Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
A. MỞ ĐẦU
Người khuyết tật là một bộ phận không nhỏ của dân số thế giới, trong bất kỳ
một xã hội nào dù phát triển hay kém phát triển, dù phải hứng chịu chiến tranh hay
không phải trải qua chiến tranh cũng tồn tại một bộ phận người khuyết tật. Việt
Nam có tỷ lệ người khuyết tật khá cao so với tỷ lệ chung của toàn thế giới, Người
khuyết tật luôn được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta cùng một số tổ chức
quốc tế. Nhà nước ta đã ban hành nhiều hệ thống văn bản cùng với việc thực hiện
các công ước Quốc tế về người khuyết tật nhằm giúp đỡ họ có cuộc sống tốt, tạo
cơ hội giúp họ hoà nhập với cộng đồng và phát triển như những người bình thường
khác.
“Người khuyết tật” - như chúng ta đã biết họ là những người bị khiếm
khuyến một hoặc một số bộ phận hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới
dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt gặp khó khăn. Những dạng tật khiến họ có
sự khác thường về ngoại hình đối với những người xung quanh, điều đó đã vơ hình
chung trở thành trở ngại cho họ với cuộc sống thực tế. Hiện nay, xã hội đã có
những thay đổi đáng kể từ suy nghĩ đến những hành động thiết thực đối với cộng
đồng chiếm 7% dân số này, đăc biệt vấn đề học tập cũng như vấn đề chăm sóc sức
khỏe người khuyết tật ln được chú trọng. Để hiểu thêm về vấn đề này, em xin
lựa chọn đề số 04:
“1. Quyền của người khuyết tật trong việc miễn giảm học phí, hỗ trợ chi
phí, phương tiện đồ dùng học tập và cấp học bổng.
2. Quy định về trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng cho
người khuyết tật và thực tiễn thực hiện.”
B. NỘI DUNG
I. Khái quát về người khuyết tật
1. Định nghĩa người khuyết tật
Từ những thế kỷ trước đây người ta đã “rục rịch” đưa ra khái niệm về người
khuyết tật, trong giai đoạn từ năm 1940 – 1960, những văn bản pháp luật quốc tế
liên quan đến quyền con người đều không trực tiếp đề cập đến người khuyết tật.
Đến năm 1970 ở Hoa Kỳ, vấn đề người khuyết tật cũng như các Hiệp hội của họ
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 1
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
xuất hiện và chứng minh sự tồn tại của người khuyết tật. Quan niệm về người
khuyết tật cũng như khái niệm người khuyết tật bắt đầu có “manh mún”. Đến năm
1980 Tổ chức Y tế Thế giới đã tiếp cận vấn đề chuẩn xác hơn về khái niệm người
khuyết tật. Đồng thời, từ những Chương trình hành động Thế giới về người khuyết
tật và các cuộc Hội thảo được mở ra trong thập kỷ người khuyết tật của Liên Hợp
quốc (1938-1992) đã khiến người ta có những kiến thức sâu hơn và sự hiểu biết
rộng hơn về vấn đề người khuyết tật.
Lịch sử phát triển người khuyết tật cho thấy có nhiều quan điểm khác nhau
về khái niệm người khuyết tật. Theo quan niệm pháp luật quốc tế, khái niệm người
khuyết tật hiện nay có hai quan điểm: quan điểm khuyết tật cá nhân và quan điểm
khuyết tật xã hội.
Theo quan điểm về người khuyết tật cá nhân (hay quan điểm dưới góc độ y
tế) cho rằng: Người khuyết tật là những người do có khiếm khuyết cơ thể của con
người do Bộ Y tế của Tổ chức Y tế thế giới xác nhận dưới các dạng: khuyết tật, tàn
tật và khiếm khuyết. Nhìn chung mơ hình nhìn nhận người khuyết tật là những
người có vấn đề thể chất và cần được chữa trị. Điều này đã đẩy người khuyết tật
vào thế bị động của người bệnh, tiêu biểu là một số quốc gia như Trung Quốc, Ấn
Độ, Philipines.
