Một số lỗi câu thường gặp trên báo in hiện nay
I. MỞ ĐẦU
Trong sự phát triển của xã hội hiện nay, con người thường có thói quen sử
dụng ngôn ngữ một cách nhanh hơn, thiếu cẩn thận hơn. Điều này đang làm mất
dần sự trong sáng của tiếng Việt. Vì thế, vấn chuẩn ngôn ngữ có tầm quan trọng
đặc biệt. Chuẩn ngôn ngữ được hiểu là tập hợp các quy tắc được cộng đồng chấp
nhận tại một thời điểm nào đó. Do đó, chuẩn ngôn ngữ mang tính cộng đồng và
tính lịch sử. Tiêu chí để đánh giá chuẩn ngôn ngữ là sự chấp nhận hay không chấp
nhận của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó và việc phản ánh đúng hoặc sai trong tư
duy của con người.
Có thể nói, vấn đề chuẩn ngôn ngữ được đặt ra đối với mọi người, mọi
ngành, đặc biệt là trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Khi nói đến chuẩn ngôn ngữ, nhiều người thường chỉ nghĩ đến việc sử dụng
từ ngữ. Thông thường, người ta hay quan tâm nhiều đến cách sử dụng từ, đến vấn
đề chính tả, mà ít quan tâm đến việc sử dụng câu cho chính xác, cho hợp với văn
cảnh. Lẽ ra, chuẩn ngôn ngữ cần phải được xem xét một cách toàn diện hơn, trong
mọi cấp độ ngôn ngữ: chính tả, từ, câu, văn bản.
Hiện nay, trên báo chí cũng như trong giao tiếp hàng ngày, xuất hiện nhiều
câu sai về hình thức và nội dung. Trong bài viết này, tôi xin đề cập tới một số lỗi
câu thường gặp trên báo in và đề xuất phương án khắc phục những lỗi đó.
1
II. NỘI DUNG
1. Các quan niệm về câu tiếng Việt
Theo tác giả Hoàng Trọng Phiến: Định nghĩa: “Câu là đơn vị của ngôn ngữ
có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và có ngữ điệu kết thúc, mang
một tư tưởng tương đối trọn vẹn có kèm thái độ của người nói hoặc chỉ biểu thị thái
độ của người nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm với tư
cách là đơn vị thông báo nhỏ nhất”. (Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng
Phiến). “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” - Nxb Giáo dục. 2005).
Phân loại:
Phân loại theo mục đích nói:
Câu tường thuật
Câu nghi vấn
Câu cảm thán
Câu mệnh lệnh
Căn cứ vào mối quan hệ với hiện thực:
Câu khẳng định
Câu phủ định
Phân loại theo cấu tạo: câu đơn, câu ghép.
Theo tác giả Diệp Quang Ban:
Định nghĩa: “Câu là đơn vị lớn nhất của mặt cấu trúc trong tổ chức ngữ pháp
của một ngôn ngữ, được làm thành từ một khúc đoạn ngôn ngữ tập trung chung
quanh một vị tố, và được dùng để diễn đạt một sự thể (hay một sự việc)”. (Diệp
Quang Ban “Ngữ pháp tiếng Việt”, Nxb Giáo dục, 2005).
Phân loại: Câu đơn, câu ghép.
Phân loại câu đơn theo cấu trúc ngữ pháp cú pháp và nghĩa biểu hiện:
- Câu chứa vị tố động từ tính, vị tố tính từ tính, vị tố danh từ tính.
- Câu chứa vị tố là từ chỉ quan hệ dùng không độc lập.
- Chủ ngữ chỉ nguyên nhân (là từ, cụm từ và câu bị bao).
- Câu “khiển động”.
2
- Chủ ngữ chỉ phương tiện.
- Câu có cấu tạo “thuận nghịch”
- Câu chứa quan hệ chỉnh thể - bộ phận (chủ ngữ chỉ chỉnh thể).
- Câu có đề ngữ.
- Câu bị động
- Câu không có chủ ngữ: câu tồn tại.
- Câu không có chủ ngữ: câu gọi - đáp.
- “Câu cảm thán” là phát ngôn đặc biệt.
