NHÓM 7: Chủ đề: Tài nguyên đất.
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng,
có rất nhiều loại tài nguyên quý giá phục vụ cho các ngành nông nghiệp, công
nghiệp, nghiên cứu khoa học và phục vụ đời sống hằng ngày của con người.
Chúng ta có thể kể đến các loại tài nguyên như tài nguyên đất, tài nguyên
rừng ,tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước,…..
Trong các loại tài nguyên nói trên, có những loại tài nguyên có thể tái tạo và
phục hồi, song lại có những loại tài nguyên không thể tái tạo được. Trong khi
con người và các loài sinh vật ngày càng tiến hóa, phát triển về cả số lượng lẫn
chất lượng , cùng với sự phát triển đó thì việc tiêu thụ và làm hao mòn các loại
tài nguyên cũng ngày càng tăng lên, điều đó không chỉ làm giảm sút về số lượng
mà thậm chí còn dẫn đến tình trạng ô nhiễm , cạn kiệt các loại tài nguyên nói
trên, ảnh hưởng đến môi trường sống hiện tại và thế hệ loài người về sau.
Chính vì tầm quan trọng cũng như sự có hạn về số lượng của các loại tài nguyên
trên thế giới , mà con người chúng ta cần phải khai thác, sử dụng các loại tài
nguyên một cách tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ và tìm cách phục hồi nếu có thể.
Nhắc đến tài nguyên, trong đó có tài nguyên đất- nó vừa là nguyên iệu cho hoạt
động sản xuất và cũng chính là môi trường sống của con người cũng như các
loài sinh vật khác. Xác định được tầm quan trọng đó của tài nguyên đất ,nhà
nước ta cần phải làm gì để bảo vệ chúng?
Theo sự phân công của giảng viên, sau đây nhóm 7 xin bày khái quát về tài
nguyên đất, tầm quan trọng và các giải pháp bảo vệ tài nguyên đất- một trong
các loại tài nguyên quý giá và cần được bảo vệ nhất hiện nay.
Trong bài làm của nhóm chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, nhóm
rất hi vọng nhận được sự góp ý của giảng viên và các bạn trong lớp.
Xin cảm ơn.
Mục lục:
LỜI MỞ ĐẦU
A.TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN ĐẤT
I. Khái niệm, quá trình hình thành, hiện trạng sử dụng
đất.
1. Khái niệm.
2. Qúa trình hình thành tài nguyên đất.
3. Hiện trạng khai thác và sử dụng tài nguyên đất hiện nay.
II. Vai trò của tài nguyên đất
III. Quy mô tài nguyên đất trên thế giới và ở Việt Nam
1.
Quy mô tài nguyên đất trên thế giới.
2. Quy mô tài nguyên đất ở việt nam.
B. NỘI DUNG
I. Thực trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường đất hiện nay
1. Trên Thế giới
2. Ở Việt nam
II. Các nguyên nhân (tác động, ảnh hưởng) gây suy giảm và ô nhiễm tài
nguyên đất.
1. Do yếu tố tự nhiên
2. Ô nhiễm, suy thoái do việc đẩy mạnh đô thị hóa,bùng nổ dân số, hoạt động
công nghiệp và mạng lưới giao thông
3. Ô nhiễm do hoạt động nông nghiệp
4. Do chất thải sinh hoạt
5. Ô nhiễm, suy giảm do tác nhân khác
III
Các giải pháp hạn chế ô nhiễm và suy giảm tài nguyên Đất.
1.
2.
3.
IV.
Các giải pháp hạn chế.
Các giải pháp khắc phục suy giảm .
Các giải pháp bảo vệ tài nguyên đất
Quản lý nhà nước về tài nguyên đất
Các chính sách và văn bản của nhà nước.
Các công cụ quản lý của nhà nước.
1.
2.
C.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
II. Kiến nghị.
A. TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN ĐẤT
I. Khái niệm, quá trình hình thành, hiện trạng sử dụng đất.
1. Khái niệm
Ðất là một dạng tài nguyên vật liệu của con người. Ðất có hai nghĩa:
đất đai là nơi ở, xây dựng cơ sở hạ tầng của con người và thổ
nhưỡng là mặt bằng để sản xuất nông lâm nghiệp.
Ðất theo nghĩa thổ nhưỡng là vật thể thiên nhiên có cấu tạo độc lập
lâu đời, hình thành do kết quả của nhiều yếu tố: đá gốc, động thực
vật, khí hậu, địa hình và thời gian.
Thành phần cấu tạo của đất gồm các hạt khoáng chiếm 40%, hợp
chất humic 5%, không khí 20% và nước 35%.
Giá trị tài nguyên đất được đo bằng số lượng diện tích (ha, km2) và
độ phì (độ mầu mỡ thích hợp cho trồng cây công nghiệp và lương
thực)
2. Qúa trình hình thành đất:
- Do yếu tố vô sinh:
+ Đá mẹ: cung cấp vật chất vô cơ, khoáng chất.Khí hậu: cung cấp
mưa, gió, nhiệt độ, độ ẩm..
+ Sự cố môi trường như núi lửa, động đất, sạt lở đất, bão
-Do yếu tố hữu sinh:
+ Thực vật: tổng hợp các chất vô cơ và hữu cơ
+ Động vật: đào xới đất để tìm thức ăn, làm giàu them chất dinh
dưỡng
+ Vi sinh vật: phân giải, tổng hợp chất hữu cơ.
+ Con người tác động trên 2 mặt tích cực và tiêu cực . Tích cực:
trồng trọt, làm thoáng khí , tăng tính đệm của môi trường sinh thái.
Tiêu cực: Khai thác kiệt quệ các tái nguyên trong long đất, chặt phá
rừng quá mức làm hư hỏng cấu trúc đất, sử dụng quá nhiều phân
bón, thuốc hóa học độc hại trong sản xuất nông nghiệp.
3.Hiện trạng tài nguyên đất trên thế giới và ở Việt Nam
a. Thế giới
Tổng diện tích đất tự nhiên là 14,8× 109 (148 triệu km2), trong đó
đất tốt thích hợp cho sản xuất nông nghiệp (đất phù sa, đất rừng
nâu, đất đen) chiếm 12,6%, còn lại là đất xấu (như tuyết, băng hà,
đất hoang mạc, đất núi, đất đài nguyên) chiếm đến 40,5%.
Diện tích đất thế giới hiện nay: 20% ở vùng quá lạnh, 20% ở vùng
quá khô, 20% ở vùng quá dốc, 10% có tầng đất mỏng, 10% ở vùng
trồng trọt được, 20% có thể làm đồng cỏ, đất trồng trọt chiếm tỉ lệ
thấp, trong đó, đất có năng suất cao (14%), trung bình (28%) và
thấp (58%) (nguồn FAO-UNESCO).