Còn theo quan điểm về người khuyết tật theo mơ hình xã hội là quan điểm
người khuyết tật sinh ra là sự thể hiện đa dạng về hình thể con người, người khuyết
tật cho rằng nhiều người bị khiếm khuyết ở nhiều cách khác nhau nhưng chỉ xã hội
biến họ thành khuyết tật. Nói cách khác mơ hình xã hội, người xã hội nhìn họ là
người khuyết tật thì họ sẽ là người khuyết tật. Tiêu biểu cho quan điểm này là các
quốc gia Hoa Kỳ, Đức, Nam Phi, Việt Nam,…
So với các nước trên thế giới, khái niệm về người khuyết tật của Việt Nam
nằm trong nhóm quan điểm khuyết tật xã hội. Trước kia, pháp luật Việt Nam nhìn
nhận người khuyết tật dưới góc độ “người tàn tật”. Theo quy định của Pháp lệnh về
người tàn tật năm 1998 “người tàn tật không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là
người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện
dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, lao động, sinh
hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”. Kế thừa những quy định của Pháp lệnh người
tàn tật năm 1998, ngày 17/6/2010 Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật người
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 2
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
khuyết tật và có hiệu lực từ ngày 01/01/2011; từ đây chính thức sử dụng khái niệm
người khuyết tật thay cho khái niệm người tàn tật. Theo quy định tại khoản 1, Điều
2 của Luật này thì “ Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ
phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến hco
lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.”
2. Đặc điểm người khuyết tật
Đặc điểm của người khuyết tật được xem xét dưới hai góc độ:
Thứ nhất là dưới góc độ kinh tế- xã hội: Người khuyết tật là nhóm cư dân
đặc biệt chịu thiệt thòi về mặt kinh tế- xã hội và nhân khẩu học. Người khuyết tật
và gia đình họ thường nghèo, học vấn khơng cao, khó xin việc hoặc thật nghiệp
nên ảnh hưởng đến điều kiện sống của họ. Do khuyết tật nên người khuyết tật khó
khăn trong việc sinh hoạt, học tập, kết hơn, sinh con… Ngồi ra quan niệm của xã
hội về người khuyết tật còn nhiều tiêu cực, dẫn đến sự kỳ thị và phân biệt đối xử,
hơn nữa hoạt động hỗ trợ cho người khuyết tật còn nhiều hạn chế, thực tế sự hỗ trợ
của nhà nước và cộng đồng mang tính từ thiện hơn là phát triển con người.
Thứ hai là dưới góc độ dạng tật và mức độ khuyết tật: Căn cứ Điều 3 Luật
người khuyết tật 2010 và Nghị định số 28/2012/NĐ-CP quy định như sau:
Khuyết tật vận động: là người có cơ quan vận động bị tổn thương, gây khó
khăn trong hoạt động di chuyển, cầm nắm…
Khuyết tật nghe, nói: Là những người khó khăn nghe, nói, hạn chế trong
giao tiếp, đọc viết, tiếp cận thơng tin…
Khuyết tật nhìn: là những người có khuyết tật về mắt khiến họ khơng nhìn
thấy hoặc nhìn khơng rõ.
Khuyết tật trí tuệ: là những người có trí tuệ dưới mức trung bình. Chỉ số
thơng minh đạt 70 hoặc dưới 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân, họ bị
thiếu hụt một hoặc ít nhất hai trong só những hành vi thích ứng như giao tiếp, tự
chăm sóc, sống tại gia đình, kỹ năng xã hội hoặc sử dụng tiện ích trong cộng
đồng… Ngoài ra, tật xuất hiện trước 18 tuổi.
Khuyết tật khác: rối loạn hành vi, rối loạn cảm xúc, người đa tật, người mắc
hội chứng tự kỉ…
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 3
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
Có thể thấy mỗi quan điểm có những điểm mạnh và điểm yếu nhất định.
Quan điểm cá nhân hoặc y tế có tác dụng tốt trong một số lĩnh vực cụ thể như y tế
phục hồi chức năng và bảo đảm xã hội. Quan điểm khuyết tật theo mơ hình xã hội
là cơng cụ quan trọng để giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của người khuyết tật bị
tách biệt khỏi cuộc sống chung, nhìn chung khái niệm người khuyết tật có ý nghĩa
là cơ sở pháp lý để công nhận ai là người khuyết tật và từ đó được bảo vệ bằng hệ
thống pháp luật liên quan. Thông qua quy định của các hệ thống pháp luật khác
nhau cho thấy để đưa ra khái niệm thuyết phục và thống nhất về người khuyết tật là
không dễ dàng, tuy nhiên cũng cần khẳng định rằng định nghĩa về người khuyết tật
dù tiếp cận dưới bất cứ góc độ nào, nhất thiết phải phản ánh thực tế là người
khuyết tật có thể gặp các rào cản do yếu tố xã hội, môi trường hoặc con người khi
tham gia vào mọi hoạt động của kinh tế, chính trị, xã hội. Phải đảm bảo rằng họ có
quyền và trách nhiệm khi tham gia vào mọi hoạt động của đời sống như bất cứ
công công dân nào với tư cách là quyền của con người.
II. Quyền của người khuyết tật trong việc miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí,
phương tiện đồ dùng học tập và học bổng
1. Quy định của pháp luật về việc miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí phương tiện
đồ dùng học tập và học bổng
Học phí là một khoản tiền của gia đình người học hoặc người học phải nộp
để góp phần bảo đảm chi phí cho các hoạt động giáo dục.
