm thực:
Thể hiện sự thành thạo trong việc lựa chọn, chế biến trình bày thưởng thức các món
ăn nhiều màu sắc. Vì người Hà Nội luôn quan niệm ăn không chỉ bằng miệng mà bằng
mắt bằng tai…là đặc trưng ẩm thực mà người Hà Nội nâng lên thành nét đẹp văn hóa.
Tạo nên những món ăn nổi tiếng trở thành đặc sản Hà Thành như: Phở, bún thang, chả cá
Lã Vọng, cốm làng Vòng, bánh cuốn Thanh Trì, bánh tôm Hồ Tây…đã được nhà văn
Nguyễn Tuân thể hiện trong tác phẩm “ Phở” hay “ Hà Nội 36 phố phường”- Thạch Lam.
Người Hà Nội ăn uống thanh đạm, thanh cảnh, coi trọng chất lượng hơn coi trọng
việc thưởng thức chứ không chỉ đáp ứng nhu cầu về vật chất. Ngay cả khi xơi bát cơm
cũng không được xơi đầy, khi ăn phải từ tốn thưởng thức hương vị của từng món, vừa ăn
vừa trò chuyện, nhai nuốt thong thả. Họ luôn coi trọng phép lịch sự trong ăn uống nên
với người Hà Nội thì “ Lời chào cao hơn mâm cỗ” họ rất coi trọng nề nếp.
6
2. Người Hà Nội luôn chỉnh tề, nền nã trong trang phục:
Họ luôn thể hện sự am hiểu của mình trong trang phục hằng ngày. Cách ăn mặc đẹp
phù hợp, lịch sự thể hiện thái độ vừa tự trọng vừa tôn trọng người khác trở thành nét đặc
trưng của người Hà Nội.
Trang phục của nam nữ của người già và trẻ em…luôn giữ được vẻ đẹp trang nhã,
hài hòa giản dị. Mỗi người đều ăn vận đúng với vị thế xã hội và nghề nghiệp của mình
phù hợp với điều kiện làm việc và hoàn cảnh giao tiếp. Người Hà Nội bao giờ cũng cẩn
trọng trong lựa chọn trang phục sao cho quần áo phù hợp với điều kiện thời tiết lại vừa có
tính thẩm mĩ cao. Đặc điểm khí hậu bốn mùa đã góp phần giúp Hà Nội trở thành kinh đô
thời trang Việt.
Người thanh lịch Hà Nội biết ăn diện đổi mốt mà vẫn coi trọng sự tinh tế, kín đáo,
tế nhị, không quá cầu kì, không để “cái đẹp” phủ nhận lấn lướt “ cái nết” mà vẫn toát lên
vẻ đẹp tiêu biểu thanh lịch của mình.
3. Người Hà Nội lịch thiệp tế nhị
trong giao tiếp ứng xử:
Họ luôn coi trọng giao tiếp ứng xử
trước hết trong lời ăn tiếng nói. Qua tiếng
nói người ta nhận ra tiếng nói “ Hồ Gươm”.
7
Cái thanh lịch của tiếng nói người Hà Nội là ở chỗ phát âm hay, dùng từ chuẩn xác, diễn
đạt hấp dẫn, dễ nghe. Người Hà Nội khi nói họ chọn lời hay ý đẹp, tránh thô lỗ tục tằn.
Người Hà Nội xưa nay ứng xử tại nhà, trọng lễ nghĩa, cử chỉ từ tốn khiêm nhường, thái
độ cởi mở, ân cần. biết tự trọng và tôn trọng, không khúm núm, nịnh bợ. Có cái nhìn thân
thiện, tình cảm bao dung khi giao tiếp với mọi người.
4. Người Hà Nội thể hiện nét thanh lịch, văn minh trong thưởng thức văn hóa,
nghệ thuật, vui chơi giải trí, sắp xếp nơi ăn chốn ở tôn giáo và tín ngưỡng.
Người Hà Nội biết giữ gìn sự tôn nghiêm ở lễ hội, nơi chùa chiền, đình miếu.
Không chen lấn ồn ào, cười đùa ở nơi thờ tự, tôn trọng đời sống tâm linh nhưng không
mê tín dị đoan. Biết ngả mũ nhường đường khi gặp đám tang trên đường. Không mặc cầu
kì diêm dúa khi đi đến đám tang. Đi lại nhẹ nhàng ở nơi công cộng nhất là bệnh viện.
5. Người Hà Nội ứng xử thanh lịch, văn minh ở nơi cộng cộng:
Hà Nội là nơi diễn ra nhiều hoạt động chính trị- xã hội, văn hóa thể thao, những sự
kiện trong nước và quốc tế, có sự tham gia của hàng trăm nghìn người. Người Hà Nội
luôn nghiêm cẩn chân thành, tận tình cởi mở, thân thiện hào hoa góp phần làm nên thành
công trong các hội nghị quốc tế.
Khi tham gia hoạt động tập thể, sinh hoạt văn hóa, trong rạp hát, trong hội nghị,
trong thư viện ,trong bảo tàng không nói chuyện riêng, đi lại nhẹ nhàng, xin lỗi khi đi qua
mặt người khác.
