Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Đạo đức nghề công tác xã hội trên thế giới và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.37 KB, 19 trang )

Đạo đức nghề công tác xã hội trên thế giới
và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam
Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm tạo ra sự
thay đổi và phát triển xã hội. Bằng sự tham gia vào quá trình giải quyết các
vấn đề xã hội, vào quá trình tăng cường năng lực giải phóng tiềm năng ở mỗi
cá nhân, gia đình và cộng đồng, công tác xã hội giúp con người phát triển hài
hòa, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho con người.
Ngày 25-3-2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định phê duyệt “Đề án
phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020”. Một trong những mục
tiêu của đề án phát triển giai đoạn 2010-2015 là: ban hành mã ngạch, chức
danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ, tiêu chuẩn đạo đức… Như vậy, tiêu chuẩn đạo
đức là một trong những yêu cầu hàng đầu của q trình chun nghiệp hóa
nghề cơng tác xã hội. Các quy điều đạo đức sẽ là sự cụ thể hóa các giá trị,
mục tiêu và nguyên tắc của nghề cơng tác xã hội nói chung và bản sắc của
cơng tác xã hội Việt Nam nói riêng.
Qua những nội dung đạo đức nghề công tác xã hội trong các bản Quy điều
đạo đức của Hội những người làm công tác xã hội quốc gia Mỹ (viết tắt là
NASW-National Association of Social Workers’ Code of Ethics) năm 1996,
điều chỉnh năm 1999 và 2008; Quy điều đạo đức của Hội những người làm
công tác xã hội Canada năm 2005 (CASW-Canadian Association of Social
Worker’ Code of Ethics 2005) và quy điều đạo đức của hội nhân viên xã hội
một số nước, tác giả muốn dùng để đối chiếu với thực tế, những nhân viên xã
hội chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp tại Việt Nam đã thực hiện được
những gì. Từ đó đưa ra một số nhận định đối với quá trình xây dựng và ban
hành tiêu chuẩn đạo đức nghề công tác xã hội ở Việt Nam; đồng thời xin đề


xuất một số quy điều đạo đức phù hợp với văn hóa và tình hình thực tế để có
thể lựa chọn áp dụng cho nhân viên công tác xã hội của Việt Nam.
Đạo đức và đạo đức nghề nghiệp trong cơng tác xã hội
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực


hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực xã hội.
Trong đạo đức, sự cần thiết xã hội, những nhu cầu lợi ích của xã hội hoặc của
giai cấp biểu hiện dưới hình thức những quy định và những sự đánh giá đã
được mọi người thừa nhận và thành hình một cách tự phát, được củng cố
bằng sức mạnh và tấm gương của quần chúng, của thói quen, phong tục, dư
luận xã hội.
Cũng như mọi ngành nghề tồn tại trong xã hội, đặc biệt là những nghề có mối
liên hệ xã hội sâu rộng, cơng tác xã hội cần thiết phải xây dựng các tiêu
chuẩn đạo đức của mình. Các tiêu chuẩn đạo đức (hay cịn gọi là các chế định
đạo đức) có thể tồn tại ở dạng thành văn, được cơng bố chính thức và rộng rãi
trong tồn xã hội, cũng có thể chỉ tồn tại dưới dạng những quy ước ngầm
thông qua các hành vi ứng xử và sự chấp nhận trong cộng đồng. Nhưng dù
tồn tại dưới dạng nào thì những tiêu chuẩn đó vẫn phải phản ánh mức độ
chuyên nghiệp hóa của nghề nghiệp và thể hiện được mong muốn của xã hội
đối với nghề. Tính chuyên nghiệp và ảnh hưởng xã hội của nghề càng cao thì
yêu cầu về sự chuẩn hóa càng lớn. Do vậy, một nghề cụ thể khi phát triển đến
một trình độ nhất định bao giờ cũng phải xây dựng cho mình những bảng tiêu
chuẩn nghề nghiệp cụ thể. Trong đó, tiêu chuẩn đạo đức nghề luôn được đặt
lên hàng đầu.