Như vậy, đất trên thế giới phân bố không đều, đất xấu nhiều, đất tốt
ít.
Tài nguyên đất của thế giới hiện đang bị suy thoái nghiêm trọng.
Khoảng 2/3 diện tích đất nông nghiệp trên thế giới đã bị suy thoái
nghiêm trọng trong 50 năm qua do xói mòn, rửa trôi, sa mạc hóa,
chua hóa, mặn hóa.
Xói mòn rửa trôi: mỗi năm rửa trôi xói mòn chiếm 15% nguyên nhân
thoái hóa đất. Trung bình đất đai trên thế giới bị xói mòn 1,8 – 3,4
tấn/ha/năm. Tổng lượng dinh dưỡng bị rửa trôi xói mòn hàng năm là
5,4 – 8,4 triệu tấn tương đương với khả năng sản sinh 30 – 50 triệu
tán lương thực
Hoang mạc hóa: khoảng 30% diện tích trái đất nằm trong vùng khô
hạn đang bị hoang mạc hóa đe dọa và hàng năm có khoảng 6 triệu
ha đất bị hoang mạc hóa, mất khả năng canh tác
b.Việt Nam
Diện tích đất tự nhiên ở nước ta khoảng 33 triệu ha, được xếp thứ
57/200 nước, nhưng dân số đông( khoảng hơn 90 triệu người) nên
diện tích đất bình quân mỗi người vào loại thấp(0,5ha)
Ở Việt Nam tổng diện tích đất hơn 33triệu hecta, tổng diện tích đất bình quân đầu
người là 0,6 hecta, đứng thứ 159 thế giới, bao gồm:
-
Đất feralit khoảng hơn 16triệu hecta
-
Đất phù sa ( Alluvial soil ) khoảng hơn 3triệu hecta
-
Đất sám bạc màu ( Grey exhausted soil ) hơn 3triệu hecta
-
Đất mùn vàng đỏ hơn 3triệu hecta
-
Đất mặn ( saline soil ) khoảng 1,9 triệu hecta
-
Đất phèn ( acid sulphate soil ) khoảng 1,7 triệu hecta
-
Tổng số có hơn 13triệu hecta đất trống đồi trọc
Đất bằng và đất ít dốc chiếm 39%, đất sản xuất nông nghiệp chiếm
17%. Đất cần cải tạo như đất cát, đất ngập mặn, phèn, xám bạc
màu… khoảng 20%.
Diện tích đất nông nghiệp những năm qua có tăng ít nhiều nhưng so
với tỷ lệ tăng dân số thì vẫn sụt giảm. Khả năng mở rộng đất nông
nghiệp là rất hạn chế do điều kiện tự nhiên và kỹ thuật. Ngoài ra đất
chuyên dùng như đất xây dựng, giao thông, thủy lợi, đất ở ngày một
tăng càng làm thu hẹp đất nông nghiệp,
Trung bình, lượng chất dinh dưỡng của đất hàng năm bị mất đi là
chất hữu cơ 5600 tấn/năm; nito 199,2 kg/năm; lân 163,2 kg/năm; Ca
và Mg 33kg/năm. Sự phá hủy rừng đẩy nhanh tốc độ xói mòn và suy
thoái đất. Việc sử dụng quá nhiều phân hóa học và thuốc trừ sâu làm
cho đất bị chai cứng, bị nhiễm độc. Thâm canh tăng vụ, quay vòng
đất nhanh cũng làm cho đất cạn kiệt, không kịp phục hồi
Dưới sức ép của bùng nổ dân số, quá trình CNH,HĐH, các hoạt động
sản xuất vật chất, hoạt động kinh tế khiến chất lượng đất ngày càng
suy giảm.
Hoạt động nông nghiệp ngày càng phát triển kéo theo xu thế sử
dụng đất đai ngày càng lớn.
Hoạt động chặt phá rừng, khai thác mỏ bừa bãi, canh tác nông
nghiệp quá mức làm tăng nhanh quá trình sa mạc hóa ở nước ta.
Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới, mưa nhiều, nhiệt độ không khí cao,
khoáng hóa mạnh, dễ bị rửa trôi, xói mòn, ruộng đất dễ bị thoái hóa,
khó khôi phục lại trạng thái ban đầu
Bên cạnh đó ô nhiễm môi trường đất đang có xu hướng tăng lên do
tăng mức sử dụng, sử dụng không hợp lý các dạng phân bón, chất
thải rắn đô thị chưa được thu gom, phương thức canh tác không
đúng kỹ thuật, đốt nương làm rẫy trên các vung đất dốc, tưới tiêu
không hợp lý đã làm thoái hóa đát như rửa trôi, xói mòn, phèn
hóa,mặn,...
III. VAI TRÒ CỦA TÀI NGUYÊN ĐẤT
Như ta đã biết đất đai có nguồn gốc từ tự nhiên, cùng với vòng
quay của bánh xe thời gian thì con người xuất hiện và tác động
vào đất đai, cải tạo đất đai và biến đất đai từ sản phẩm của tự
nhiên lại mang trong mình sức lao động của con người, tức
cũng là sản phẩm của của xã hội.
- Vai trò kinh tế: trong sản xuất, đất là cơ sở cho nhiều hệ
thống phục vụ cho hoạt động sản xuất của con người.Như trong
sản xuất công nghiệp: đất là địa điểm, mặt bằng, là sơ sở để
tiến hành các hoạt động xây dựng các công trình, nhà máy.
Trong nông nghiệp, đất đóng vai trò quan trọng trong quá trình
trồng trọt và chăn nuôi, cung cấp lương thực, thực phẩm và rất
nhiều sản phẩm khác cho con người sử dụng trực tiếp hay gián
tiếp hằng ngày.
- Vai trò xã hội: Đất đai là một tài nguyên thiên nhiên quý giá
của mỗi quốc gia và nó cũng là yếu tố mang tính quyết định sự
tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật khác trên
trái đất.
+ Đối với một quốc gia thì đất là tài sản quý giá, là tư liệu sản
xuất, là môi trường sống , địa bàn xây dựng các cơ sở về kinh
tế, văn hóa, an ninh- quốc phòng.
+ Vai trò phân chia lãnh thổ: sự thích hợp của đất đai về các
chức năng chủ yếu nói trên thể hiện rất khác biệt ở các vùng
lãnh thổ của mỗi quốc gia nói riêng và trên toàn trái đất nói
chung. Mỗi phần lãnh thổ mang những đặc tính tự nhiên, kinh
tế, xã hội rất đặc thù.