8
Khi tham gia hoạt động vui chơi, thể dục thể thao như: đá cầu, đá bóng, chơi cầu
lông… họ luôn chơi hết mình, với tinh thần cao thượng, cổ vũ vô tư trong sáng, tôn trọng
kỷ luật không làm phiền người khác.
6. Người Hà Nội ứng xử văn minh với thiên nhiên và môi trường:
Họ luôn yêu và gắn bó với thiên nhiên, gìn giữ và bảo vệ môi trương sống xanhsạch- đẹp. Người Hà Nội luôn có kiến thức và ý thức tô điểm cho thiên nhiên thêm màu
xanh của cây lá và rực rỡ sắc hoa suốt bốn mùa, tạo nên dáng vẻ một thành phố trầm mặc
cổ kính và thơ mộng nên thơ.
Những hàng cây trồng trên hè phố trong công viên, ven hồ, trên đường đi… xòe
bóng mát giữa những trưa hè oi ả. Lúc nào Hà Nội cũng như một rừng hoa với những sắc
màu rực rỡ tạo nên một vẻ đẹp riêng mà không có một thành phố nào trên thế giới có
những nét giống .
9
II. NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI GV TRONG VIỆC TÍCH HỢP GIÁO DỤC Ý
THỨC HIỂU VỀ NÉT ĐẸP THANH LỊCH, VĂN MINH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI
VÀO DẠY HỌC NGỮ VĂN
Giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh là dựa trên những tri thức về những nét
đẹp, truyền thống văn hóa nghìn năm của Hà Nội mà hình thành thái độ, ý thức, trách
nhiệm và kĩ năng sống cho HS, nhằm khơi dậy niềm tự hào được kế thừa truyền thống
thanh lịch, giữ gìn nét văn hóa đặc trưng của Hà Nội. Qua đó tạo sự chuyển biến từng
bước về nhận thức, hành vi cho học sinh, góp phần đào tạo, xây dựng thế hệ người Hà
Nội thanh lịch, văn minh, xây dựng Thủ đô và đất nước phồn vinh giàu mạnh. Đây là
một vấn đề hết sức cần thiết là một quá trình lâu dài, không phải chỉ ở HS THPT mà ở
mọi lứa tuổi, là người dân Thủ đô Hà Nội thì đều phải hiểu để xây dựng thói quen giao
tiếp thanh lịch, văn minh là cho Hà Nội thực sự trở thành một không gian văn hóa xứng
đáng với truyền thống văn hiến, anh hùng.
Là một GV giảng dạy môn Ngữ văn, thông qua một số bài học liên quan đến nếp
sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội, tôi đã cung cấp, gửi gắm các thông điệp
phong phú về giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa của Hà Nội. Nhằm giúp HS lĩnh hội
kiến thức nếp sống văn hóa thanh lịch, văn minh của người Hà Nội cụ thể : HS hiểu
được nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội xưa và đối với đời sống của các
thế hệ người dân Hà Nội nay như thế nào, thấy được những nét đẹp ấy đã và đang bị mai
một như thế nào để có ý thức gìn giữ và phát huy những nét đẹp đó . Bên cạnh đó tôi còn
giáo dục cho HS thái độ thân thiện với mọi người, có ý thức bảo vệ bản sắc văn hóa của
Hà Nội , ủng hộ những việc làm bảo vệ bản sắc văn hóa của Hà Nội và lên án, tố cáo
những hành vi làm mất đi những nét đẹp văn hóa nghìn năm tuổi của Hà Nội. Đồng thời
hình thành cho HS kĩ năng phát hiện vấn đề thể hiện nếp sống văn hóa thanh lịch, văn
minh của người Hà Nội và ứng xử tích cực với các vấn đề về văn hóa của Hà Nội có
trách nhiệm và hành động thiết thực để xây dựng thủ đô Hà Nội giàu đẹp, văn minh,
hiện đại, xứng đáng là “ Thành phố vì hòa bình”.
III. NGUYÊN TẮC, MỨC ĐỘ, PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO
VỆ NẾP SỐNG THANH LỊCH VĂN MINH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI TRONG DẠY
MÔN NGỮ VĂN
1. Nguyên tắc
Giáo dục nếp sống văn hóa thanh lịch, văn minh của người Hà Nội không phải là
một bộ môn riêng biệt mà chỉ là cách tiếp cận bộ môn. Do vậy, khi tích hợp, lồng ghép
nội dung giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội tôi luôn tuân thủ
những nguyên tắc sau:
10
- Chỉ tích hợp với những bài có nội dung thật sự liên quan đến nếp sống thanh
lịch, văn minh của người Hà Nội . Nội dung tích hợp phải đảm bảo tính chính xác.
- Phải đảm bảo đặc trưng của môn học, không biến giờ học Ngữ văn thành giờ học
giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh. Điều này có nghĩa là giờ Văn trước hết phải là
giờ Văn, giờ Tiếng Việt trước hết phải là giờ Tiếng Việt, giờ Làm văn trước hết phải là
giờ Làm văn.