Trong thời điểm hiện nay, khi công tác xã hội ở nước ta đang bắt đầu những
bước đi đầu tiên, vấn đề đạo đức nghề nghiệp cần phải được nhận thức một
cách đầy đủ hơn bao giờ hết. Theo chúng tơi, đạo đức trong cơng tác xã hội
hay nói cách khác, các chế định đạo đức của công tác xã hội bao gồm một hệ
thống các giá trị, nguyên tắc và một tập hợp các chuẩn mực hành vi. Chúng
được sắp xếp theo ba cấp độ trong các văn bản quy định về đạo đức của các
hội nghề nghiệp công tác xã hội ở các quốc gia. Trong đó, hệ thống các điều
khoản quy định các chuẩn mực hành vi đạo đức thường được nói tới nhiều
hơn cả. [4, tr.257].


Các giá trị và nguyên tắc trong công tác xã hội
Sứ mệnh hàng đầu của công tác xã hội là nâng cao tình trạng khỏe mạnh của
con người và hỗ trợ đáp ứng các nhu cầu cơ bản của những người dễ bị tổn
thương, những người cần được hỗ trợ và người nghèo trong xã hội. Bởi vì,
tình trạng khỏe mạnh của cá nhân là kết quả của tình trạng khỏe mạnh của
môi trường xã hội. Công tác xã hội sẽ chú trọng tới các lực tác động của môi


trường nhằm giải quyết các vấn đề của tình trạng con người. Sứ mệnh nghề
nghiệp này được cụ thể hóa trong bộ giá trị nghề công tác xã hội mà mỗi
quốc gia có sự chú trọng và sắp xếp khác nhau trong bản quy điều đạo đức.
Những giá trị được đề cập được coi là nền tảng để xây dựng nên những
nguyên tắc đạo đức cho nhân viên xã hội.
Bất cứ một ngành nghề nào cũng cần có những quy định riêng để những nhân
viên hoạt động trong lĩnh vực đó có định hướng và biết được quyền hạn cũng
như trách nhiệm của mình. Đối với cơng tác xã hội cũng vậy, Nhà nước cần
có những quy điều đạo đức dành cho nhân viên xã hội làm kim chỉ nam cho
các hoạt động của họ.
Đối với Hội những người làm cơng tác xã hội quốc gia của Mỹ, những mục
đích này được xác định rất cụ thể. Đó là những giá trị cốt lõi làm nền tảng
cho nhiệm vụ của nghề cơng tác xã hội; tóm lược những ngun tắc đạo đức
bao quát phản ánh những giá trị cơ bản của nghề công tác xã hội và thiết lập
những tiêu chuẩn đạo đức cụ thể cho nhân viên công tác xã hội; giúp nhân
viên công tác xã hội xác định những cân nhắc quan trọng khi xảy ra mâu
thuẫn trong trách nhiệm chun mơn hoặc trong những tình trạng mơ hồ về
đạo đức; cung cấp những tiêu chuẩn đạo đức để công chúng áp dụng đối với
trách nhiệm nghề nghiệp của nhân viên công tác xã hội; giúp những người
mới vào nghề công tác xã hội hiểu được nhiệm vụ, giá trị, nguyên tắc đạo
đức, và tiêu chuẩn đạo đức của công tác xã hội; Đặt ra tiêu chuẩn để bản thân

nghề công tác xã hội sử dụng để lượng định xem nhân viên cơng tác xã hội có
hành vi vô đạo đức hay không. Hội những nhân viên công tác xã hội quốc gia
có thủ tục riêng để xét xử những cáo giác hành vi vô đạo đức của hội viên.
Chấp thuận nội quy này, nhân viên công tác xã hội phải hợp tác trong việc