+ Vai trò bảo tồn, bào tàng lịch sử: Đất đai là trung gian để bảo
vệ các chứng tích lịch sử, văn hóa của loài người, là nguồn
thông tin về các điều kiện khí hậu, thời tiết và cả quá trình sử
dụng đất trong quá khứ.
Các Mác đã từng viết: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài
người, là điều kiện để sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu
được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ bản trong nông, lâm
nghiệp”. Bởi vậy, nếu không có đất đai thì không có bất kỳ một
ngành sản xuất nào, con người không thể tiến hành sản xuất ra
của cải vật chất để duy trì cuộc sống và duy trì nòi giống đến
ngày nay
- Vai trò đối với tự nhiên:
+ Là môi trường sống: đất đai là cơ sở của mọi hình thái sinh
vật sống trên lục địa thông qua việc cung cấp các môi trường
sông cho sinh vật và gen di truyền để bào tồn nòi giống cho
thực vật, động vật và các cơ thể sống cả trên và dưới mặt đất.
+ Vai trò cân bằng sinh thái: đất đai và việc sử dụng nó là
nguồn và là tấm thảm xanh đã hình thành một thể cân bằng
năng lượng trái đất thông qua việc phản xạ, hấp thụ và chuyển
đổi năng lượng phóng xạ từ mặt trời và tuần hoàn khí quyền
của địa cầu.
+ Vai trò tàng trữ và cung cấp nguồn nước: đất đai là kho tàng
lưu trữ nước mặt và nước ngầm vô tận, có tác động mạnh tới
chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và có vai trò điều tiết
nước rất to lớn.
+ Vai trò dự trữ: đất đai là kho tài nguyên khoáng sản cung cấp
cho mọi nhu cầu sử dụng của con người.
- Vai trò không gian sự sống: đất đai có chức năng tiếp thu, gạn
lọc, là môi trường đệm và làm thay đổi hình thái, tính chất của
các chất thải độc hại.
+ Là vật mang sự sống: đất đai cung cấp không gian cho sự
chuyển vận của con người, cho đầu tư sản xuất và cho sự dịch
chuyển của động vật... giữa các vùng khác nhau của hệ sinh
thái tự nhiên.
Rõ ràng, đất đai không chỉ có những vai trò quan trọng như đã
nêu trên mà nó còn có ý nghĩa về mặt chính trị. Tài sản quý giá
ấy phải bảo vệ bằng cả xương máu và vốn đất đai mà một quốc
gia có được thể hiện sức mạnh của quốc gia đó, ranh giới quốc
gia thể hiện chủ quyền của một quốc gia. Đất đai còn là nguồn
của cải, quyền sử dụng đất đai là nguyên liệu của thị trường
nhà đất, nó là tài sản đảm bảo sự an toàn về tài chính, có thể
chuyển nhượng qua các thế hệ...
IV. QUY MÔ CỦA TÀI NGUYÊN ĐẤT
1. Quy mô tài nguyên đất trên thế giới
Quả đất có bán kính trung bình 6371 km, chu vi theo đường
xích đạo 40.075 km và diện tích bề mặt của quả đất ước tính
khoảng 510 triệu km2 (tương đương với 51 tỉ hecta) trong đó
biển và đại dương chiếm khoảng 36 tỉ hecta, còn lại là đất liền
và các hải đảo chiếm 15 tỉ hecta.
Diện tích của các lục địa
Ðại lục
Diện tích
Châu Á
43.998.920 km2
Châu Phi
29.800.540 km2
Bắc Mỹ
24.320.100 km2
Nam Mỹ
17.599.050 km2
Châu Âu
9.699.550 km2
Châu Úc
7.687.120 km2
Châu Nam Cực
14.245.000 km2
Theo P. Buringh, toàn bộ đất có khả năng canh tác nông nghiệp
của thế giới 3,3 tỉ hecta (chiếm 22% tổng số đất liền) còn 11, 7
tỉ hecta (chiếm 78% tổng số đất liền) không dùng cho sản xuất
nông nghiệp được. Diện tích các loại đất không sử dụng được
cho nông nghiệp theo bảng sau:
Các loại đất không sử dụng được cho nông nghiệp
Loại đất
Diện tích (ha)
Ðất quá dốc
2, 682 tỉ (18%)
Ðất quá khô
2, 533 tỉ (17%)
Ðất quá lạnh
2, 235 tỉ (15%)
Ðất đóng băng
1, 490 tỉ(10%)
Ðất quá nóng
1, 341 tỉ (9%)
Ðất quá nghèo
0, 745 tỉ (5%)
Ðất quá lầy
0, 596 tỉ (4%)
Ðất trồng trọt trên thế giới chỉ có 1, 5 tỉ hecta (chiếm 10,8%
tổng số đất đai, bằng 46% đất có khả năng nông nghiệp) còn 1,
8 tỉ hecta (54%) đất có khả năng nông nghiệp chưa được khai
thác.
Về mặt chất lượng đất nông nghiệp thì: đất có năng suất cao
chỉ chiếm 14%, đất có năng suất trung bình chiếm 28%và đất
có năng suất thấp chiếm tới 58%. Ðiều nầy cho thấy đất có khả
năng canh tác nông nghiệp trên toàn thế giới có hạn, diện tích
đất có năng suất cao lại quá ít. Mặt khác mỗi năm trên thế giới
lại bị mất 12 triệu hecta đất trồng trọt cho năng suất cao bị
chuyển thành đất phi nông nghiệp và 100 triệu hecta đất trồng
trọt bị nhiễm độc do việc sử dụng phân bón và các loại thuốc
sát trùng.
Ðất nông nghiệp phân bố không đều trên thế giới, tỉ lệ giữa đất
nông nghiệp so với đất tự nhiên trên các lục địa theo bảng sau :
Tỉ lệ % đất tự nhiên và đất nông nghiệp trên toàn thế giới
Các Châu lục
Ðất tự nhiên
Ðất nông nghiệp
Châu A
29,5%
35%
Châu Mỹ
28,2%
26%
Châu Phi
20,0%
20%
Châu Âu
6,5%
13%
Châu Ðại Dương
15,8%
6%
Như vậy, trên toàn thế giới diện tích đất sử dụng cho nông
nghiệp càng ngày càng giảm dần trong khi đó dân số càng
ngày càng tăng. Vì vậy, để có đủ lương thực và thực phẩm cung
cấp cho nhân loại trong tương lai thì việc khai thác số đất có
khả năng nông nghiệp còn lại để sử dụng là vấn đề cần được
đặt ra. Theo các chuyên gia trong lĩnh vực trồng trọt cho rằng
với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật như hiện nay thì có
thể dự kiến cho đến năm 2075 thì con người mới có thể khai
phá hết diện tích đất có khả năng nông nghiệp còn lại đó.