Theo Điều 4 của Luật người khuyết tật năm 2010 có quy định về quyền của
người khuyết tật : “1. Người khuyết tật được bảo đảm thực hiện các quyền sau
đây:
a) Tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội;
b) Sống độc lập, hòa nhập cộng đồng;
c) Được miễn hoặc giảm một số khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội;
d) Được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề,
việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận cơng trình cơng cộng, phương tiện giao
thơng, cơng nghệ thơng tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ
khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật;
đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật”.
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 4
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
Khoản 2, khoản 3 Điều 27 Luật người khuyết tật 2010: “2. Người khuyết tật
được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối với giáo dục phổ
thông; được ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn, giảm một số môn học hoặc nội
dung và hoạt động giáo dục mà khả năng của cá nhân không thể đáp ứng; được
miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo, các khoản đóng góp khác; được xét cấp học
bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập. 3. Người khuyết tật được cung cấp
phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành riêng trong trường hợp cần thiết; người
khuyết tật nghe, nói được học bằng ngơn ngữ ký hiệu; người khuyết tật nhìn được
học bằng chữ nổi Braille theo chuẩn quốc gia.”
Tại Thông tư liên tịch số 42/2013/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH-BTC cũng đã
quy định chính sách về giáo dục đối với người khuyết tật: “Điều 6. Chính sách về
học phí: Người khuyết tật học tại các cơ sở giáo dục được miễn, giảm học phí và
hỗ trợ chi phí học tập theo quy định tại Nghị định số 49/2010/NĐ-CP về miễn
giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở
giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học
2014 - 2015 và Nghị định số 74/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2010 của Chính phủ”.
Cũng trong thơng tư trên, tại Điều 7 quy định Chính sách học bổng và hỗ trợ
phương tiện, đồ dùng học tập:
“1. Người khuyết tật thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo đi học tại các cơ sở giáo
dục được hưởng học bổng mỗi tháng bằng 80% mức lương cơ sở theo quy định
của Chính phủ trong từng thời kỳ.Người khuyết tật thuộc đối tượng được hưởng
chính sách đang học tập tại cơ sở giáo dục đại học, trung cấp chuyên nghiệp được
cấp học bổng 10 tháng/năm học; người khuyết tật thuộc đối tượng được hưởng
chính sách đang học tập tại cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông,
trung tâm giáo dục thường xuyên, trường chuyên biệt, trung tâm hỗ trợ phát triển
giáo dục hòa nhập được cấp học bổng 9 tháng/năm học.
Không áp dụng chế độ này đối với các đối tượng người khuyết tật đã được
hưởng học bổng chế độ chính sách theo quy định tại Quyết định số 152/2007/QĐTTg ngày 14 tháng 9 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ.
2. Người khuyết tật thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo đang học tại các cơ
sở giáo dục được hỗ trợ kinh phí để mua sắm phương tiện, đồ dùng học tập với
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 5
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
mức 1.000.000 đồng/người/năm học.Người khuyết tật thuộc đối tượng được hưởng
chính sách hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập mà cùng một lúc được hưởng
nhiều chính sách hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập khác nhau thì chỉ được
hưởng một chế độ hỗ trợ cao nhất.
3. Các cơ sở giáo dục cơng lập có người khuyết tật đang theo học được Nhà
nước hỗ trợ kinh phí để mua sách, tài liệu học tập, đồ dùng học tập đặc thù dùng
chung, đảm bảo ở mức tối thiểu.
Hàng năm, vào thời điểm lập dự toán ngân sách của năm kế hoạch, cơ sở
giáo dục căn cứ vào số người khuyết tật đang học, các dạng tật để lập phương án
mua sắm (tài liệu học tập, đồ dùng học tập đặc thù dùng chung) và dự toán kinh
phí chi tiết gửi cơ quan chủ quản phê duyệt để tổng hợp gửi cơ quan tài chính
trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt. Trên cơ sở dự tốn kinh phí được phê
duyệt và căn cứ vào đặc điểm thực tế của cơ sở giáo dục, người đứng đầu cơ sở
giáo dục thực hiện mua sắm theo quy định”.
2. Đánh giá các quy định về quyền của pháp luật về việc miễn giảm học phí, hỗ
trợ chi phí phương tiện đồ dùng học tập và học bổng
Hiện nay, pháp luật đã có nhiều quy định đảm bảo chế độ học tập cho người
khuyết tật nói riêng và cải cách theo hướng tơn trọng quyền con người nói chung.