thực hành nội quy, tham dự vào thủ tục xét xử và tuân theo các phán xử của
Hội. [4,tr. 256-257]
Ở một chừng mực, những mục đích này cũng phù hợp với Việt Nam khi công
tác xã hội được công nhận và trở thành nghề chuyên nghiệp.
Khảo sát nội dung các bản quy điều đạo đức của hội các nhà công tác xã hội
ở một số quốc gia và danh mục các nguyên tắc đạo đức quốc tế do IFSW và
IASSW đưa ra năm 2004, nhìn chung, các giá trị được đề cao bao gồm:
quyền con người; công bằng xã hội; nhân phẩm và giá trị con người; tầm
quan trọng của các mối quan hệ con người; sự liêm chính; năng lực hay sự
chuyên nghiệp. Đây là những giá trị chung mà hầu hết các hội nghề nghiệp
công tác xã hội ở các nước trên thế giới đều lựa chọn. Đồng thời, đó cũng là
những giá trị hết sức đặc trưng cho cơng tác xã hội. Ngồi ra, một số quốc gia
còn đề cao các giá trị khác như Hội những người làm cơng tác xã hội quốc
gia Mỹ thì đặt giá trị dịch vụ lên hàng đầu bởi đối với các nước mà công tác
xã hội trở nên chuyên nghiệp và phát triển như một dịch vụ trợ giúp cho các
khách hàng có nhu cầu thì yếu tố giá trị dịch vụ ln được nhìn nhận một
cách rõ ràng và đúng đắn. Trong khi đó, Hội những người làm cơng tác xã
hội Canada (CASW) lại coi giá trị phục vụ cho lịng nhân đạo và giá trị về
tính bảo mật trong thực hành nghề quan trọng.
Như vậy, cùng với các giá trị chung, mỗi quốc gia, với nhu cầu và đặc thù
văn hóa của mình mà xây dựng nên những giá trị riêng nhất định, thể hiện ở
việc lựa chọn các giá trị quan trọng đối với thực hành nghề nghiệp nước mình
và sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các giá trị đã lựa chọn. Điều đó khơng chỉ cho
thấy bản sắc nghề nghiệp mà còn khẳng định bản sắc văn hóa của cộng đồng,

quốc gia.


Mỗi giá trị bao giờ cũng được cụ thể hóa bằng một hoặc một số nguyên tắc
nhất định để nhân viên xã hội thực hiện. Trong Quy điều đạo đức của CASW,
giá trị tôn trọng phẩm giá con người được trình bày thành các ngun tắc: tơn
trọng quyền tự quyết định của thân chủ; tôn trong sự đa dạng của cá nhân.
Còn tại Bản Quy điều đạo đức của NASW, giá trị này được cụ thể thành
nguyên tắc đạo đức: tôn trọng phẩm giá và giá trị của con người với các biểu
hiện cụ thể như: đối xử với mọi người với một thái độ quan tâm và kính
trọng, tơn trọng sự khác biệt văn hóa giữa họ; cổ vũ quyền tự quyết của thân
chủ trong tinh thần trách nhiệm; tìm các cơ hội phát triển và khả năng tạo ra
sự thay đổi của khách hàng để thỏa mãn những nhu cầu của họ; ý thức được
trách nhiệm song đôi của của mình bao gồm trách nhiệm đối với khách hàng
và trách nhiệm đối với xã hội, giải quyết mâu thuẫn giữa quyền lợi khách
hàng và quyền lợi xã hội với tinh thần trách nhiệm cao, phù hợp với những
giá trị, nguyên tắc đạo đức và tiêu chuẩn đạo đức nghề công tác xã hội.
Trên cơ sở các giá trị và những nguyên tắc đạo đức này, các chuẩn mực đạo
đức gắn liền với các phạm vi áp dụng, các tình huống nghề nghiệp, các mơi
trường xã hội và các mối quan hệ… đều được cụ thể hóa thành từng điểm rõ
ràng trong các bản quy điều.
Các chuẩn mực đạo đức quy định đối với nhân viên công tác xã hội
Đặc điểm chung của các chuẩn mực đạo đức nghề cơng tác xã hội được trình
bày trong các bản quy điều đạo đức, trong phạm vi khảo sát của chúng tơi
đều là sự cụ thể hóa của các ngun tắc và giá trị; đều được phân chia theo
các mối quan hệ xã hội của nhân viên xã hội bao gồm: trách nhiệm đạo đức
với khách hàng, trách nhiệm đạo đức với đồng nghiệp, trách nhiệm đạo đức
đối với cơ quan làm việc, trách nhiệm đạo đức với tư cách là một nhà công