- Phải đảm bảo kiến thức cơ bản, tính lôgic của nội dung bài học, không làm quá
tải lượng kiến thức và tăng thời gian của bài học. Các ví dụ, nội dung giáo dục nếp sống
thanh lịch, văn minh giáo viên đưa vào phải ngắn gọn, hấp dẫn, lôi cuốn được sự chú ý
của HS.
- Phải gây được sự hứng thú ở HS khi tích hợp nếp sống thanh lịch, văn minh của
người Hà Nội.
2. Mức độ
Việc tích hợp nội dung giáo dục nếp sống văn hóa thanh lịch, văn minh của người
Hà Nội thể hiện ở 3 mức độ: mức độ toàn phần, mức độ bộ phận và mức độ liên hệ.
- Mức độ toàn phần: Mục tiêu và nội dung của bài học phù hợp hoàn toàn với
mục tiêu và nội dung của giáo dục nếp sống văn hóa thanh lịch, văn minh của người Hà
Nội .
- Mức độ bộ phận: Chỉ có một phần bài học có mục tiêu và nội dung giáo dục nếp
sống văn hóa thanh lịch, văn minh của người Hà Nội .
- Mức độ liên hệ: Có điều kiện liên hệ một cách logic, trực tiếp như đi tham quan
lễ hội hoặc viện bảo tàng dân tộc học.
3. Phương pháp
Trong quá trình lồng ghép nội dung giáo dục nếp sống văn hóa thanh lịch, văn
minh của người Hà Nội, tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp khai thác kinh nghiệm thực tế để giáo dục: Khi tìm hiểu về văn
hóa của Hà Nội xưa và nay trên thực tế ở các phố cổ Hà Nội và trong các ngày lễ hội
diễn ra những nét văn hóa đặc trưng.
- Phương pháp giải quyết vấn đề cộng đồng : cung cấp những thông tin về văn hóa
của người Hà Nội và văn hóa ở địa phương nơi các em đang sinh sống và học tập, tổ
chức cho HS tham gia vào các lễ hội được tổ chức ở địa phương để góp phần bảo vệ nếp
sống văn hóa thanh lịch, văn minh của người Hà Nội .
11
- Phương pháp nêu gương: Muốn nét đẹp văn hóa thanh lịch, văn minh của người
Hà Nội được tồn tại mãi mãi giúp học sinh hiểu và gìn giữ thì bản thân GV phải gương
mẫu.
- Phương pháp tiếp cận kĩ năng sống gìn giữ nếp sống thanh lịch, văn minh.
IV. MỘT SỐ BÀI HỌC TÍCH HỢP, LỒNG GHÉP GIÁO DỤC NẾP SỐNG
THANH LỊCH VĂN MINH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI TRONG MÔN NGỮ VĂN
LỚP 12
1. Hệ thống những bài học có nội dung giáo dục nếp sống thanh lịch, văn
minh của người Hà Nội.
Như trên đã nói, kiến thức giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà
Nội trong môn Ngữ văn lớp 12 không được trình bày cụ thể trong từng bài rõ ràng mà
được mà phải tích hợp và lồng ghép vào nội dung bài giảng. Khảo sát toàn bộ nội dung
chương trình Ngữ văn lớp 12, tôi thấy có 2 bài học có thể tích hợp được nội dung này đó
là các bài: Một người Hà Nội- Nguyễn Khải, Mùa lá rụng trong vườn- Ma Văn Kháng.
2. Vận dụng
2.1 Bài: Mùa lá rụng trong vườn- Ma Văn Kháng.
Mục đích của tôi khi dạy bài này là muốn HS vận dụng những kĩ năng, những
hiểu biết của mình nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội để hiểu nội dung của
bài. Tôi áp dụng đúng nguyên tắc dạy học bộ môn để đảm bảo đây là giờ đọc hiểu tác
phẩm văn học. Đồng thời, tôi đã vận dụng mức độ tích hợp toàn phần và liên hệ, vận
dụng phương pháp tiếp cận kĩ năng giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh của người
Hà Nội và các cách thức trên để giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà
Nội cho các em.
Trong tác phẩm này ngoài cung cấp cho các em về kiến thức của bài để các em hiểu
về nội dung, tôi còn lồng ghép giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho học sinh để
các em hiểu rõ hơn về ngày tết cổ truyền của dân tộc nói chung của người Hà Nội nói
riêng.
Với những nét độc đáo trong việc sắm mâm ngũ quả ngày tết, làm bữa cơm tất niên
để cúng tổ tiên. Và thấy được nét đẹp đó của người Hà Nội xưa và nay đã và đang thay
đổi theo nền kinh tế thị trường như thế nào, nhằm giúp các em ý thức hơn trong việc gìn
giữ nét đẹp văn hóa đó .