2. Quy mô tài nguyên đất ở Việt Nam
Hiện trạng sử dụng đất đai cả nước tính đến ngày 1/1/2012.
( Đơn vị tính: ha)
S
Mục đích sử dụng
Tổng số
T
T
Đất nông nghiệp
26.280.548
1
Đất sản xuất nông nghiệp
2
Đất trồng cây hàng năm
6.401.385
3
Đất trồng lúa
4.092.828
4
Đất cỏ dùng vào chăn nuôi
4
Đất trồng cây hàng năm khác
2.263.072
6
Đất trồng cây lâu năm
3.749.670
7
Đất lâm nghiệp
8
Đất rừng sản xuất
7.406.558
9
Đất rừng phòng hộ
5.827.314
1
0
Đất rừng đặc dụng
2.139.191
1
1
Đất nuôi trồng thuỷ sản
1
2
Đất làm muối
17.895
1
3
Đất nông nghiệp khác
26.532
Đất phi nông nghiệp
10.151.055
45.485
15.373.063
712.003
3.740.604
1
Đất ở
690.879
2
Đất ở tại nông thôn
549.625
3
Đất ở tại đô thị
141.254
4
5
Đất chuyên dùng
Đất trụ sở cơ quan, công trình sự
nghiệp
6
Đất quốc phòng
7
8
Đất an ninh
Đất sản xuất, kinh doanh phi nông
nghiệp
9
Đất có mục đích công cộng
1
0
Đất tôn giáo, tín ngưỡng
1
1
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
1
2
Đất sông suối và mặt nước chuyên
dùng
1
3
Đất phi nông nghiệp khác
Đất chưa sử dụng
1
Đất bằng chưa sử dụng
2
Đất đồi núi chưa sử dụng
3
Núi đá không có rừng cây
Đất có mặt nước ven biển
(quan sát)
Đất mặt nước ven biển nuôi trồng
thuỷ sản
1
2
3
Đất mặt nước ven biển có rừng
Đất mặt nước ven biển có mục
đích khác
B. NỘI DUNG
I. Thực trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường đất hiện nay
1.846.791
19.573
288.006
42.983
267.315
1.228.914
14.892
100.965
1.082.956
4.120
3.073.958
235.819
2.548.966
289.173
56.261
37.298
4.820
14.143
Ô nhiễm môi trường đất được xem là tất cả các hiện tượng làm
nhiễm bẩn môi trường đất bởi các chất gây ô nhiễm,gây ảnh hưởng
đến đời sống của sinh vật và con người
Thực trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường đất hiện nay
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là nền móng
cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con người. Đất là
một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào hoạt động sản
xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm cho con người.
Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công nghiệp và hoạt động đô
thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, chất lượng đất
ngày càng bị suy thoái, diện tích đất bình quân đầu người. Hiện nay, cùng với ô nhiễm
nước, ô nhiễm không khí thì ô nhiễm đất đai đang trở nên đáng báo động. Ô nhiễm đất
làm ảnh hưởng xấu đến các tính chất của đất, làm giảm năng suất cây trồng và làm
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người. ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài
nguyên đất là rất đáng lo ngại và nghiêm trọng.
1. Ở các nước trên thế giới
Tài nguyên đất của thế giới hiện đang bị suy thoái nghiêm trọng do xói mòn, rửa
trôi, bạc màu, nhiễm mặn, nhiễm phèn và ô nhiễm đất, biến đổi khí hậu.
Khoảng 2/3 diện tích đất nông nghiệp trên thế giới đã bị suy thoái
nghiêm trọng trong 50 năm qua do xói mòn, rửa trôi, sa mạc hóa,
chua hóa, mặn hóa, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng hệ sinh thái
đất. Khoảng 40% đất nông nghiệp đã bị suy thoái mạnh, 10% bị sa
mạc hóa do biến đổi khí hậu và khai thác sử dụng không hợp lý. Sa
mạc Sahara mỗi năm mở rộng lấn mất 100000ha dất nông nghiệp
và đồng cỏ, thoái hóa môi trường đất có nguy cơ làm giảm 10 – 20%
sản lượng lương thực thế giới trong 25 năm tới.
Tỷ trọng đóng góp gây thoái hóa đất trên thế giới như sau: mất rừng
30%, khai thác rừng quá mức 7%, chăn thả gia súc quá mức 35%,
canh tác nông nghiệp không hợp lý 28%, công nghiệp hóa gây ô
nhiễm 1%
Xói mòn rửa trôi: mỗi năm rửa trôi xói mòn chiếm 15% nguyên nhân
thoái hóa đất. Trung bình đất đai trên thế giới bị xói mòn 1,8 – 3,4
tấn/ha/năm. Tổng lượng dinh dưỡng bị rửa trôi xói mòn hàng năm là
5,4 – 8,4 triệu tấn tương đương với khả năng sản sinh 30 – 50 triệu
tán lương thực
Hoang mạc hóa: khoảng 30% diện tích trái đất nằm trong vùng khô
hạn đang bị hoang mạc hóa đe dọa và hàng năm có khoảng 6 triệu
ha đất bị hoang mạc hóa, mất khả năng canh tác
Hiện nay trên thế giới có nhiều vùng đã được xác định là bị ô nhiễm, như ỏ Anh đã
chính thức xác nhận 300 vùng với diện tích 10.000 ha, tuy nhiên trên thực tế có thể tới
50.000 – 100.000 vùng với diện tích khoảng 100.000 ha . Ở Mỹ có khoảng 25.000
vùng, Hà Lan là 6.000 vùng ô nhiễm cần xử lý.
2. Ở Việt Nam.
Ở Việt Nam tổng diện tích đất hơn 33triệu hecta, tổng diện tích đất bình quân đầu
người là 0,6 hecta, đứng thứ 159 thế giới, bao gồm: Đất feralit , Đất phù sa , Đất sám
bạc màu , Đất mùn vàng đỏ, Đất mặn, Đất phèn , đất trống đồi trọc
Tổng quỹ đất nông nghiệp ở Việt Nam là khoảng 10 – 11 triệu hecta, trong đó gần
7triệu hecta đất được sử dụng vào nông nghiệp, phần còn lại là dùng để trồng cây
hàng năm và cây lâu năm.
Việt nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới cùng đứng trước thách thức lớn
về vấn đề ô nhiễm đất va những ảnh hường to lớn do ô nhiễm đất đem lại.