tác xã hội chuyên nghiệp, trách nhiệm đạo đức đối với nghề và trách nhiệm
đạo đức đối với xã hội. Mỗi chuẩn mực hành vi đều có những hướng dẫn và
chỉ dẫn cụ thể gắn với tình huống nghề nghiệp nhất định. Bản Quy điều đạo
đức của NASW gồm 51 lĩnh vực, tình huống với 152 hành vi được quy
chuẩn; Bản Quy điều đạo đức của SASW gồm 40 điểm quy định; Bản Quy
điều của CASW gồm 28 nguyên tắc cụ thể, khơng phân chia thành các phạm
vi và tình huống. Xin trích dẫn một nhóm u cầu cụ thể hóa những năng lực
nhận thức và hành vi của nhân viên xã hội đối với sự đa dạng văn hóa và xã
hội trong bản của NASW: “Người làm công tác xã hội phải hiểu văn hóa và
chức năng của nó trong cách ứng xử của con người và xã hội, và thừa nhận
ưu điểm hiện hữu trong tất cả các nền văn hóa. Người làm cơng tác xã hội
phải có một kiến thức căn bản về văn hóa của khách hàng và phải có khả
năng chứng tỏ năng lực đó trong những dịch vụ nhạy cảm đối với văn hóa
của khách hàng và với sự khác biệt của các nhóm người và các nhóm văn
hóa. Người làm cơng tác xã hội phải tìm cách hiểu và học hỏi về bản chất của
tính đa dạng của xã hội và tình trạng áp bức về màu da, chủng tộc, giới tính,
tính dục và tuổi tác, tật nguyền về tâm lý hay thể chất” [3].
Đây là những hướng dẫn về nhận thức và hành động cho không chỉ nhân viên
công tác xã hội mà còn là những chuẩn mực giúp cho các tổ chức, cơ quan
hoạt động trong lĩnh vực công tác xã hội đánh giá, kiểm soát, bổ sung vào các
bản nội quy của mình.
Nhìn vào Bản Quy điều đạo đức được cụ thể hóa của NASW cho thấy, trách
nhiệm đạo đức của người làm công tác xã hội được đặt lên hàng đầu với các
tiêu chuẩn rõ ràng, cụ thể với 16 tiêu chuẩn quy định từ khi bắt đầu tiến trình
làm việc cho đến khi kết thúc, trong đó nhấn mạnh đến những thỏa thuận với
thân chủ, quyền bảo mật và sự mâu thuẫn về quyền lợi, cũng như những điều


không được thực hiện đối với thân chủ. Đây cũng là những tiêu chuẩn cơ bản
mà nhân viên xã hội khi hành nghề cần nắm vững trước hết. Bao gồm: cam

kết đối với thân chủ; quyền tự quyết, thỏa thuận sau khi được giải thích; năng
lực của nhân viên xã hội; khả năng về văn hóa và tính đa dạng của xã hội;
mâu thuẫn về quyền lợi; đời tư và quyền bảo mật; quyền được xem hồ sơ của
thân chủ; động chạm cơ thể; sách nhiễu tình dục; ngơn ngữ khiếm nhã; quy
định về lệ phí; trách nhiệm đối với những thân chủ thiếu khả năng quyết định;
về việc gián đoạn dịch vụ và chấm dứt dịch vụ. Ngoài ra NASW còn đề ra
những tiêu chuẩn đạo đức của nhân viên xã hội đối với đồng nghiệp, với nơi
làm việc, trách nhiệm của người làm công tác xã hội với tư cách là những nhà
chuyên nghiệp; trách nhiệm đối với nghề và đối với xã hội.
Với cách thức phân chia theo hệ thống các mối quan hệ như vậy, với những
chỉ dẫn khá cụ thể, mỗi bản quy điều đạo đức đã hầu như bao quát được các
tình huống và các vấn đề đạo đức nghề nghiệp mà nhân viên xã hội có thể
gặp phải trong q trình tác nghiệp của mình. Đồng thời sẽ là kim chỉ nam
cho những phấn đấu trong nghề nghiệp của họ. Bên cạnh đó bản quy điều này
cịn là một cơng cụ hữu hiệu để giám sát việc thực hành nghề nghiệp của các
thành viên, là hình ảnh phản chiếu mức độ chun mơn hóa và chun nghiệp
hóa của nghề cơng tác xã hội trong hệ thống xã hội.
Từ những so sánh có tính chất giới thiệu trên đây về các quy điều đạo đức
của các quốc gia, có thể thấy rằng: cơng tác xã hội là một nghề đặc thù, tính
đặc thù của nó khơng phải chỉ thể hiện ở những phương pháp và cách thức
thực hiện mục tiêu an sinh cho con người, đặc biệt là những nhóm gặp khó
khăn trong quá trình sinh sống và phát triển, mà là ở triết lý nghề nghiệp và
các giá trị được đề cao. Đặc biệt, ở những tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp mà
nó đề xuất. Mức độ cụ thể hóa của quy điều đạo đức về một mặt nào đó, là sự