12
2.2 Bài: Một người Hà Nội- Nguyễn Khải.
Trong quá trình tích hợp, tôi vận dụng phương thức tích hợp bộ phận và liên hệ,
vận dụng phương pháp khai thác kinh nghiệm thực tế để giáo dục và sử dụng cách thức:
Vận dụng kiến thức trong nội dung bài học để liên hệ thực tế có liên quan đến nếp sống
thanh lịch, văn minh của người Hà Nội thông qua nhân vật cô Hiền. Cho các em học
sinh xem các hình ảnh, clip liên quan đến nếp sống thanh lịch, văn minh, văn hóa của
người Hà Nội khi tích hợp nội dung giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh của người
Hà Nội.
Theo phân phối chương trình và sự thống nhất của tổ chuyên môn, bài học này
được dạy trong 1 tiết. Tôi hướng dẫn HS tìm hiểu vẻ đẹp và phẩm chất của nhân vật cô
Hiền và cách nhìn nhận của cô về góc độ văn hoá của Hà Nội trong thời kì kháng chiến
chống Mỹ và đất nước thời kì hòa bình. Trong lời vào bài tôi cho HS xem một đoạn clip
về văn hóa, phong tục nếp sống của người Hà Nội để tạo sự hấp dẫn, để các em trực tiếp
cảm nhận được vẻ đẹp của Thăng Long- Hà Nội bằng thị giác trước khi cảm nhận bằng
hệ thống ngôn từ trong văn bản. Trong quá trình tìm hiểu vẻ đẹp của Hà Nội ở góc độ
thiên nhiên, tôi cho HS xem một số hình ảnh về phố cổ Hà Nội để HS cảm nhận được vẻ
đẹp cổ kính, thơ mộng của Hà Nội xưa và nay. Khi tìm hiểu vẻ đẹp của cô Hiền và phẩm
chất của người Hà Nội tôi cho HS xem clip cách ứng xử văn hóa, các lễ hội của người Hà
Nội để HS thấy được vai trò của nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội trong
sự bảo tồn văn hoá và phát triển kinh tế của Hà Nội. Đồng thời tôi còn cung cấp cho HS
một số thông tin mang tính thời sự về những nét đẹp văn hóa của Hà Nội đã và đang bị
mai một do nếp sống xô bồ của thị trường…
Qua nội dung tiết học tôi đã chỉ cho các em thấy nét đẹp thanh lịch, văn minh của
người Hà Nội để các em thấy thêm yêu và tự hào vì mình là người Hà Nội. Đồng thời tôi
cũng đã cung cấp cho các em một lượng kiến thức ngoài văn bản để giáo dục cho các em
thấy được vai trò quan trọng của nếp sống thanh lịch văn minh của người Hà Nội và ý thức
trách nhiệm của mình trong việc xây dựng Thủ đô và đất nước phồn vinh, giàu mạnh.
Như vậy, thông qua hai bài học trên tôi đã giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh
của người Hà Nội cho HS ở 2 lớp tôi trực tiếp giảng dạy. Khi dạy những bài này tôi đã sử
dụng giáo án điện tử, việc sử dụng giáo án điện tử sẽ rất thuận lợi khi cung cấp hình ảnh,
clip về hiện trạng nếp sống thanh lịch,văn minh của người Hà Nội hiện nay. Được tiếp
xúc với những hình ảnh trực quan trong giáo án điện tử, các em thật sự hứng thú trong
giờ học và các em được tận mắt nhìn thấy thực trạng nếp sống thanh lịch, văn minh của
người Hà Nội xưa và nay giúp các em có những kiến thức, kĩ năng về nếp sống thanh lịch,
văn minh để từ đó hình thành ở các em ý thức kế thừa và gìn giữ nét văn hóa đặc trưng
của Hà Nội.
13
3. Thiết kế một giáo án cụ thể:
TIẾT 74: ĐỌC THÊM:
MỘT NGƯỜI HÀ NỘI
(Nguyễn Khải).
I. MỤC TIÊU THỰC HIỆN:
Giúp học sinh:
- Hiểu được nét đẹp văn hoá “kinh kì” qua cách sống của cô Hiền, một phụ nữ tiêu
biểu cho “Người Hà Nội”.
- Hình thành nếp sống văn minh, thanh lịch.
- Nhận ra một số đặc điểm nổi bật của phong cách văn xuôi Nguyễn Khải: giọng
điệu trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật.
II. PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY:
GV kết hợp các phương pháp: Phát vấn, gợi mở, giảng bình, thảo luận nhóm…
III. CHUẨN BỊ GIÁO CỤ:
* Giáo viên
: Soạn giáo án.
* Học sinh
: Soạn bài.
IV. TIẾN TRÌNH BÀI DẠY:
1. Ổn định lớp – kiểm tra sĩ số:
2. Kiểm tra bài cũ: Suy nghĩ của anh (chị) về nhân vật chị Hoài trong tiểu thuyết
“Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng?
3. Nội dung bài mới:
Hoạt động
của GV và
HS
Nội dung cần đạt
Nội dung tích hợp
I.Tìm hiểu chung
- Gv hướng 1. Tác giả
dẫn HS đọc
14
thêm.