Thể hiện rõ nhất là các công ước mà Việt Nam đã ký kết, nội luật hóa trong các văn
bản pháp luật của nhà nước. Cùng là cá nhân nhưng người khuyết tật ln phải
chịu thiệt thịi hơn về thể chất và tinh thần. Họ gặp phải rất nhiều khó khăn về kinh
tế bởi vì họ khơng thể sinh hoạt, lao động như người bình thường. Vì vậy, họ cần
sự giúp đỡ khơng chỉ từ Nhà nước mà cịn từ cả cộng đồng. Pháp luật Việt Nam đã
quy định những chính sách hỗ trợ cho người khuyết tật nhằm đảm bảo cho họ được
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Đặc biệt, quy định về việc miễn giảm
học phí, hỗ trợ chi phí, phương tiện, đồ dùng học tập và cấp học bổng cho người
khuyết tật là Nhà nước đang giúp những đối tượng yếu thế hơn trong xã hội đảm
bảo quyền của họ giống như những công dân khác.
Tuy nhiên, mặc dù cùng nhận những mức hỗ trợ như nhau, cùng là những
người khuyết tật, nhưng bên cạnh những người biết cố gắng phấn đấu trong học tập
thì cịn rất nhiều trường hợp chỉ dựa vào đó mà không biết phấn đấu hơn trong
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 6
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
cuộc sống nói chung. Vì vậy, Nhà nước cần có những chính sách siết chặt hơn nữa
về các trường hợp này.
Đặc biệt, trong vấn đề giáo dục hiện nay ở nước ta dành cho dạng tật điếc
hay khiếm thính rất hạn chế. Chưa có hoặc có rất ít các quy định của pháp luật
dành cho dạng khuyết tật này. Hiện nay, trên phạm vi cả nước nhưng cũng chỉ mới
có khoảng 50 người có thể làm phiên dịch thành thạo cho những người dạng
khuyết tật này. Đồng thời, các trường giảng dạy riêng cho người khuyết tật dạng
này có rất ít; hầu hết những người khuyết tật này đều phải đi học chung với những
người bình thường, điều này gây rất nhiều khó khăn cho người khuyết tật.
III. Quy định về trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng cho
người khuyết tật và thực tiễn thực hiện
1. Quy định của pháp luật về trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng
tháng cho người khuyết tật và thực tiễn thực hiện
Theo quy định của Điều 44 Luật người khuyết tật 2010: “ Trợ cấp xã hội, hỗ
trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng:
1. Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm:
a, Người khuyết tật đặc biệt nặng, trừ trường hợp quy định tại điều 45 của
luật này (nuôi dưỡng NKT trong cơ sở bảo trợ xã hội).
b, Người khuyết tật nặng.
2. Đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng bao gồm.
a, Gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng
chăm sóc người đó.
b, Người nhận ni dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng;
c, Người khuyết tật tại khoản 1 điều này đang mang thai hoặc nuôi con dưới
36 tháng tuổi.
3. Người khuyết tật theo quy định tại khoản 1 Điều này là trẻ em, người cao
tuổi được hưởng mức trợ cấp cao hơn đối tượng khác cùng mức độ khuyết tật.
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 7
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
4. Mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng
đối với từng loại đối tượng theo quy định tại điều này do Chính phủ quy định.”
Theo đó, quy định của pháp luật nước ta hiện nay thì có hai đối tượng là
khuyết tật được hưởng trợ cấp, hỗ trợ kinh phí hàng tháng là đối tượng bị:
+ Khuyết tật nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc
suy giảm chức năng, khơng tự kiểm sốt hoặc không tự thực hiện được một số hoạt
động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh
hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc. Đây là đối
tượng có khả năng tự phục vụ sinh hoạt nếu có người, phương tiện trợ giúp một
phần hoặc suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%. Theo quy định của pháp
luật hiện hành thì đối tượng bị khuyết tật nặng được trợ cấp hàng tháng là hệ số
1.5. Nếu người khuyết tật nặng là người già, trẻ em thì được hưởng hệ số 1.5 (hệ
số1 là 180.000 đồng).
+ Khuyết tật đặc biệt nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn
toàn chức năng, khơng tự kiểm sốt hoặc khơng tự thực hiện được các hoạt động đi
lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá
nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hồn tồn. Đây là
đối tượng khơng có khả năng tự phục vụ hoặc được hội đồng giám định y khoa kết
luận khơng cịn khả năng tự phục vụ hoặc suy giảm khả năng lao động từ 81% trở
lên. Mức trợ cấp hàng tháng cho người khuyết tật nặng là hệ số 2.0. Nếu là người
khuyết tật đặc biệt nặng là người già, trẻ em thì được hưởng mức hệ số trợ cấp là
2.5. Nếu người khuyết tật ở nhiều thành phần thì được hưởng cao nhất. Như vậy,
theo quy định của pháp Luật Việt Nam thì tiêu chí xác định đối tượng trợ cấp chỉ
dừng lại ở mức độ khuyết tật chỉ dừng lợi ở mức độ khuyết tật mà khơng để cập
đến vấn đề hồn cảnh kinh tế, tình trạng tài sản, tình trạng nhân thân.