Phân loại câu ghép:
- Câu ghép chính phụ.
- Câu ghép bình đẳng:
+ Câu ghép liên hợp.
+ Câu ghép tương liên (qua lại)
+ Câu ghép tiếp liên (chuỗi)
Theo tác giả Cao Xuân Hạo:
Định nghĩa: “Hoạt động giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ học được gọi là
hoạt động ngôn từ. Ngôn từ có thể chia thành những đơn vị nhỏ tách biệt ít nhiều
gọi là những phát ngôn. Phát ngôn nhỏ nhất có thể dùng trong giao tế là một câu,
tuy thường thường một phát ngôn có thể gồm nhiều câu. Khi một người nói ra một
câu hay một số câu hướng vào một người nghe cụ thể, trong một tình huống cụ thể,
nhằm mục đích tác động nhất định, ta có một hành động phát ngôn” (Cao Xuân
Hạo. “Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng”. (Nxb Giáo dục. 2004).
Phân loại:
Theo cấu trúc cú pháp:
- Câu hai phần (câu đề - thuyết)
- Câu một phần (câu không đề)
- Câu đặc biệt.
3
Việc phân loại câu theo cấu trúc cú pháp cũng phần nào đề cập đến vấn đề:
câu đơn, câu phức, câu ghép.
Theo nghĩa biểu hiện:
- Câu tồn tại.
- Câu hành động
- Câu quá trình
- Câu trạng thái
- Câu quan hệ
Theo hành động ngôn trung:
- Câu trần thuật.
- Câu nghi vấn
- Câu cầu khiến
- Câu cảm thán
- Câu khẳng định và câu phủ định
Theo tôi, trong ba quan điểm trên thì quan điểm của GS Hoàng Trọng Phiến
là phù hợp nhất. Bởi cách định nghĩa và phân loại của GS, đáp ứng được các tiêu
chí về cú pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng.
2. Các lỗi cầu thường gặp trên báo chí
Hiện nay, tôi thấy có nhiều cách phân loại, nhận diện các lỗi câu.
Co Xuân Hạo và Trần Thị Tuyết Mai, trong “Sổ tay sửa lỗi hành văn” (Nxb
Trẻ. H.2005) đã khảo sát các lỗi ngữ pháp trong câu có trạng ngữ mở đầu và chia
thành những lỗi cụ thể như:
- Những lỗi kiểu “Qua kinh nghiệm cho nên ta thấy rằng”.
- Những lỗi kiểu “Qua kinh nghiệm cho ta thấy rằng”
- Những lỗi kiểu “Là đoàn viên nên ta phải cố gắng”
- Những lỗi kiểu “Muốn thành công buộc ta phải hành động gấp rút”.
- Những lỗi kiểu “Vừa chạy đến nơi mũ nó đã bay”.
- Những lỗi kiểu “Tay nó cầm cuốn sách, bước ra sân”
hay “Nó bước ra sân, tay nó cầm cuốn sách”.
4
- Những lỗi kiểu “Về vấn đề này ta đã giải quyết xong”.
Hồ Lê và Lê Trung Hoa, trong “Sửa lỗi ngữ pháp (Nxb KHXH.H.2003), đã
chia các lỗi thường gặp về kết cấu câu thành 39 tiểu loại như:
- Nhầm lẫn hai tiểu loại câu điều kiện - hệ quả.
- Nhầm lẫn câu chủ - vị với câu điều kiện - kết quả.
- Nhầm lẫn tư cách của đồng chủ ngữ.
- Nhầm lẫn danh ngữ với câu chủ - vị,…
Các cách nhận diện và phân loại như trên rất cụ thể và tỉ mỉ. Tiếp thu những
cách nhận diện và phân loại trên, đồng thời với quan điểm riêng, tôi chia lỗi sai về
cầu thành hai loại: Câu sai về hình thức và câu sai về nội dung.
- Trong loại lỗi câu sai về hình thức, tôi phân thành các tiểu loại lỗi:
+ Thiếu thành phần nòng cốt câu.
+ Thiếu một về câu ghép.