* Tên khai sinh là Nguyễn
Hướng Mạnh Khải (1930-2008
sinh tại Hà Nội .
dẫn
tìmhiểu
* Sự nghiệp
chung.
- Những tác phẩm tiêu biểu:
- Qua phần
Tiểu dẫn
hãy tóm tắt
những nét
chính
về
cuộc đời và
sự nghiệp
của
Nguyễn
Khải?
SGK
- Nội dung sáng tác:
+ Trước 1975:
+ Tập trung về đời sống nông
thôn trong quá trình xây
dựng cuộc sống mới.
+ Hình tượng người lính
trong kháng chiến chống Mĩ
- Sau năm 1975:
+ Vấn đề xã hội-chính trị có
tính thời sự.
+ Tính cách, tư tưởng tinh
thần của con người hiện nay
trước những biến động phức
tạp của đời sống.
- Phong cách NT: Cảm hứng
triết luận với giọng văn đôn
hậu, trầm lắng, nhiều suy
ngẫm, triết lý.
- Vị trí văn học sử: một trong
những cây bút hàng đầu của
văn xuôi sau cách mạng
tháng Tám năm 1945
2. Tác phẩm
- Xuất xứ: in trong tập truyện
ngắn cùng tên của Nguyễn
Khải (1990).
15
GV: Dựa
vào phần
Tiêủ dẫn
hãy
nêu
những hiểu
biết về tác
phẩm?
- Nội dung: Truyện đã thể
hiện những khám phá, phát
hiện của Nguyễn Khải về vẻ
đẹp trong chiều sâu tâm hồn,
tính cách con người Việt Nam
qua bao biến động, thăng trầm
của đất nước.
II. Đọc-hiểu văn bản.
1. Nhân vật cô Hiền.
* Xuất thân: gia đình giàu có
lương thiện, được dạy dỗ
theo khuôn phép nhà quan.
* Một số đặc diểm thời thiếu
nữ: xinh đẹp, thông minh,
mở xa lông văn chương, giao
du rộng rãi với giới văn nghệ
sĩ Hà thành.
* Suy nghĩ và cách ứng xử
Hoạt động của cô trong từng thời đoạn
2: Hướng của đất nước:
dẫn đọchiểu
văn - Năm 1955:
+ Bối cảnh: từ kháng chiến
bản.
GV
dẫn trở về, một Hà Nội “nhỏ hơn
dắt: Nhân trước, vắng hơn trước”.
vật trung
tâm
của
truyện
ngắn là cô
Hiền. Cũng
như người
Hà
Nội
khác, cô đã
cùng
Hà
Nội, cùng
+ Nguyên nhân cô Hiền và
gia đình ở lại: “họ không thể
rời xa Hà Nội, không thể
sinh cơ lập nghiệp ở một
vùng đất khác”
=> sự gắn bó máu thịt với
Hà thành.
- Kháng chiến chống Mĩ:
+ Người con cả tình nguyện
16
đất nước
trải
qua
nhiều biến
động thăng
trầm nhưng
vẫn
giữ
được cốt
cách người
Hà Nội. Cô
sống thẳng
thắn, chân
thành,
không giấu
giém quan
điểm, thái
độ
của
mình với
mọi hiện
tượn xung
quanh.
tòng quân => phản ứng:
“Tao đau đớn mà bằng lòng,
vì tao không muốn nó sống
bám vào sự hi sinh của bạn
bè. Nó dám đi cũng là biết tự
trọng” => Nhận thức sâu sắc.
+ Người con thứ theo anh lên
đường => phản ứng: “Tao
không khuyến khích, cũng
không ngăn cản, ngăn cản
tức là bảo nó tìm đường
sống để các bạn nó phải
chết, cũng là một cách giết
chết nó”=> “Tao cũng muốn
được sống bình đẳng với các
bà mẹ khác(…), vui lẻ thì có
hay hớm gì”
=> Ý thức trách nhiệm, lòng
tự trọng của một người phụ
nữ Việt Nam yêu nước, một
GV
giới người mẹ nhân hậu, vị tha.
thiệu xuất
thân
và
một số đặc - Năm đầu Hà Nội vừa giải
điểm thời phóng
thiếu nữ.
+ Bối cảnh: Tâm lí không
đồng nhất: chúng tôi - vui
thế, tại sao những người vốn
sống ở Hà Nội - chưa thật
vui?
GV: Nhận
xét về tính
cách
cô
Hiền- nhân
vật trung
tâm
của
+ Khi con gọi cháu là “Đồng
chí Khải” => cô Hiền chỉnh
“anh Khải” ->cô Hiền dường
như chỉ chú ý đến mối quan
hệ họ hàng với “Tôi” =>
quan hệ bền vững.
17
truyện, đặc
biệt là suy
nghĩ, cách
ứng xử của
cô
trong
những thời
đoạn của
đất nước?
+ Khi người cháu hỏi: “Nước
độc lập vui quá cô nhỉ?”
Học sinh
suy nghĩ,
phát biểu
nhận xét
bổ sung.