Ngồi ra các quy định về hệ số tính mức trợ cấp, kinh phí chăm sóc được
quy định tại Điều 16 và Điều 17 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP. Cụ thể như sau:
“Hệ số tính mức trợ cấp xã hội hàng tháng đối với người khuyết tật sống tại
hộ gia đình được quy định như sau:
a) Hệ số hai (2,0) đối với người khuyết tật đặc biệt nặng;
b) Hệ số hai phẩy năm (2,5) đối với người khuyết tật đặc biệt nặng là người
cao tuổi, người khuyết tật đặc biệt nặng là trẻ em;
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 8
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
c) Hệ số một phẩy năm (1,5) đối với người khuyết tật nặng;
d) Hệ số hai (2,0) đối với người khuyết tật nặng là người cao tuổi, người
khuyết tật nặng là trẻ em”.
Hệ số tính mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng:
“1. Hệ số tính mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối với người
khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng đang mang thai hoặc nuôi con
dưới 36 tháng tuổi được quy định như sau:
a) Hệ số một phẩy năm (1,5) đối với người khuyết tật đặc biệt nặng, người
khuyết tật nặng đang mang thai hoặc nuôi một con dưới 36 tháng tuổi;
b) Hệ số hai (2,0) đối với người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật
nặng đang mang thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi;
c) Hệ số hai (2,0) đối với người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật
nặng đang nuôi từ hai con trở lên dưới 36 tháng tuổi;
d) Trường hợp người khuyết tật thuộc diện hưởng các hệ số khác nhau quy
định tại Điểm a, Điểm b và Điểm c Khoản 1 Điều này thì chỉ được hưởng một hệ
số cao nhất;
đ) Trường hợp cả vợ và chồng là người khuyết tật thuộc diện hưởng hỗ trợ
kinh phí chăm sóc hàng tháng quy định tại Khoản 1 Điều này thì chỉ được hưởng
một suất hỗ trợ kinh phí chăm sóc quy định tại Điểm a, Điểm b và Điểm c Khoản 1
Điều này.
2. Trường hợp người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng đang
hưởng trợ cấp xã hội quy định tại Khoản 1 Điều 16 Nghị định này nhưng mang
thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì vẫn được hưởng kinh phí hỗ trợ chăm
sóc quy định tại Khoản 1 Điều này.
3. Hộ gia đình đang trực tiếp ni dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc
biệt nặng được hưởng kinh phí hỗ trợ chăm sóc hệ số một (1,0).
4. Người đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 19 Nghị định này khi nhận
ni dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng được hỗ trợ kinh phí chăm
sóc với hệ số được quy định như sau:
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 9
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
a) Hệ số một phẩy năm (1,5) đối với trường hợp nhận ni dưỡng, chăm sóc
một người khuyết tật đặc biệt nặng;
b) Hệ số ba (3,0) đối với trường hợp nhận ni dưỡng, chăm sóc từ hai
người khuyết tật đặc biệt nặng trở lên”.
2. Thực tiễn thực hiện
Sau khi Luật Người khuyết tật được ban hành, đến nay, hệ thống Luật pháp
chính sách về người khuyết tật tương đối đầy đủ, thống nhất và toàn diện. Việc tổ
chức thực hiện chính sách pháp luật về người khuyết tật đã tạo ra những chuyển
biến tích cực đối với cuộc sống của người khuyết tật.
Sự thay đổi về nhận thức xã hội giúp người khuyết tật tự tin hơn, các rào cản
xã hội từng bước giảm dần, quyền của người khuyết tật ngày càng được đảm bảo
tốt hơn, giúp cho người khuyết tật hoà nhập vào đời sống xã hội thuận lợi. Bên
cạnh đó, Nhà nước ln quan tâm ban hành nhiều chính sách, ưu tiên nguồn lực
cho việc thực hiện chính sách, chương trình, đề án trợ giúp người khuyết tật. Đồng
thời, hoạt động trợ giúp người khuyết tật cũng nhận được nhiều sự quan tâm, phát
huy trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư.
Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Phó Chủ tịch Ủy ban
Quốc gia về người khuyết tật Việt Nam Nguyễn Trọng Đàm cho rằng, mọi người
dân cần nâng cao nhận thức và xóa bỏ những rào cản, kỳ thị xã hội đối với người
khuyết tật, có cái nhìn đúng hơn, phù hợp hơn và cởi mở hơn, để người khuyết tật
có thể tự tin tham gia vào mọi lĩnh vực xã hội và đặc biệt trao cho họ quyền tự
quyết định cuộc sống của họ: “Việc ưu tiên số một là chúng ta phải rà sốt và điều
chỉnh lại hệ thống chính sách cho tương thích với cơng ước xem cịn luật pháp,
chính sách nào liên quan đến người khuyết tật nằm ở các văn bản khác nhau, còn
chỗ nào cần phải điều chỉnh. Đồng thời, ưu tiên đầu tiên là giải quyết vấn đề tiếp
cận cho người khuyết tật, tiếp cận về giao thông, thông tin, nhà ở phải tập trung
giải quyết sớm để tạo cơ hội cho người khuyết tật có thể đi lại, hội nhập được.
Tiếp theo là thúc đẩy mạnh chương trình hỗ trợ về học chữ và học nghề, tìm
kiếm việc làm cho người khuyết tật” - Thứ trưởng Nguyễn Trọng Đàm nhấn mạnh.
Giai đoạn 2011-2015, kinh tế đất nước có khó khăn, thách thức, song Đảng
và Nhà nước ta đã có nhiều giải pháp để bảo đảm an sinh xã hội, trong đó có lĩnh
vực trợ giúp xã hội tiếp tục là điểm sáng. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày
01/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề chính sách xã
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 10
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
hội giai đoạn 2012-2020 cũng nhấn mạnh: “Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp
xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng
dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách Nhà nước.
Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác
định người thuộc diện được hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hồn thiện chính sách
trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở trợ giúp xã hội, phát triển mơ
hình chăm sóc người có hồn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến khích sự tham
gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mơ hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ
em mồ cơi, người khuyết tật, nhất là mơ hình nhà dưỡng lão”. Thực hiện chủ
trương của Đảng, Nhà nước và các Nghị quyết của Quốc hội, công tác trợ giúp xã
hội thời gian qua đã đạt được những kết quả chính như sau:
Thứ nhất, theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, hiện cả
nước có khoảng 7,2 triệu người khuyết tật từ 5 tuổi trở lên, chiếm 7,8% dân số.
Trong đó, có hơn 796.500 người khuyết tật đặc biệt nặng và nặng được hưởng trợ
cấp xã hội hàng tháng. Cả nước đã hình thành, phát triển được 67 cơ sở trợ giúp
người khuyết tật, cung cấp dịch vụ, phục hồi chức năng, hướng nghiệp dạy
nghề và công tác xã hội đối với những người khuyết tật có hồn cảnh đặc biệt khó
khăn. Người khuyết tật sống trong các Trung tâm Bảo trợ xã hội đều được các địa
phương nâng mức trợ cấp, mức tiền ăn lên gấp từ 1,5 đến 2 lần chính sách chung
của nhà nước (9). So với năm 1998, số người khuyết tật được hưởng các chính
sách trợ giúp xã hội tăng gấp 4 lần. Các chế độ trợ giúp cũng đã được điều chỉnh
tăng từ 45.000 đồng/tháng năm 2000 lên 65.000 đồng/tháng năm 2004 và 120.000
đồng/tháng năm 2007. Chính sách trợ giúp xã hội đã góp phần quan trọng trong
việc ổn định đời sống vật chất và tinh thần của người khuyết tật.
Thứ hai, thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách trợ giúp xã hội thường
xuyên. Tính đến cuối năm 2008, cả nước đã giải quyết cho 2,485 triệu người
hưởng chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng, trong đó có 576.000 người khuyết tật
nặng, 190.737 người tâm thần, 5.465 gia đình có từ 2 người khuyết tật nặng trở lên,
với tổng kinh phí hơn 7.121 tỷ đồng. Theo báo cáo sơ bộ, đã có 15 tỉnh, thành phố
tự cân đối được ngân sách đã chủ động nâng mức trợ cấp hàng tháng cho đối tượng
bảo trợ xã hội cao hơn mức quy định của Chính phủ như Hà Nội 350.000
đồng/tháng, Bình Dương 340.000 đồng/tháng, Quảng Ninh 300.000 đồng/tháng, …
(7)
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 11
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
Thứ ba, năm 2013, Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi Việt Nam tiếp