- Trong loại lỗi câu sai về nội dung, tôi phân thành các tiểu loại lỗi:
+ Câu sai lôgic của tư duy.
+ Câu mơ hồ.
+ Câu phản ánh sai hiện thực.
2.1. Câu sai về hình thức
*Thiếu thành phần nòng cốt câu:
Các thành phần nòng cốt câu là những thành phần bắt buộc phải có mặt trong
câu để đảm bảo cho câu độc lập về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức.
Một câu độc lập về nội dung nghĩa là chúng ta có thể hiểu được câu đó mà
không cần dựa vào văn cảnh (những câu xung quanh nó), hay dựa vào hoàn cảnh
giao tiếp. Một câu hoàn chỉnh về hình thức có nghĩa là nó có đủ các thành tố cần
thiết theo nguyên tắc ngữ pháp. Các câu được coi là sai về ngữ pháp khi trong câu
thiếu chủ ngữ, hoặc vị ngữ, hoặc cả chủ ngữ và vị ngữ, câu thiếu bổ ngữ bắt buộc.
Các ví dụ:
TT Số báo
Câu sai
Điểm sai
Cách chữa
5
Báo Sinh viên
1
số
40(6/10- Chơi thời trang
13/10/2004) tr4
Báo Sinh viên
2
số
40
(3/20- Lo bánh sẽ bị ế
10/10/2007) tr9
Báo Sinh viên
3
số
40
(6/10-
13/10/2004)
tr16
Thiếu chủ Dân
ngữ
trang
ngữ
sẽ bị ế
Những quan điểm
của ông được thừa Thiếu
vị
nhận rộng rãi. Hàng ngữ ở câu
loạt bài nghiên cứu thứ hai
Hàng
viết
số
51
(8/12-
15/12/2004) tr.2
Cuối cùng là giáo
theo
điểm đó
cùng
là
vị trẻ em trong độ
độ tuổi không được ngữ
tuổi đi học đã
đến trường
không được đến
văn hóa số 140 cứng với đon vị anh
(2007) tr.12
tiếp
bài
giáo dục, nhiều
dục, nhiều em trong Thiếu
Báo Thể thao Đá làm sao cho
5
loạt
nghiên cứu quan
Cuối
4
thời
Thiếu chủ Nương lo bánh
tiếp theo.
Báo Sinh viên
chơi
hùng
trường
Đội bóng phải đá
Thiếu chủ làm
ngữ
sao
cho
xứng với đơn vị
anh hùng
*Thiếu một vế câu ghép:
Câu ghép là loại câu gồm hai vế trở lên, mỗi vế tương đương một câu đơn,
nối trực tiếp với nhau hoặc nối với nhau bằng các hư từ, nhằm trình bày những sự
việc, tình cảm, cảm xúc hay ý kiến có liên quan mật thiết với nhau. Bình thường,
việc bỏ sót một vế câu ghép rất dễ nhận ra nếu đó là những câu ghép có các vế nối
với nhau bằng các hư từ đặc biệt là các cặp kết từ (tuy, … nhưng, nếu… thì, vì…
6
nên, …). Loại lỗi đáng chú ý hơn về câu ghép là tách các ý có liên quan với nhau
thành các câu đơn trong khi văn cảnh hoặc hoàn cảnh giao tiếp đòi hỏi trình bày
các ý đó trong một câu ghép.
Ví dụ:
Số báo
Câu sai
Điểm sai
Sinh viên mỹ thuật
Thiếu một vế câu
Báo Sinh nên thời gian biểu
ghép, có vế chỉ
viên, số 44 cũng
khá
thất
kết quả “nên…”
(3/11thường, trong khi
nhưng không có
10/11/2004 nhà ăn lại chỉ mở
vế chỉ nguyên
) tr.14
vào một giờ nhất
nhân.
định
Cách chữa
Vì họ là sinh viên
mỹ thuật nên thời
gian biểu cũng khá
thất thường, trong
khi nhà ăn lại chỉ
mở vào một giờ
nhất định.