. Với đặc điểm đất đồi núi chiếm ¾ lãnh thổ lại nằm trong vùng nhiệt đới mưa nhiều
và tập trung, nhiệt đới không khí cao, các quá trình khoáng hóa diễn ra rất mạnh trong
đất nên dễ bị rửa trôi, xói mòn, nghèo chất hữu cơ và các chất dinh dưỡng dẫn đến
thoái hóa đất. Đất đã bị thoái hóa rất khó có thể khôi phục lại trạng thái màu mỡ ban
đầu.
Hiện nay, người ta đã phát hiện có hơn 50 nguyên tố phóng xạ tự nhiên và 1000 đồng
vị phóng xạ nhân tạo. Những chất phóng xạ nguy hiểm nhất
là: 131I, 32F, 60Co, 36S, 45Ca, 235U, 14C, 98Al, 226Ra, 130Ba. Các chất phóng xạ có khả năng
tích luỹ cao trong các đất có CEC lớn, đất gần trung tính và trung tính, đất giàu
khoáng sét và các chất mùn.
CO là sản phẩm đốt cháy không hoàn toàn carbon (C), 80% Co là từ động cơ xe hơi,
xe máy, hoạt động của các máy nổ khác, khói lò gạch, lò bếp, núi lửa phun…CO vào
cơ thể động vật, người gây nguy hiểm do CO kết hợp với Hemoglobin làm máu không
hấp thu oxy, cản trở sự hô hấp. Trong đất một phần CO được hấp thu trong keo đất,
một phần bi oxy hoá thành CO2.
Các chất thải có khả năng gây ô nhiễm đất ở mức độ lớn như: chất tẩy rửa, phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật, thuốc nhượm, màu vẽ, công nghiệp sản xuất pin, thuộc da, công
nghiệp sản xuất hoá chất.
Nhiều loại chất thải hữu cơ cũng dẫn đến ô nhiễm đất. Nhiều loại nướ từ cống rãnh
thành phố thường được sử dụng như nguồn nước tưới trong sản xuất nông nghiệp.
Trong các loại nước thải này thường bao gồm cả nước thải sinh hoạt và công nghiệp,
nên thường chứa nhiều các kim loại nặng.
Những chất tẩy rửa của những chất thải bỏ công nghiệp rắn có thể chứa những sản
phẩm hoá học độc hại ở dạng dung dịch. Trong thiên nhiên những chất này có thể tích
luỹ lại bằng nhiều cơ chế khác nhau. Đa số các chất này được phóng ra mặt đất, một
số chất được phóng ra biển, đi vào sông ngòi, hệ thống nước ngầm, và được tưới cho
cây trồng.
Ở TP. Hồ Chí Minh, với dân số gần 7 triệu người, nên hàng ngày thải ra một
lượng rác vô cung lớn, và có thành phần hết sức phức tạp, nguồn gốc khác nhau từ
bùn cống, rừ nước thải, phế thải của nhà máy, trong đó có chứa các chất như mảnh
vụn, kim loại linh tinh, mảnh vỏ đồ hộp, sành sứ, chai lọ. Các chất thải này thông qua
chế biến và đựơc nông dân sử dụng trực tiếp để bón cho cây trồng.
Ngoài ra các cơ sở sản xuất xi mạ, pin acquy,… cũng đã thải ra một lượng lớn kim
loại nặng vào cống và chính những độc tố náyex đi vào môi trường nông nghiệp qua
việc tưới nước cho cây trồng.
Các loại phân hữu cơ hiện nay, như phân chuồng (heo, gà,…) được nuôi từ thứ ăn
tổng hợp không còn an toàn cho nông sản như trước, vì trong thành phần của nó có
nhiều khoáng vi lượng (Cu, Zn, Fe, Mn, Co,…). Hàm lượng kim loại nặng chứa trong
phân có thể là nguồn xâm nhập vào đất trồng và tồn lưu trong các loại nông sản phẩm,
đặc biệt là các loại rau ăn lá.
Sử dụng nhiều phân hữu cơ trong điều kiện yếm khí, quá trình khử chiếm ưu thế, sẽ
tạo ra nhiều axít hữu cơ làm đất chua, đồng thời tạo ra nhiều chất độc H2S, CH4, CO2.
Tài nguyên đất đã và đang bị ô nhiễm rất nặng nề ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời
sống, sản xuất, chăn nuôi và mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đất bị thoái hóa tăng
cao ảnh hưởng nghiêm trọng hoạt động sản xuất tạo ra sức ép lớn lên cuộc sống nhất
là lúc dân số tăng cao, hoạt động của xã hội ngày một nhiều hơn, nhu cầu bức thiết
cho sự sống diễn ra.
II. Nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm, suy thoái tài nguyên đất.
Nguyên nhân gây ra sự tổn thất ô nhiễm và suy thoái đất rất đa dạng, có thể kể đến
những yếu tố sau:
1. Yếu tố tự nhiên
Trong các khoáng vật hình thành nên đất thường chứa 1 hàm lượng nhất định kim
loại nặng, trong điều kiện bình thường chúng là những nguyên tố trung lượng và vi
lượng không thể thiếu cho cây trồng và sinh vật trong đất, tuy nhiên trong 1 số điều
kiện đặc biệt chúng vượt một giới hạn nhất định và trở thành đất ô nhiễm.
2. Ô nhiễm, suy thoái do việc đẩy mạnh đô thị hóa,bùng nổ dân số, hoạt động
công nghiệp và mạng lưới giao thông
Việc đẩy mạnh đô thị hóa, công nghiệp hóa và mạng lưới giao thông đã ảnh hưởng
nặng nề đến tài nguyên đất, sử dụng đất để xây dựng đường xá và các khu đô thị các
khu công nghiệp…. làm thay đổi kết cấu của đất.
Dưới sức ép của bùng nổ dân số ( 200.000 người/ ngày ),quá trình công nghiệp hóa
– hiện đại hóa, các hoạt động sản xuất kinh tế khiến chất lượng đất ngày càng suy
giảm.
Các hoạt động công nghiệp rất phong phú và đa dạng, nhưng lại là nguồn gây ô
nhiễm đất một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nguồn gây ô nhiễm trực tiếp là khi chúng
được thải trực tiếp vào môi trường đất, nguồn gây ô nhiễm gián tiếp là chúng được
thải vào môi trường nước, môi trường không khí nhưng do quá trình vận chuyển, lắng
đọng chúng di chuyển đến đất và gây ô nhiễm đất.