thể hiện rốt ráo việc thực thi các giá trị nghề nghiệp vì mục đích mang lại một
trạng thái khỏe mạnh cho tất cả mọi người trong mọi xã hội.
Tuy vậy, Bản Quy điều đạo đức nghề công tác xã hội ở một quốc gia, là sản
phẩm của nhận thức, nhu cầu, của những giá trị mà quốc gia đó coi trọng, vì

vậy, cùng với những giá trị chung nghề nghiệp, là những giá trị đạo đức đặc
thù mang bản sắc một dân tộc, một cộng đồng trong một giai đoạn lịch sử
nhất định. Sự khác biệt trong việc sắp xếp bảng giá trị, sự có mặt của giá trị
này và vắng mặt các giá trị khác là biểu hiện của những dấu hiệu bản sắc ấy.
Bản Quy điều đạo đức nghề công tác xã hội Việt Nam, như một tất yếu, cũng
sẽ mang các đặc điểm như vậy. Nó sẽ có sự kế thừa những giá trị, nguyên tắc
và tiêu chuẩn đạo đức chung từ những quy điều đạo đức của các nước đi
trước mà phù hợp với văn hóa Việt Nam nhưng đồng thời, cũng có những đặc
trưng riêng, mang bản sắc công tác xã hội Việt Nam.
Những tiêu chuẩn đạo đức đã được thể hiện trong thực hành công tác xã
hội ở Việt Nam
Trước khi Nhà nước Việt Nam ban hành mã nghề và những quy định cụ thể
cho công tác xã hội hoạt động như một nghề chính thức và chun nghiệp, thì
trong thực tế đã có các nhân viên xã hội hoạt động trong một số lĩnh vực tại
nhiều tổ chức và cơ quan khác nhau. Họ có thể là những nhân viên xã hội
chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp, làm việc theo kinh nghiệm mà chưa
được đào tạo bài bản qua trường lớp. Song họ đã và đang trợ giúp cho rất
nhiều những đối tượng yếu thế trong xã hội. Mặc dù chưa hề có những quy
điều đạo đức chung cho tất cả những người làm công tác xã hội ở Việt Nam
hiện tại, song thực tế cho thấy, các nhân viên xã hội đã thực hiện những
nguyên tắc và tiêu chuẩn đạo đức của nghề công tác xã hội.


Nhân quyền và phẩm giá con người luôn là giá trị được quan tâm hàng đầu.
Nhân viên xã hội cần bảo đảm toàn vẹn và khỏe mạnh về thể chất, tâm lý,
tình cảm và tâm linh, quyền được tơn trọng về phẩm giá. Mục tiêu của các
hoạt động trợ giúp mà Việt Nam đang thực hiện cũng nhằm bảo đảm những
quyền trên và cơng tác xã hội cũng vậy. Có thể thấy nguyên tắc này được thể
hiện rất rõ trong những hoạt động của các trung tâm, tổ chức khác nhau.
Có thể kể đến những trung tâm bảo trợ xã hội của nhà nước đã và đang nuôi