+ Nhận xét thẳng thắn,
không giấu giếm quan điểm
với “người cách mạng” nhân vật “tôi”: Chính phủ
can thiệp nhiều vào việc của
dân quá
GV bình:
Tính cách
nhân
vật
được bộc
lộ
qua
nhiều tình
huống khác
nhau, trong
nhiều thời
điểm lịch
sử.
GV
dẫn
dắt: Con
người gắn
với
từng
biến
chuyển lớn
của lịch sử
dân tộc =>
Cái
nhìn
hiện thực
+ Trả lời: “Vui hơi nhiều, nói
cũng hơi nhiều, phải nghĩ
đến làm ăn chứ”
=> tỉnh táo, sáng suốt, nhạy
bén với hiện thực.
=> trung thực, có cái nhìn
sâu sát về thời cuộc.
* Phẩm chất
- Sinh hoạt
+ Cái ở: ở rộng quá, một tòa
nhà tọa lạc ngay ngay tại một
đường phố lớn, hướng nhà
nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và
hậu cung của đền Ngọc Sơn.
+ Cái mặc: “sang trọng quá”
+ Cái ăn: “không giống với
số đông” => so sánh với lối
ăn uống bình dân của gia
đình “tôi”
=> Khẳng định: “Cô Hiền
đích thị là tư sản”.
- Mối quan hệ với người
làm: vì chủ tớ cần dựa nhau,
18
mới
mẻ:
phản ánh
số
phận
dân tộc qua
số
phận
một
cá
nhân.
tình nghĩa như người trong
họ.
- Thông minh, tỉnh tảo và
thức thời:
+ Năm 1956, bán một trong
Trải qua hai ngôi nhà cho người
bao thăng kháng chiến ở.
trầm của + Ứng xử với chính sách cải
thời
thế, tạo tư sản của nhà nước.
bản chất, • Chồng muốn mua máy in
những nét => ngăn cản vì nhận rõ việc
đẹp
của làm này sẽ vi phạm chính
nhân
vật sách.
vẫn thống
• Mở cửa hàng đồ lưu niệm
nhất,
không bị để đảm bảo “đủ ăn” mà
phôi pha không bóc lột bất kì ai.
=>
thời - Có đầu óc thực tế:
gian là thứ + Không có lòng tự ái, sự
nước rửa ganh đua, thói thời thượng,
ảnh
làm không có cái lãng mạn hay
nổi rõ hình mơ mộng viển vông.
sắc nhân
+ Đã tính là làm, đã làm là
vật.
không để ý đến lời đàm tiếu
của thiên hạ => bản lĩnh, có
lập trường.
+ Đi lấy chồng: dù giao du
rộng nhưng chọn làm vợ một
ông giáo cấp Tiểu học hiền
lành, chăm chỉ => cả Hà Nội
“kinh ngạc”.
+Tính toán cả chuyện sinh đẻ
sao cho hợp lí, đảm bảo
19
tương lai con cái.
- Trân trọng, nâng niu, gìn
giữ truyền thống văn hoá
người Hà Nội:
+ Dặn dò bọn trẻ: “Chúng
mày là người Hà Nội thì cách
đi đứng nói năng phải có
chuẩn, không được sống tuỳ
tiện, buông tuồng”.
+ Coi việc giữ gìn nếp sống
là một cách “tự trọng, biết
xấu hổ”.
* Cô hiền “một hạt bụi
vàng” của Hà Nội.
- Nói đến hạt bụi, người ta
nghĩ đến vật nhỏ bé, tầm
GV: Vì sao thường. Có điều là hạt bụi
tác giả cho vàng thì dù nhỏ bé nhưng có
cô Hiền là giá trị quý báu.
“một hạt
bụi vàng” - Cô Hiền là hiện thân của
của
Hà những phẩm giá người Hà
Nội, là cái truyền thống cốt
Nội?
cách người Hà Nội.
Học sinh
thảo luận, 2. Các nhân vật khác trong
phát biểu. truyện.
a. Nhân vật “tôi”:
- Đó là một người đã chứng
kiến và tham gia vào nhiều
chặng đường lịch sử của dân
tộc.
- Là người yêu Hà Nội, am
20
hiểu Hà Nội.
- Rất có ý thức khẳng định
kinh nghiệm cá nhân.
- Giỏi quan sát, ưa triết luận.
GV: Nêu
cảm nghĩ
về nhân vật
“tôi”,
Dũng,
những
thanh niên
Hà Nội và
cả những
người tạo
nên “nhận
xét không
mấy
vui
vẻ”
của
nhân
vật
“tôi” về Hà
Nội?
- Là người kể chuyện- một
sáng tạo nghệ thuật sắc nét .
Học sinh
làm việc cá
nhân, phát
biểu cảm
nghĩ.
* Những con người tạo nên
những nhận xét “không Giáo viên mở rộng: một so
mấy vui vẻ” của “tôi” về sánh độc đáo nằm trong
mạch trữ tình ngoại đề của
Hà Nội.
người kể chuyện. Bản sắc Hà
- Ông bạn trẻ đạp xe như Nội, văn hóa Hà Nội là chất
gió:
vàng mười, là mỏ vàng trầm
+ Hành động : đạp xe nhanh, tĩnh được bồi đắp, tích tụ từ
đâm vào người khác.
biết bao hạt bụi vàng như bà
+ Ngôn ngữ: tiếng chửi “tiên Hiền.