tục thực hiện chương trình hỗ trợ kinh tế và cải thiện sinh hoạt cho 7.000 người
khuyết tật tại 50 xã với kinh phí 12,700 tỷ đồng (tiền, ngày công lao động và hiện
vật quy ra tiền). Sau 3 năm triển khai chương trình này, đến nay đã có 124 xã thực
hiện chương trình hỗ trợ sinh kế, trong đó phần lớn gắn với các xã thực hiện
chương trình xây dựng nơng thơn mới. Chương trình đã góp phần tích cực, có hiệu
quả vào việc thực hiện các tiêu chí xây dựng nơng thơn mới. Ngồi ra hội cịn xây
mới, sửa chữa 775 nhà tình thương, nhà đại đồn kết, với tổng số tiền chi là 21 tỷ
đồng, thăm hỏi, tặng quà cho 213.000 lượt người, với tổng số tiền chi là 67 tỷ
đồng, trợ cấp thường xuyên cho 63.000 người, với tổng số tiền chi là 21,3 tỷ đồng (
ngoài trợ cấp thường xuyên của Nhà nước). (7)
Thứ tư, đã từng bước quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã
hội và dịch vụ trợ giúp xã hội. Hiện nay, cả nước có 408 cơ sở trợ giúp xã hội, gồm
194 cơ sở công lập và 214 cơ sở ngồi cơng lập, được thành lập, hoạt động, kiện
toàn theo quy định tại Nghị định số 68/2008/NĐ-CP, Nghị định số 81/2012/NĐ-CP
của Chính phủ. Trong đó, có 31 cơ sở chăm sóc người cao tuổi, 71 cơ sở chăm sóc
người khuyết tật, 139 cơ sở chăm sóc trẻ em, 102 cơ sở tổng hợp, 31 cơ sở chăm
sóc người tâm thần, 34 Trung tâm cơng tác xã hội với khoảng 10.000 cán bộ, nhân
viên. (6)
Nhìn tổng thể, chính sách trợ giúp xã hội ở Việt Nam đã đạt được thành quả
góp phần bảo đảm an sinh xã hội cho người dân. Hệ thống trợ giúp xã hội tuy đã
hình thành nhưng chưa được hồn thiện theo cách tiếp cận hệ thống, đồng bộ, toàn
diện, bao phủ hết đối tượng, gắn kết chặt chẽ trong mối tương quan với an sinh xã
hội, giảm nghèo bền vững, phát triển các dịch vụ xã hội cơ bản và tiếp thu có chọn
lọc kinh nghiệm quốc tế về phát triển trợ giúp xã hội, nhất là trong điều kiện Việt
Nam là nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
3. Một số kiến nghị đề xuất
Trong thời gian tới, nước ta phải đối mặt với khơng ít khó khăn, thách thức
như: vấn đề già hoá dân số; tác động của biến đổi khí hậu và nhiều nguyên nhân
khác nhau làm gia tăng số người cao tuổi khuyết tật. Đứng trước những khó khăn
trên, người viết xin đưa ra một số biện pháp cải thiện tình hình thực tế:
- Thứ nhất, mục tiêu cấp bách trước mắt phải hoàn thiện hệ thống pháp luật
về người khuyết tật. Cụ thể phải rà soát, kiểm tra để phát hiện sự chưa thống nhất
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 12
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
trong các văn bản, lược bỏ những thủ tục rườm rà để kinh phí hỗ trợ đến với người
khuyết tật đúng và nhanh nhất. Việc xác định dạng tật, mức độ khuyết tật nên giao
cho Bộ y tế và người có chun mơn cao để hồn thành nhanh và hiệu quả nhất.
- Thứ hai, quá trình phát triển của chính sách trợ giúp xã hội phải gắn liền
với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trợ giúp xã hội là một bộ phận của chính
sách kinh tế - xã hội, do vậy q trình hoàn thiện và phát triển phải dựa trên cơ sở
của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thứ ba, chính sách trợ giúp xã hội phải gắn liền với quá trình cải cách thể
chế hành chính Nhà nước trên cả phương diện về cải cách thể thế chính sách, cải
cách thể chế nghiệp vụ, cải cách thể chế tổ chức thực thi chính sách và cải cách thể
chế tài chính.
- Thứ tư, từng bước hiện đại hóa, ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong giải
quyết chính sách về an sinh xã hội, đáp ứng nhu cầu thông tin cho các cấp quản lý
nhanh nhạy, kịp thời, chính xác, góp phần cải cách hành chính trong trợ giúp xã
hội.
- Thứ năm, cần đào tạo nâng cao trình độ chun mơn cho đội ngũ cán bộ,
công chức tham giam hoạt động này.
- Thứ sáu, thường xuyên thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động cấp
phát trợ cấp xã hội, kinh phí chăm sóc cho người khuyết tật.
C. KẾT LUẬN
Người khuyết tật là đối tượng yếu thế nên dễ chịu tổn thương từ những thay
đổi của xã hội hơn bất cứ đối tượng nào khác. Do vậy việc chăm sóc, giúp đỡ
người khuyết tật trong hòa nhập cuộc sống cộng đồng là một việc làm hết sực quan
trọng, cần sự chung tay của Nhà nước, cộng đồng và gia đình. Từ đó xây dựng một
xã hội vững mạnh hơn, đảm bảo được quyền con người cho tất cả người dân.