* Giải pháp đề xuất:
Các lỗi về hình thức của câu xuất phát từ việc người viết không nắm bắt tốt
kiến thức về ngôn ngữ và bản thân họ thường không nhận ra các lỗi sai này. Trong
bài viết này, tôi đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục các lỗi sai trên:
- Với lỗi câu thiếu thành phần nòng cốt thì chúng ta có thể thêm những thành
phần đó vào trong câu hoặc thay thế, chuyển đổi các thành phần để làm cho câu
đầy đủ và hoản chỉnh nhất.
+ Câu thiếu chủ ngữ: có thể thêm các đại từ nhân xưng (tôi, chúng ta…); các
từ có tính chất danh từ hóa (điều đó, sự, việc,…).
+ Câu thiếu vị ngữ: có thể thêm hệ từ “là”.
- Với lỗi câu ghép thiếu một vế thì chúng ta có thể thêm kết từ còn thiếu để
tạo nên cặp kết từ thường sử dụng trong câu ghép.
2.2. Câu sai về nội dung
* Câu sai logic của tư duy:
Câu sai lôgic của tư duy là câu hoặc phản ánh không đúng thực tế khách
quan, hoặc thể hiện sai quan hệ ngữ nghĩa giữa các bộ phần cấu thành câu.
7
Ví dụ:
STT Số báo
Báo
1
Thanh
niên số 282
(9/11/2006)
tr.2
Báo
2
Thanh
niên, số 298
(25/10/2006)
tr.14
3
quan điều tra đã vào đơn tố cáo, cơ quan điều
cuộc và có đủ chứng cứ tra đã vào cuộc và có đủ
khởi tố Đạo về tội hiếp chứng cứ khởi tố Đạo về
dâm
tội hiếp dâm
Lai Xá có ba người con, Trong số những người con
ở ba thời điểm khác của Lai Xá, có ba người
nhau đều ngẫu nhiên có mà ở ba thời điểm khác
liên quan đến Hồ Chủ nhau đều ngẫu nhiên có
tịch.
liên quan đến Hồ Chủ tịch.
Như vậy, đêm chung
Báo Tuổi trẻ,
số
Câu sai
Cách chữa
Ngay sau bị tố cáo, cơ Ngay sau khi nhận được
180
(10/7/2007)
tr.13
kết xếp hạng sẽ diễn ra Đã xác định được chín thí
ngày 15/7 đã xác định sinh cuối cùng có mặt để
được chín thí sinh cuối tranh giải nhất ở ba dòng
cùng có mặt để tranh ba nhạc vào đêm chung kết sẽ
giải nhất ở ba dòng diễn ra ngày 15/7/2007.
nhạc
* Câu mơ hồ
Câu mơ hồ là những câu có thể hiểu ít nhất là hai nghĩa khỏc nhau. Nói khác
đi, bản chất tổng quát của hiện tượng mơ hồ là nhiều ý nghĩa khác nhau có khả
năng được diễn dịch tương ứng với cùng một hình thức duy nhất của một đơn vị
ngôn ngữ hay một biểu thức ngôn ngữ.
Trong tiếng Việt, hiện tượng mơ hồ xảy ra khá phổ biến vì tiếng Việt là ngôn
ngữ đơn lập, không biến đổi hình thái, việc hiểu nghĩa của câu còn phụ thuộc vào
sự ngắt đoạn của người tiếp nhận. Bên cạnh đó còn có các nguyên nhân ngoài ngôn
8
ngữ như: kĩ năng của người viết, sơ xuất trong quá trình tư duy không kịp với xử lí
vấn đề.
- Câu mơ hồ có thể chia thành hai phạm trù: mơ hồ từ vựng và mơ hồ về cấu
trúc ngữ pháp.
+ Mơ hồ từ vựng: hiện tượng mơ hồ từ vựng xuất hiện ở những câu có hơn
một nghĩa. Tính mơ hồ của ngôn ngữ ở cấp độ từ thể hiện qua từ đa nghĩa, từ đồng
âm.
+ Mơ hồ về cấu trúc ngữ pháp: hiện tượng này xuất hiện ở những câu có hơn
một nghĩa do các quan hệ ngữ pháp có thể được phân định theo nhiều cách khác
nhau.