Có thể phân chia các chất thải ra 4 nhóm chính:
* Chất thải xây dựng: Chất thải xây dựng như gạch ngói, thủy tinh, gỗ, ống nhựa,
dây cáp, bêtông, nhựa…trong đất các chất thải này bị biến đổi theo nhiều con đường
khác nhau, nhiều chất rất khó bị phân hủy…
* Chất thải kim loại: Các chất thải kim loại, đặc biệt là các kim loại nặng (Pb,
Zn, Cd, Cu, và Ni gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đất) thường có nhiều ở các khu
vực khai thác hầm mỏ, các khu công nghiệp và đô thị.Nguồn gốc chính của kim loại
nặng trong chất thải:
- Các loại bình điện (pin, acquy) có mức chất thải kim loại nặng cao nhất: 93%
tổng số lượng thủy ngân, khoảng 45% số lượng Cadmium (Cd).
- Sắt phế liệu chứa khoảng 40% số lượng chì (Pb), 30% đồng (Cu), 10% crôm
(Cr).
- Các chất thải mịn (<20 mm) chứa 43% Cu thải, 20% Pb và 12% nickel (Ni).
Người ta thấy rằng, bụi bay trong không khí và bụi lắng ở các khu vực đô thị chắc
chắn chứa nhiều nguy cơ có nhiều độc tiềm tàng kim loại hơn bụi ở khu vực nông
thôn. Do vậy dân cư sống ở khu vực đô thị phải hứng chịu nhiều nguy cơ tiềm tàng về
kim loại nặng hơn những cư dân sống ở nông thôn.
* Chất thải khí :
- CO là sản phẩm đốt cháy không hoàn toàn carbon (C), 80% Co là từ động cơ xe
hơi, xe máy, hoạt động của các máy nổ khác, khói lò gạch, lò bếp, núi lửa phun…CO
vào cơ thể động vật, người gây nguy hiểm do CO kết hợp với Hemoglobin làm máu
không hấp thu oxy, cản trở sự hô hấp. Trong đất một phần CO được hấp thu trong keo
đất, một phần bi oxy hoá thành CO2.
- SO2 đi vào không khí chuyển thành SO4 ở dang axit gây ô nhiễm môi trường đất
- Bụi chì trong khí thải từ các hoạt động công nghiệp (chủ yếu là giao thông vận
tải), lắng xuống và tích tụ gây ô nhiễm đất.
- Oxit nitơ sinh ra từ nitơ trong không khí do hoạt động giao thông vận tải, do các
vi sinh vật trong đất, do hoạt động ủ rơm rạ của con người. Lượng lớn oxit nitơ tích
lũy lại trong cây ảnh hưởng đến con người
Vậy CO2, SO2, NO2 trong không khí bị ô nhiễm là nguyên nhân gây ra mưa axít,
làm tăng quá trình chua hoá đất.
* Chất thải hóa học và hữu cơ: Các chất thải có khả năng gây ô nhiễm đất ở
mức độ lớn như: chất tẩy rửa, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc nhuộm, màu vẽ,
công nghiệp sản xuất pin, thuộc da, công nghiệp sản xuất hoá chất.
Nhiều loại chất thải hữu cơ cũng dẫn đến ô nhiễm đất. Nhiều loại nước từ cống
rãnh thành phố thường được sử dụng như nguồn nước tưới trong sản xuất nông
nghiệp. Trong các loại nước thải này thường bao gồm cả nước thải sinh hoạt và công
nghiệp, nên thường chứa nhiều các kim loại nặng.
3. Ô nhiễm do hoạt động nông nghiệp
Ô nhiễm do hoạt động nông nghiệp: Việc sử dụng quá nhiều phân hóa học và phân
hữu cơ, thuốc trừ sâu, và thuốc diệt cỏ.
- Phân bón hóa học: Phân hóa học được rải trong đất nhằm gia tăng năng suất cây
trồng. Nguyên tắc là khi người ta lấy đi của đất các chất cần thiết cho cây thì người ta
sẽ trả lại đất qua hình thức bón phân.
Đây là loại hoá chất quan trọng trong nông nghiệp, nếu sử dụng thích hợp sẽ có
hiệu quả rõ rệt đối với cây trồng. Nhưng nó cũng là con dao 2 lưỡi, sử dụng không
đúng sẽ lợi bất cập hại, một trong số đó là ô nhiễm đất. Nếu bón quá nhiều phân hoá
học là hợp chất nitơ, lượng hấp thu của rễ thực vật tương đối nhỏ, đại bộ phận còn lưu
lại trong đất, qua phân giải chuyển hoá, biến thành muối nitrat trở thành nguồn ô
nhiễm cho mạch nước ngầm và các dòng sông. Cùng với sự tăng lên về số lượng sử
dụng phân hoá học, độ sâu và độ rộng của loại ô nhiễm này ngày càng nghiêm trọng.
Sự tích lũy cao các chất hóa chất dạng phân bón cũng gây hại cho MTST đất về
mặt cơ lý tính. Khi bón nhiều phân hóa học làm đất hở nên chặt hơn, độ trương co
kém, kết cấu vững chắc, không tơi xốp mà nông dân gọi là đất trở nên “chai cứng”,
tính thoáng khí kém hơn đi, vi sinh vật ít đi vì hóa chất hủy diệt vi sinh vật.
- Phân hữu cơ: Phần lớn nông dân bón phân hữu cơ chưa được ủ và xử lí đúng kĩ
thuật nên gây nguy hại cho môi trường đất. Nguyên nhân là do trong phân chứa nhiều
giun sán, trứng giun, sâu bọ, vi trùng và các mầm bệnh khác..khi bón vào đất, chúng
có điều kiện sinh sôi nảy nở, lan truyền môi trường xung quanh, diệt một số vi sinh
vật có lợi trong đất.
Bón phân hữu cơ quá nhiều trong điều kiện yếm khí sẽ làm quá trình khử chiếm ưu
thế; sản phẩm của nó chứa nhiều acid hữu cơ làm môi trường sinh thái đất chua, đồng
thời chứa nhiều chất độc như H2S, CH4, CO2. Sư tích lũy cao các hóa chất dạng phân
hóa học sẽ gây hại cho môi trường sinh thái đất về mặt cơ lý tính , đất nén chặt , độ
trương co kém, không tơi xốp, tính thoáng khí kém, vi sinh vật cũng ít đi vì hóa chất
hủy diệt sinh vật.
- Thuốc trừ sâu: Nông dược chiếm một vị trí nổi bật trong các ô nhiễm môi trường.
Khác với các chất ô nhiễm khác, nông dược được rải một cách tự nguyện vào môi
trường tự nhiên nhằm tiêu diệt các ký sinh của động vật nuôi và con người hay để triệt
hạ các loài phá hại mùa màng.