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 13
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật Người Khuyết tật Việt Nam, ĐH Luật Hà Nội, Nxb
CAND, Hà Nội 2011;
2. Luật Người khuyết tật 2010;
3. Nghị định số 28/2012/ NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của luật Người Khuyết tật;
4. Thông tư liên tịch số 42/2013/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH-BTC
5. Công ước của UN về quyền của Người khuyết tật;
6. />7. />8. />9. />10. />
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 14
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
E. PHỤ LỤC
Giờ học của học sinh khiếm thị trường Nguyễn Đình Chiểu
Giờ học tốn của cơ và trị lớp 1 khiếm thị (Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh)
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 15
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
Lớp học dệt tại Trung tâm dạy nghề người khuyết tật tỉnh Bình Dương.
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 16
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
Việc trẻ tự kỷ hòa nhập ở trường học cần có sự phồi hợp chặt chẽ giữa nhà
trường và phụ huynh.
Bảng 1: Tỷ lệ và số người khuyết tật theo dạng khuyết tật và mức độ khó
khăn năm 2009
Dạng
Khó khăn trở lên
khuyết tật
%
Số người
Nhìn
5,03
3.947.473
Nghe
3,13
2.451.536
Vận động
3,70
2.901.393
Tập
3,52
2.901.393
trung/Ghi
nhớ
Ít nhất
7,75
6.074.543
một trong
bốn dạng
Đa
3,78
2.967.201
khuyết tật
Mức độ khó khăn
Rất khó khăn trở lên
Khơng thể thực hiện
được
%
Số người
0,12
92.138
0,13
104.098
0,24
190.872
0,23
183.751
%
0,63
0,62
0,91
0,82
Số người
493.604
491.084
712.851
644.697
1,69
1.324.424
0,49
384.561
1,18
925.877
0,14
109.140
(Nguồn: />
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 17
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
Dạng khuyết tật
Tỷ lệ biết đọc biết viết của
người trưởng thành từ 16
tuổi trở lên
Tỷ lệ biết đọc biết viết của
thanh thiếu niên (15 đến 24
tuổi)
Tỷ số nữ/nam tuổi 15 đến 24
biết đọc biết viêt
Chưa bao giờ đi học
Tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp THCS
Tốt nghiệp THPT
Trung bình
Trung vị
Tỷ lệ người trưởng thành (16
tuổi trở lên) được đào tạo
chuyên môn kỹ thuật
Tỷ lệ biết đọc biết viết của
người trưởng thành từ 16
tuổi trở lên
Tỷ lệ biết đọc biết viết của
thanh thiếu niên (15 đến 24
tuổi)
Tỷ số nữ/nam tuổi 15 đến 24
biết đọc biết viêt
Chưa bao giờ đi học
Tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp THCS
Tốt nghiệp THPT
Trung bình
Trung vị
Tỷ lệ người trưởng thành (16
tuổi trở lên) được đào tạo
chuyên mơn kỹ thuật
Nhìn
Nghe
76,57
Vận
động
Tập
trung/
Ghi
nhớ
Khơng
khuyết
tật
Khuyết tật
Đa
khuyết
tật
Khó khăn trở lên
66,69
71,21
65,07
76,28
67,61
95,16
79,92
43,43
57,81
43,23
69,11
35,74
97,09
1,1
0,6
0,6
0,6
0,8
0,7
1,0
19,24
47,8
25,87
13,18
25,99
35,59
16,70
7,91
4,16
82,85
57,31
34,57
5,13
4
16,81
4,52
4
16,42
45,44
34,93
Người trưởng thành từ 16 tuổi trở lên
18,62
26,94
22,94
28,08
47,11
35,23
40,03
35,31
25,86
16,63
19,85
16,55
13,76
7,77
9,52
7,72
Số năm đi học
5,02
4,54
4,77
4,62
4
4
4
4
16,07
16,65
16,9
16,7
38,49
Không thể thực hiện
33,70
55,68
33,95
19,89
17,41
26,09
11,51
21,09
9,4
0,7
0,7
0,5
0,7
0,6
0,6
Người trưởng thành từ 16 tuổi trở lên
47,63
58,69
34,94
56,35
45,63
23,68
18,94
34,52
23,37
28,86
10,68
8,07
16,93
11,88
14,1
5,38
4,20
9,18
6,44
7,47
Số năm đi học
4,41
4,41
4,85
5
4,88
4
4
4
4
4
9,71
23,8
11,89
15,92
17,09
6,78
7
17,34
53,66
21,26
9,9
5,33
4,45
4
15,6
Bảng 2: Giáo dục và đào tạo theo tình trạng khuyết tật và mức độ khó khăn năm 2009 (Đơn vị: %)
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 18
Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài tập lớn môn Pháp luật về người Khuyết tật
(Nguồn: />
SV: Nguyễn Thị Trinh - 381648
Trang 19