+ Ví dụ:
TT Số báo
Báo
Câu sai
sinh
viên, số 50
1
(15/1222/12/2004),
Cách chữa
từ
vựng: “cháy”,
Cháy hàng mũ lưỡi là châm lửa đốt Cơn sốt hàng mũ
trai sụp
hay “cháy” là lưỡi trai sụp
không có hàng
tr.6
2
Lỗi câu
Mơ hồ
Báo VHTT, Thủ
để bán
tướng Mơ hồ
từ Thủ
tướng
số 141 nam Chulanont cũng ủng vựng: “trước” Chulanont cũng ủng
2007, tr.8
hộ ĐT Thái Lan do là
ông Thavatchai làm cho
định
quản
ngữ hộ ĐT Thái Lan do
lý ông Thavatchai làm
9
quản lý trước khi họ
lên đường tham dự
Agribank
Cup
ở
Việt Nam vào tháng
quản lý ngay khi họ
hay “trước” là
giới từ.
lên đường tham dự
Agribank
trước.
Xì-căng đan này
xoay
Xì-căng
đan
quanh
các
này
cáo buộc cho rằng
xoay quanh các cáo
Thủ tướng D.de
buộc cho rằng Thủ
tướng D.de Vilepin
Báo Thanh thời còn làm ngoại
Niên
ở
Việt Nam vào tháng
trước.
3
Cup
số trưởng
và
Tổng
316/2007,
thống J.Chirac đã ra
tr24
lệnh cho một nhân
viên điều tra các
cáo
buộc
tham
Mơ
hồ
pháp:
ngữ
Cách
hiểu 1: họ gồm
hai người.
Cách hiểu2: họ
gồm tất cả mọi
người
Vilepin thời còn
làm ngoại trưởng
và
Tổng
thống
J.Chirac đã ra lệnh
cho một nhân viên
điều tra các cáo
buộ tham nhũng
đối với bộ trưởng
nhũng đối với Bộ
Bộ
Nội
vụ
trưởng Bộ Nội vụ
N.Sarkozy dù hai
ông này biết đó là
4
Báo VHTT, Các cầu thủ khác Mơ
hồ
những lời bịa đặt.
ngữ Các cầu thủ khác
số
trong danh sách này pháp:
trong danh sách
140/2007,
là tiền vệ người Cách hiểu 1: này
tr.21
Ghana cũng chơi Tiền đạo đã hai người Ghana cũng
là
tiền
vệ
cho Chelsea Essien, lần giành giải chơi cho Chelsea
tiền đạo đã hai lần thưởng này là Esien, tiền đạo là
giành giải thưởng Kanu.
Kanu của Nigieria
này là Kanu của Cách hiểu 2: (đã hai lần giành
10
Nigieria
và
Aboutrika người Ai
Cập
Cả Kanu và
Aboutrika
đã
hai lần giành
giải
giải thưởng này)
và
Aboutrika
người Ai Cập.
* Câu phản ánh sai hiện thực
Câu phản ánh sai hiện thực thường là do người viết không nắm rõ hiện thực
hoặc người viết nhầm lẫn sự kiện, sự việc.
Ví dụ:
TT Số báo
1
2
Câu sai
Lỗi câu
Nhầm lẫn
Cách chữa
từ
Báo khoa học
“van”
thành
và đời sống,
“gan” trong cả
số 52 (29/6 Tít “Chủ quan làm đoạn tin không có
1/7/2007).
gan nhiễm trùng”
lấy một chữ nói
Mục cùng rút
về “gan” mà chỉ
kinh nghiệm
nói về bệnh hở
Báo Thế giới Ngày
Chủ quan làm
van
nhiễm
trùng
van hai lá của tim
21/12/1993, Nhầm lẫn địa Ngày
và Việt Nam, Thống đốc Hoa Kỳ danh “Nam Kỳ” 21/12/1993,
số 36 (21/7- J.Krautheimer
ra thành “Hoa kỳ”
Thống
đốc
27/7/2007) Bài nghị định số 4762-
Nam
kỳ
J.
“Địa
danh CP sáp nhập quần
Krautheima …
thiêng
liêng đảo Trường Sa vào
Bà Rịa (Nam
11
của Việt Nam”
Báo
tỉnh Bà Rịa (Nam
Kỳ).