.
b. Những người Hà Nội
khác
* Dũng, Tuất, mẹ Tuất:
Dũng, Tuất: những thanh
niên yêu nước, quả cảm.
- Mẹ Tuất: bà mẹ Việt Nam
nhân hậu, giàu đức hi sinh.
=> Những con người cùng
với cô Hiền tiếp lửa cho
ngọn đuốc văn hoá truyền
thống của đất kinh kì cháy
sáng.
GV giảng bình: Trên những
chặng đường ấy, nhân vật
“tôi” đã có những quan sát
tinh tế, cảm nhận nhạy bén,
sắc sảo, đặc biệt là về nhân
vật cô Hiền, về Hà Nội và
người Hà Nội. Ẩn sâu trong
giọng điệu vừa vui đùa, khôi
hài, vừa khôn ngoan, trải đời
là hình ảnh một người gắn bó
thiết tha với vận mệnh đất
nước, trân trọng những giá trị
văn hóa của dân tộc.
sư cái anh già”
-> thô tục, vô văn hóa, không
biết lễ độ.
21
- Những người mà nhân vật
tôi quên đường hỏi thăm:
GV:
Chuyện
cây si cổ
thụ ở đền
Ngọc Sơn
bị bão đánh
bật rễ rồi
lại hồi sinh
gợi
cho
anh (chị)
suy
nghĩ
gì?
+ Hành động: trả lời bâng
quơ, giương mắt nhìn, hất
cằm..
-> hám lợi, bị danh vị, hình
thức, tiền tài cám dỗ , lối ứng
xử trọc phú, không còn nét
hào hoa, thanh lịch của người
Hà Nội.
3. Ý nghĩa của câu chuyện
“cây si cổ thụ”.
- Hình ảnh…nói lên quy luật
bất diệt của sự sống.
- Cây si cũng là một biểu
Học sinh tượng nghệ thuật, một hình
thảo luận ảnh ẩn dụ về vẻ đẹp của Hà
và
phát Nội.
biểu tự do.
4. Đặc sắc nghệ thuật
Gv giảng:
Quy luật - Giọng điệu trần thuật:
này được + Vừa tự nhiên, dân dã vừa
khẳng định trĩu nặng suy tư.
bằng niềm + Vừa giàu chất khía quát,
tin của con triết lí vừa đậm tính đa thanh
người
( nhiều giọng : tự tin xen lẫn
thành phố hoài nghi, tự hào xen lẫn tự
đã kiên trì trào…)
cứu sống
được cây + Hài hước rất có duyên tạo
si. Có thể không khí gần gũi thoải mái.
bị tàn phá, -> Giọng điệu trần thuật đã
bị nhiễm làm cho truyện ngắn đậm đặc
bệnh
chất tự sự rất đời thường mà
nhưng vẫn hiện đại.
GV tích hợp: Cùng với 600
thanh niên ưu tú của Hà Nội
lên đường hiến dâng tuổi
xuân của mình cho đất nước.
22
là
một
người Hà
Nội
với
truyền
thống văn
hoá
đã
được nuôi
dưỡng suốt
trường kì
lịch sử, là
cốt cách,
tinh hoa,
linh
hồn
của
đất
nước.
- Nghệ thuật xây dựng nhân Dũng, Tuất và tất cả những
vật:
chàng trai Hà Nội ấy đã góp
+ Tạo tình huống gặp gỡ phần tô thắm thêm cốt cách
giữa nhân vật “tôi” và nhân tin thần người Hà Nội, phẩm
giá cao đẹp của con người
vật khác.
Việt Nam.
+ Ngôn ngữ nhân vật góp
GV bình: Đó là những “hạt
phần khắc hoạ tính cách .
sạn của Hà Nội”, làm mờ đi
nét đẹp tế nhị, thanh lịch của
người Tràng An
Gv giảng: Quy luật này được
khẳng định bằng niềm tin của
con người thành phố đã kiên
trì cứu sống được cây si. Có
thể bị tàn phá, bị nhiễm bệnh
nhưng vẫn là một người Hà
Nội với truyền thống văn hoá
đã được nuôi dưỡng suốt
trường kì lịch sử, là cốt cách,
tinh hoa, linh hồn của đất
nước.
GV giảng: Ngôn ngữ nhân
vật “tôi” đậm vẻ suy tư,
chiêm nhiệm, lại pha chút hài
hước, tự trào; ngôn ngữ của
cô Hiền ngắn gọn, rõ ràng,
23
dứt khoát...)