Bản chất của nó là những chất hóa học diệt sinh học nên đều có khả năng gây ô
nhiễm môi trường đất. Đặc tính của thuốc trừ sâu bệnh là tính bền trong môi trường
sinh thái nên nó tồn tại lâu dài trong đất, sau khi xâm nhập vào môi trường, thời kì
“nằm” lại đó, các nhà môi trường gọi là “thời gian bán phân giải”. “Nữa cuộc đời này”
được xác định như là cả thời gian nó trốn vào trong các dạng cấu trúc sinh hóa khác
nhau hoặc các dạng hợp chất liên kết trong môi trường sinh thái đất. Mà các hợp chất
mới này thường có độc tính cao hơn nó.
Tiêu diệt hệ động vật làm mất cân bằng sinh thái, thuốc trừ sâu bị rửa trôi xuống
thủy vực làm hại các động vật thủy sinh như ếch, nhái…Như vậy vô tình chúng ta làm
tăng thêm số lượng sâu hại vì đã diệt mất thiên địch của chúng ,vì vậy nó làm cho hoạt
tính sinh học đất bị giảm sút.
Bên cạnh đó, chất thải của súc vật trong hoạt động chăn nuôi cũng là một tác
nhân gây ô nhiễm tài nguyên đất.
Những chuồng trại chăn nuôi gia súc như trại heo, trại gà, phân gia súc không
được thu gom, xử lí bảo đảm kĩ thuật và vệ sinh môi trường thì sẽ là hiểm họa cho môi
trường đất. Vì lượng lớn các chất thải này làm đất mất khả năng tự làm sạch của nó thì
sự nguy hại là khó lường. Lúc này sự ô nhiễm đã trở nên trầm trọng. các cơ quan hoạt
động môi trường đất đều bị tê liệt. Chất thải, vi trùng từ đó mà lan ra khắp nơi: trong
nước ngầm,trong nước suối trong hay bay vào không khí.
Một điều đáng lưu ý là chăn nuôi ở vùng ĐBSCL phát triển rất mạnh, theo thống
kê trong vùng có khoảng 2,6 triệu đầu lợn, 260.000 trâu bò (cả bò sữa), gần 40 triệu
con gia cầm, đặc biệt là vịt (thủy cầm- là tác nhân lây truyền H5N1 trong giai đoạn
vừa qua). Số chất thải rắn do chăn nuôi đưa thẳng vào sông rạch khoảng 22.500
tấn/ngày đêm, chất thải lỏng (kể cả nước rửa chuồng trại) chừng 40.000 m3/ngày đêm.
4. Ô nhiễm, suy giảm do chất thải sinh hoạt
Chất thải rắn đô thị cũng là một nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất nếu
không được quản lý thu gom và kiểm soát đúng quy trình kỹ thuật.Chất thải rắn đô thị
rất phức tạp, nó bao gồm các thức ăn thừa, rác thải nhà bếp, làm vườn , đồ dùng
hỏng , gỗ, thủy tinh, nhựa, các loại giấy thải,các loạirác đường phố bụi, bùn, lá cây…
Ở các thành phố lớn , chất thải rắn sinh hoạt được thu gom , tập trung ,phân loại
và xử lý. Sau khi phân loại có thể tái sử dụng hoặc xử lý rác thải đô thị để chế biến
phân hữu cơ, hoặc đốt chôn. Cuối cùng vẫn là chôn lấp và ảnh hưởng tới môi trường
đất. Ô nhiễm môi trường đất tại các bãi chôn lấp có thể do mùi hôi thối sinh ra do
phân hủy rác làm ảnh hưởng tới sinh vật trong đất , giảm lượng oxi trong đất. Các chất
độc hại sản phẩm của quá trình lên men khuếch tán , thấm và ở lại trong đất.
Nước rỉ từ các hầm ủ và bãi chôn lấp có tải lượng ô nhiễm chất hữu cơ rất cao
( thông qua chỉ số BOD và COD) cũng như các kim loại nặng như Cu , Zn, Pb, Al
,Fe, Cd , Hg và cả các chất như P ,N, … cũng cao. Nước rỉ này sẽ ngấm xuống đất
gây ô nhiễm đất và nước ngầm. Ô nhiễm môi trường đất còn có thể do bùn cống rãnh
của hệ thống thoát nước của thành phố là mà thành phần các chất hữu cơ , vô cơ, kim
loại tạo nên các hỗn hợp các phức chất và đơn chất khó phân hủy.
5. Ô nhiễm, suy giảm do tác nhân khác
* Tàn tích của rừng:
Sau khi thu hoạch gỗ, phần bỏ đi chiếm một lượng lớn. Tàn tích này khi nằm lại
trong môi trường đất sẽ phân hủy tạo mùn cho đất. Nếu điều kiện phân giải tạo mùn ít
thì khả năng chuyến hóa thành chất thành những chất khó tiêu và gây chua nhiều hơn.
Nếu tàn tích rừng bị vùi lấp trong điều kiện yếm khí lâu dài, thì hoặc tạo ra cá đầm
lầy than bùn phèn. Điều đó có nghĩa là tạo ra môi trường đất acid...
* Vi sinh vật:
Nguồn gây ô nhiễm này chủ yếu là chất thải chưa qua xử lý của người và động
vật, nước thải bệnh viện, nước thải sinh hoạt... trong đó nguy hại lớn nhất là chất thải
chưa được xử lý khử trùng của các bệnh viện truyền nhiễm. Rất nhiều vi
khuẩn và ký sinh trùng tiếp tục sinh sôi nảy nở trong đất, bám vào các cây trồng nông
nghiệp và truyền vào cơ thể người, động vật. Ngoài những nguồn ô nhiễm trên, các
hoạt động tưới không thích đáng,chặt cây rừng, khai hoang... cũng tạo thành
các hiện tượng rửa trôi, bạc mầu,nhiễm phèn... trong đất. Theo thống kê, hàng
năm diện tích đất này trên thế giới tăng từ 5.000.000 đến 11.000.000 ha.
* Ô nhiễm đất do các chất phóng xạ
Nguồn ô nhiễm đất bởi các phóng xạ là những phế thải của các trung tâm khai thác
các chất phóng xạ, trung tâm nghiên cứu nguyên tử, các nhà máy điện nguyên tử, các
bệnh viện dùng chất phóng xạ và những vụ thử vũ khí hạt nhân. Các chất phóng xạ
thâm nhập vào đất và theo chu trình dinh dưỡng tới cây trồng, động vật và con người.