dưỡng những đối tượng trẻ em lang thang, trẻ em mồ côi, người già cơ đơn
với những chế độ phù hợp. Ví dụ: Trung tâm bảo trợ xã hội 4 Ba Vì, trung
tâm bảo trợ xã hội các tỉnh thành trong cả nước… Mục tiêu của nhóm các
trung tâm bảo trợ là nhằm bảo đảm cho các đối tượng mà trung tâm nuôi
dưỡng và giáo dục được hưởng những quyền con người mà họ vốn có. Mặc
dù nguồn lực cịn hạn hẹp, song các trung tâm đã cố gắng để bảo đảm được
những nhu cầu cơ bản cho đối tượng. Một số trung tâm đã có nhân viên xã
hội bán chuyên nghiệp làm việc và đã mang lại những hiệu quả trợ giúp nhất
định. Những trung tâm hỗ trợ những nạn nhân bạo hành gia đình và phụ nữ bị
bn bán trở về như: Ngơi nhà bình n của Trung tâm Phụ nữ và phát triển.
Ở đó các nạn nhân được hỗ trợ về nơi ăn, ở an tồn; được chăm sóc về y tế,
tư vấn hỗ trợ tâm lý, pháp lý; đào tạo nghề và huấn luyện kỹ năng sống. Làm
việc trực tiếp với những đối tượng này chính là các nhân viên xã hội đang
công tác tại trung tâm và các cộng tác viên.
Bên cạnh đó có các phịng khám và phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật
như Phòng khám Tuna, Trung tâm Sao Mai … Các trung tâm tham vấn tâm
lý nhà nước và tư nhân, nhằm giúp đỡ những đối tượng gặp phải những khó
khăn, rắc rối tâm lý trong cuộc sống, họ có nhu cầu được chia sẻ và ổn định
tâm lý, tình cảm. Tiêu biểu như trung tâm tham vấn tâm lý Hoàng Nhân, An


Việt Sơn… cũng góp phần bảo đảm quyền con người (tâm lý, tình cảm) của
các đối tượng cần trợ giúp.
Từ hoạt động can thiệp trợ giúp của các tổ chức nêu trên cho thấy, đội ngũ
nhân viên xã hội tại đó đã thực hiện được những nguyên tắc cơ bản trong giá
trị đầu tiên về nhân quyền và tôn trọng phẩm giá con người, cụ thể họ đã thực
hiện được hoạt động trợ giúp không loại trừ bất cứ ai, hay nói cách khác nhân
viên xã hội giúp đỡ tất cả những người có nhu cầu cần trợ giúp, tùy vào việc
nhân viên xã hội đó làm việc trong cơ quan, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực
nào. Các nhân viên xã hội ln có ý thức tơn trọng tính tự quyết của các đối

tượng mà họ trợ giúp để có những lựa chọn riêng và quyết định của mình,
khơng phân biệt giá trị của họ và sự lựa chọn cuộc sống với điều kiện những
quyết định này không đe dọa các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Nhân viên xã hội luôn phát hiện ra những điểm mạnh, điểm tích cực và tập
trung vào những thế mạnh đó của thân chủ; thúc đẩy sự tham gia của thân
chủ vào các hoạt động có lợi cho họ. Ví dụ: đối với những phụ nữ bị bạo
hành hoặc buôn bán trở về, song song với hỗ trợ ổn định tâm lý, các nhân
viên xã hội ln tìm hiểu họ có khả năng học nghề gì và hỗ trợ họ tiếp cận
với những hình thức học nghề để sau khi trở về họ có một nghề kiếm sống.
Hay trong các trung tâm nuôi dưỡng trẻ khuyết tật, trẻ em mồ cơi, các nhân
viên tại đó cũng ln phát hiện và phát huy những khả năng là thế mạnh của
trẻ để tăng thêm tự tin và khả năng phát triển cho các em.
Theo đuổi sự công bằng xã hội là mục tiêu mà công tác xã hội Việt Nam
muốn hướng tới. Không chỉ hiểu đơn thuần mục tiêu này trên phương diện
kinh tế giàu/nghèo giữa các cá nhân, các nhóm trong xã hội. Nhìn nhận ở góc
độ rộng hơn, cơng bằng xã hội mà các nhân viên xã hội đang theo đuổi còn
bao hàm cả khả năng tiếp cận các nguồn thông tin, cơ hội phát triển của các


nhóm, cá nhân, cộng đồng yếu thế như: những người khuyết tật, người nghèo,
dân tộc thiểu số, nhóm phụ nữ yếu thế. Nghèo đói vẫn ln là vấn nạn của
Việt Nam, mặc dù đã giảm, song điều kiện sống của người dân chưa vẫn
được bảo đảm. Những nỗ lực thay đổi của nhân viên xã hội tập trung vào nạn
nghèo đói, thất nghiệp và những bất cơng xã hội khác. Nhân viên xã hội phấn
đấu cho quyền của tất cả mọi người có được những thơng tin, dịch vụ, và tài
nguyên cần thiết; cơ hội đồng đều cho mọi người, và quyền của mọi người
được tham gia một cách có ý nghĩa vào các quyết định liên quan.
Có thể kể đến các Dự án phát triển cộng đồng của nhà nước và nước ngồi
đầu tư có sự tham gia của các nhân viên xã hội đã có rất nhiều và bảo đảm dự
án đầu tư đúng đối tượng và giải quyết được nhu cầu đặt ra của đối tượng.