Kỳ)
Tiền
Phong,
số
136
(16/5/2007)
3
Bài
Đó là số đặc biệt Nhầm lẫn thời
“Những ra ngày 1/6 - ngày gian diễn ra sự
chuyện ít biết tổng tuyển cử
về
kiện
Tổng
Đó là số đặc
biệt ra ngày
6/1
-
Ngày
tổng tuyển cử
tuyển cử năm
1946”
* Giải pháp đề xuất
- Đối với những câu sai logic của tư duy và những câu phản ánh hiện thực
thì:
+ Người viết phải có một tư duy rành mạch, logic.
+ Người viết nên thận trọng khi đưa ra các dữ liệu, dữ liện.
- Đối với loại câu mơ hồ thì:
+ Với mơ hồ về từ vựng: Người viết nên tránh sử dụng những kết hợp có thể
gây ra cho người đọc hiểu nhiều nghĩa bằng cách thay thế từ ngữ cho phù hợp.
+ Với mơ hồ về cấu trúc ngữ pháp: Người viết nên:
. Phân định rõ ranh giới các ngữ đoạn bằng dấu câu, quan hệ từ.
. Tách câu.
. Đưa các thành phần phụ đi liền với thành phần nòng cốt mà chúng bổ
sung ý nghĩa.
12
KẾT LUẬN
Chuẩn mực ngôn ngữ là một vấn đề lớn trong ngôn ngữ học. Nó đã và đang
được bàn luận trong nhiều tài liệu ngôn ngữ học ở trong và ngoài nước. Nhưng
chuẩn mực ngôn ngữ báo chí nói riêng và ngôn ngữ báo chí nói chung lại là một địa
hạt còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Muốn chuẩn ngôn ngữ được phổ biến rộng rãi
trong xã hội thì trước hết phải đảm bảo chuẩn trên báo chí và các phương tiện
thông tin đại chúng. Bởi vì, ngôn ngữ trên báo được coi là ngôn ngữ mang tính quy
phạm, gọt dũa và định hướng. Muốn đạt chuẩn ngôn ngữ trên báo chí, trước hết cân
nhận diện, khắc phục và hạn chế những lỗi sai, trong đó lỗi sai về câu là một lĩnh
vực cần được coi trọng đúng mức.
Theo tôi, để khắc phục và hạn chế những lỗi sai về câu trên báo chí, những
người làm báo luôn phải có ý thức cẩn trọng ngay trong khâu viết và biên tập trước
khi bài báo đến tay bạn đọc. Như Giáo sư John Hohengerg đã khẳng định: “Không
thể cẩu thả trong việc sử dụng ngôn ngữ ở các ngành truyền thống được. Ngôn ngữ
ở đây phải chuyển được tin tức, ý kiến và tư tưởng tới quần chúng càng hữu hiệu
càng tốt. Cũng không thể hạ giá văn phạm. Trình độ văn phạm của báo chí ít ra
cũng phải cao bằng trình độ của những độc giả hoặc khán thính giả có học thức,
nếu không báo chí mất ngay sự kính trọng của quần chúng… Sự chuẩn xác của
ngôn ngữ làm sắc bén thêm ý nghĩa của sự kiện. Vì thế sự kiện và chuẩn xác phải
luôn luôn đi đôi với nhau”.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Xuân Hạo. Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng. Nxb Giáo dục
2004.
3. Cao Xuân Hạo, Trần Thị Tuyết Mai. Sổ tay sửa lỗi hành văn (Lỗi ngữ
pháp trong câu có trạng ngữ mở đầu). Nxb Trẻ. H. 2005.
3. Diệp Quang Ban. Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Giáo dục. 2005.
4. Hồ Lê, Lê Trung Hoa. Sửa lỗi ngữ pháp (Lỗi về kết cấu câu). Nxb KHXH.
H. 2003.
5. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học
và tiếng Việt. Nxb Giáo dục. 2005.
6. Hoàng Anh. Một số vấn đề sử dụng ngôn từ trên báo chí. Nxb Lao động.
H. 2003.
MỤC LỤC
14