4. Củng cố: Nắm nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, ghi nhớ Sgk.
5. Dặn dò: Học sinh học bài cũ và soạn bài mới
V. KẾT QUẢ SAU KHI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI
Trong năm học 2011- 2012, tôi được Ban giám hiệu phân công giảng dạy 2 lớp 12,
đó là lớp 12A8và lớp 12A9. Trong suốt một năm học, tôi đã tích hợp lồng ghép nội dụng
giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội vào giảng dạy hai bài học
trong môn Ngữ văn và tôi đã thu được những kết quả rất khả quan.
Về thái độ học tập : Các em tỏ ra thích thú với những hiểu biết mới của mình về
nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội nên tỏ ra hứng thú học tập trong những
giờ học có nội dung nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội.
Về kiến thức: Trước khi giáo dục nội dung giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh
của người Hà Nội kết quả như sau:
Tổng
HS
số
94
Không hiểu văn
hóa Hà Nội
Hiểu
nhưng
không nhiều
50 HS
25HS
Hiểu và thích
học
19HS
Như vậy, số HS không có kiến thức về nếp sống thanh lịch, văn minh của người
Hà Nội còn nhiều, các em chưa hiểu được văn hóa Thăng Long- Hà Nội.
Sau một thời gian được học nội dung về nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà
Nội, được lồng ghép trong hai bài học trên, số HS chưa có kiến thức về nếp sống
thanh lịch, văn minh của người Hà Nội đã giảm xuống rõ rệt:
Bảng thống kê số HS không có kiến thức về nếp sống thanh lịch, văn minh
của người Hà Nội 2010- 2012
Không hiểu văn
hóa Hà Nội
10 HS
Hiểu
nhiều
nhưng
8 HS
không
Hiểu và thích học
67 HS
Nhìn vào bảng thống kê số HS không có kiến thức về nếp sống thanh lịch, văn
minh qua bài Mùa lá rụng trong vườn- Ma Văn Kháng, Một người Hà Nội- Nguyễn
Khải tôi nhận thấy có một sự thay đổi rõ rệt về kiến thức. Nếu năm học trước, khi tôi
24
chưa tích hợp nội dung về nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội, trong tổng
số 94 HS của 2 lớp có 50 HS không có kiến thức về nếp sống thanh lịch, văn minh của
người Hà Nội, con số này đã giảm xuống còn 10 Hs không hiểu. Có được sự thay đổi ấy
là do tôi đã tích hợp nội dung về nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội trong
giảng dạy. Như vậy, tất cả HS đã có kiến thức về nếp sống thanh lịch, văn minh của
người Hà Nội. Các em đã có những hiểu được nguyên nhân vì sao người Hà Nội lại có
nét đẹp văn hóa lâu đến như vậy và có ý thức gìn giữ và phát huy nét đẹp đó.
Về hành động: HS của 2 lớp này đã nhận ra được các hành động thường ngày của
mình cũng có thể góp phần là cho nết sống thanh lịch văn minh của Hà Nội bị mất dần
bản sắc.Ý thức được nâng cao hơn, nên các em cũng thể hiện những hành động tích cực
trong việc không nói tục chửi bậy, phá hủy mất đi những công trình kiến trúc văn hóa
lâu đời có ở địa phương mình Như vậy, tôi đã “thay đổi ý thức - biến đổi hành vi” của
HS ở 2 lớp mình trực tiếp giảng dạy.
Những kết quả mà tôi thu được trên đây cho thấy tác dụng, hiệu quả của việc tôi đã
tích hợp nội dung giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh của Hà Nội vào giảng dạy một
số bài trong chương trình Ngữ văn lớp 12. Những kết quả đó còn rất khiêm tốn song tôi
thấy rằng những kết quả đó đã phần nào góp phần gìn giữ và phát huy nét đẹp văn hóa
của Thủ đô nghìn năm văn hiến.
C. KẾT LUẬN
Nếp sống thanh lịch, văn minh của Hà Nội không phải là vấn đề của riêng một cá
nhân, một gia đình mà của tất cả mọi người. Bản thân là một người giáo viên, ngoài
nhiệm vụ giảng dạy chuyên môn tôi luôn có ý thức giáo dục nếp sống thanh lịch, văn
minh của Hà Nội cho học sinh. Việc kết hợp giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh của
Hà Nội trong quá trình bộ môn Ngữ văn rất cần thiết. Vì ngoài kiến thức bộ môn các em
còn có cơ hội được tiếp cận với những kiến thức liên ngành. Điều đó đã mang lại những
hứng thú học tập của học sinh đồng thời nó còn có tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ của
học sinh về việc bảo vệ nếp sống thanh lịch, văn minh của Hà Nội. Việc giáo dục ý thức
trách nhiệm bảo vệ nếp sống thanh lịch, văn minh của Hà Nội cho HS không phải là một
sớm, một chiều, không phải chỉ dừng lại ở một cấp học mà nó được tiến hành trong thời
gian dài và ở nhiều cấp học. Do đó người GV cần kiên trì phối hợp với các chương trình
tuyên truyền, giáo dục cộng đồng và cần có sự phối hợp đồng bộ để giáo dục nếp sống
thanh lịch, văn minh của Hà Nội có hiệu quả hơn.
D. ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ
1. Đề xuất
25