Chủ trương của nhà nước là giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa
các địa phương, các nhóm dân cư, bảo đảm rằng cơ hội tiếp cận với những
nguồn lực hỗ trợ này của người dân là như nhau, khơng có sự phân biệt.
Ngồi ra có các dự án hỗ trợ những nhóm yếu thế trong xã hội như nhóm trẻ
em khuyết tật (Ví dụ: Dự án nâng cao kỹ năng sống cho thanh thiếu niên
khuyết tật thơng qua hình thức truyền thông sáng tạo do Ủy ban Y tế Hà Lan
– Việt Nam triển khai với sự tham gia của các nhân viên xã hội của tổ chức
cùng cộng tác viên là những sinh viên công tác xã hội – nhân viên xã hội
tương lai). Các hoạt động của những dự án này thu hút sự tham gia đông đảo
của các đối tượng yếu thế, phần nào giúp họ giảm nhẹ mặc cảm và rút ngắn
khoảng cách giữa họ với các cá nhân khác trong xã hội.
Phục vụ cho lòng nhân đạo là truyền thống, đức tính quý báu của dân tộc
Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với giá trị đạo đức của ngành công
tác xã hội. Tất cả những hoạt động trợ giúp của Việt Nam đối với các đối
tượng yếu thế trong xã hội từ xa xưa cho tới nay đều thấm đượm tinh thần


nhân đạo. Đối với Việt Nam, khi công tác xã hội chưa được coi là một nghề
nghiệp (thời điểm trước khi ban hành mã nghề), những người làm công tác xã
hội khơng được hưởng lương chính thức, chỉ có các khoản phụ cấp ít ỏi, song
họ vẫn tận tâm cho công việc. Khi công tác xã hội chưa được coi là một nghề
nghiệp, khơng ít người chưa hiểu đúng bản chất của nghề này. Họ cho rằng,
những người làm công tác xã hội là hoạt động từ thiện. Điều này góp phần
làm cản trở sự phát triển của cơng tác xã hội chuyên nghiệp.
Các tiêu chuẩn đạo đức (trách nhiệm của người làm cơng tác xã hội) cụ thể
hóa từ những nguyên tắc và giá trị đạo đức của ngành đã được những người
làm công tác xã hội Việt Nam thực hiện ở một mức độ nhất định: trách nhiệm
đối với thân chủ; với đồng nghiệp; nghề nghiệp công tác xã hội; cơ quan và
xã hội với những trách nhiệm cụ thể. Đó là, nhân viên cơng tác xã hội luôn
tôn trọng và đề cao quyền tự quyết của thân chủ và giúp thân chủ trong nỗ

lực xác định và làm rõ những mục tiêu của họ. Trên thực tế các thân chủ đến
từ những vùng miền khác nhau, họ mang những đặc trưng văn hóa riêng của
nơi họ sinh ra và lớn lên. Nhân viên xã hội ln có ý thức tìm hiểu sự đa dạng
của các nền văn hóa khác nhau, tơn trọng sự khác biệt văn hóa của các thân
chủ. Các nhân viên xã hội có ý thức rèn luyện thêm kỹ năng, tay nghề. Đồng
thời họ ln sử dụng những kỹ năng của mình vào mục đích nghề nghiệp trợ
giúp đối tượng, khơng lợi dụng cơng việc để tư lợi riêng hoặc làm những điều
phi nhân tính. Một số trung tâm, tổ chức, nguyên tắc bảo mật các thông tin về
thân chủ đã được thực hiện nghiêm ngặt, tạo được niềm tin cho đối tượng khi
đến với dịch vụ. Các nhân viên xã hội chuyên nghiệp đi trước luôn sẵn sàng
hỗ trợ chuyên môn, hướng dẫn cho những nhân viên xã hội kế cận, đặc biệt là
những sinh viên công tác xã hội được gửi xuống các cơ sở thực tập. Song bên
cạnh những mặt tích cực ln tồn tại những hạn chế nhất định. Vì chưa có
quy điều đạo đức cho những người làm cơng tác xã hội ở Việt Nam, vì thế


một số nguyên tắc đạo đức được thừa nhận trên thế giới đã chưa được thực
hiện triệt để ở nước ta:
Tính bảo mật là một nguyên tắc cơ bản của công tác xã hội chuyên nghiệp,
song trong thời gian trước đây, khi công tác xã hội Việt Nam chỉ là một hoạt
động trợ giúp đơn thuần do các cán bộ trong các đồn thể địa phương đảm
nhận, tính bảo mật chưa phải là nguyên tắc được coi trọng.
Các tiêu chuẩn đạo đức cụ thể được quy định dành cho nhân viên xã hội
chuyên nghiệp, song ở Việt Nam chưa ban hành Bản Quy điều đạo đức, đồng
thời, những người làm công tác xã hội cũng chỉ là bán chuyên nghiệp. Vì thế
nhiều tiêu chuẩn đạo đức là các nước xây dựng, cũng như IFSW và IASSW
đề ra chưa thể thực hiện trọn vẹn. Cùng với nhiều mục tiêu khác, mục tiêu
xây dựng và ban hành tiêu chuẩn đạo đức đã đựơc xác định cụ thể là giai
đoạn từ 2010 đến 2015. Đây là khoảng thời gian mà mỗi người làm nghề phải
cùng lúc nhận thức, đúc kết và quy chuẩn những vấn đề đạo đức nghề nghiệp.

Trước thời điểm đề án được phê duyệt, nghề công tác xã hội Việt Nam đã
từng có một lịch sử tồn tại nhưng có lẽ những quy điều đạo đức của nó mới
chỉ dừng lại ở mức độ nội quy của các cơ sở xã hội. Bản quy điều mới sẽ là
sự thống nhất các giá trị, mục tiêu, chuẩn mực đạo đức của cơng tác xã hội –
một nghề cịn nhiều bỡ ngỡ đối với người dân. Điều đó có nghĩa là một q
trình hình thành và phát triển văn hóa cho một lĩnh vực nghề nghiệp đang
từng bước được thực hiện. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi mạnh
dạn đưa ra một vài ý kiến đóng góp cho việc xây dựng Quy điều đạo đức
công tác xã hội tại Việt Nam như sau:
Một là, để xây dựng được Bản Quy điều đạo đức nghề nghiệp, trước hết cần
có một Hiệp hội nghề nghiệp nhằm tập hợp tất cả các nhân viên xã hội


chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp có thể bảo đảm được chuẩn mực về
chất lượng cơng việc. Từ đó những thành viên trong Hiệp hội cùng nhau xây
dựng nên những quy điều đạo đức cho Việt Nam dựa theo những quy điều
đạo đức chung đã áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới trong thời gian qua.
Hai là, giá trị đầu tiên cần được đề cao trong quy điều đạo đức cơng tác xã
hội chính là nhân quyền và phẩm giá của con người. Đây là những nguyên
tắc cơ bản chi phối các hoạt động của công tác xã hội như: sự tôn trọng đối
với thân chủ; mục tiêu cao nhất vì lợi ích của thân chủ; tơn trọng tính tự
quyết của thân chủ …
Ba là, các tiêu chuẩn đạo đức cần cụ thể hóa, chi tiết về vai trị trách nhiệm
của nhân viên xã hội đối với thân chủ, với đồng nghiệp, với cơ quan/tổ chức
đang công tác, trách nhiệm với nghề nghiệp và xã hội.
Bốn là, để những quy điều được vận hành và đạt được hiệu quả theo đúng
mục đích đặt ra, cần có cơ quan kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nguyên
tắc và tiêu chuẩn đạo đức đã được đặt ra của nhân viên xã hội.
Như vậy, Bản Quy điều đạo đức dành cho nhân viên xã hội Việt Nam sẽ là sự
hội tụ của những giá trị và nguyên tắc đạo đức đã được quốc tế thừa nhận và

thực hiện; đồng thời cũng mang những yếu tốt bản sắc riêng, phù hợp với văn
hóa và con người Việt Nam./.



×