Người ta thấy rằng, sau mỗi vụ nổ thử vũ khí hạt nhân thì chất phóng xạ trong đất tăng
lên gấp 10 lần. Tỷ lệ giữa lượng đồng vị phóng xạ có trong cơ thể động vật với lượng
đồng vị phóng xạ có trong môi trường được gọi là” hệ số cô đặc” sau các vụ nổ bom
nguyên tử trong đất thường tồn lưu ba chất phóng xạ Sn90; I131 ;Cs137 . Các chất phóng
xạ này xâm nhập vào cơ thể người, làm thay đổi cấu trúc tế bào, gây ra những bệnh về
di truyền, bệnh về máu, bệnh ung thư…
* Ô nhiễm do chiến tranh
Miền Nam nước ta qua cuộc chiến tranh tàn khốc đã phải hứng chịu 100.000 tấn
chất độc hóa học, trong đó có ít nhất 194 kg đioxin, 15 triệu tấn bom đạn đã thải
xuống khắp các miền đất nước, không chỉ gây thiệt hại về người mà còn gây ra sự
thay đổi về dòng chảy, tàn phá lớp phủ thực vật, đảo lộn lớp đất canh tác, để lại nhiều
hố bom ở các vùng sản xuất nông nghiệp trù phú . Kết quả là 34% diện tích đất trồng
trọt và 44% diện tích rừng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
* Ô nhiễm do dầu
Ô nhiễm đất do hydrocarbures từ nguồn dầu hoả. Thành phần cơ bản của dầu mỏ:
Carbon 82 – 87%, hydro 11 – 14%,lưu huỳnh 0,1 – 0,5%, oxy và nitơ < vài phần
nghìn.
Dầu và các sản phẩm của dầu khí đổ trên mặt đất sẽ làm cho đất bị ô nhiễm vì:
- Chỉ cần một lớp dầu bao phủ mặt đất, dù rất mỏng (0,2 – 0,5 mm) cũng đủ làm
cho đất “ngạt thở” vì thiếu không khí, quá trình trao đổ khí bị cắt đứt. Kết quả là các
loài động, thực vật và vi sinh vật đều thiếu oxy, cuối cùng dẫn đến cái chết. Lớp dầu
này cũng ngăn cản quá trình trao đổi năng lượng mặt trời của môi trường đất.
- Dầu là chất kỵ nứơc, khi thấm vào đất, dầu đẩy nước ra ngoài làm cho môi
trường đất hầu như không còn nước và chiếm hết các khoảng không khí trong đất làm
cho đất giảm thiểu oxy và nước, gây tổn thương cho hệ sinh thái.
- Khi xâm nhập vào đất, dầu làm thay đổi kết cấu và đặc tính lý hoá tính của đất,
khiến các hạt keo đất trơ ra và không còn khả năng hấp thu, trao đổi nữa.
- Dầu thấm qua đất xuống mạch nước ngầm, làm ô nhiễm nguồn nước ngầm.
- Dầu là hợp chất hữu cơ cao phân tử có đặc tính diệt sinh vật.
III. CÁC GIẢI PHÁP HẠN CHẾ, KHẮC PHỤC SUY GIẢM, BẢO VỆ TÀI
NGUYÊN ĐẤT
1. Giải pháp bảo vệ
a) Về phía nhà nước:
* Xây dựng hoàn thiện các văn bản pháp quy
- Xây dựng và hoàn thiện chính sách, đề cập trực tiếp, cụ thể dến môi trường
đất, làm cơ sở cho việc triển khai hiệu quả công tác quản lí, kiểm soát ô nhiễm
đất ở cấp Trung ương và địa phương. Các chính sách cần dựa trên sự kết hợp
hài hòa các cách tiếp cận khác nhau, nư tiếp cận theo quy định, tiếp cận bằng
kinh tế, tiếp cận bằng cải tiến công nghệ, cách tiếp cận bằng nâng cao nhận thức
và cách tiếp cận phát triển cơ sở hạ tầng. Các chính sách đưa ra phải ưu tiên
phòng ngừa ô nhiễm là chủ yếu.
- Điều chỉnh luật bảo vệ môi trường 2014, xem xét bổ sung nội dung quy định
chi tiết hơn về bảo vệ môi trường đất và kiểm soát ô nhiễm đất vào nội dung của
luật bảo vệ môi trường.
- Hoàn thiện, cụ thể hóa, tăng cường tính khả thi của hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về quản lí môi trường đất, trong đó bao gồm quản lí chất thải
rắn; tái chế, tái sử dụng chất thải; thu hồi chất thải và sản phẩm hóa chất
(HCBVTV, dược phẩm, pin, ắc quy, bóng đèn huỳnh quang.....) hết hạn sử
dụng; ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn lưu trữ, thu gom, vận chuyển, chôn lấp,
xử lí chất thải rắn; áp dụng thu phí vệ sinh......
- Hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khác nhau có liên
quan tới bảo vệ môi trường đất,trong đó có việc tiếp cận thông tin, tham gia ban
hành các quyết định, chính sách và giám sát bảo vệ môi trường đất;
- Xây dựng các văn bản hướng dẫn kỹ thuật về tái chế chất thải, bảo vệ môi
trường và quản lí chất thải rắn theo các loại hình làng nghề, thực hiện quản lí
chất thải rắn theo cơ chế phát tiển sạch; quy trình, thủ tục tham gia vào việc
giám sát bảo vệ môi trường đất, khởi kiện, khiếu nại đối với các quyết định,
chính sách có tác động đến môi trường đất,....
* Kiện toàn tổ chức, tăng cường năng lực
- Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ, nghành với các địa phương (tỉnh/thành
phố) trong hoạt động quản lí môi trường đất nói chung.
- Tăng cường nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực BVMT đất từ cấp trung
ương đến địa phương.
- Đào tạo và nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ Trung ương và địa
phương về BVMT đất, quản lí chất thải và an toàn môi trường, thực phẩm.
- Đầu tư kinh pjis thích hợp cho công tác BVMT đất ở Trung ương và địa
phương.
* Thúc đẩy các nghiên cứu khoa học hỗ trợ quản lí
Đầu tư triển khai nghiên cứu định hướng quản lý tập trung vào các khía cạnh
sau:
- Điều tra, khảo sát để đánh giá, xác định rõ các vùng đất bị ô nhiễm (đất nông
nghiệp, đất đô thị....), mức độ ô nhiễm và các chức năng của đất bị mất cần phục
hồi do các chất gây ô nhiễm hoặc bị thoái hóa;
- Triển khai các nghiên cứu về tác động của ô nhiễm đất đến sức khỏe, kinh tế
và xã hội. Tăng cường các nghiên cứu về tác động của ô nhiễm đất đến chất
lượng nông sản ở những khu vực ô nhiễm đăc biệt; nghiên cứu đánh giá ảnh
hưởng của việc sử dụng những lương thực, thực phẩm sản xuất từ đất bị ô
nhiễm đến sức khỏe con người;
- Nghiên cứu tạo ra các chế phẩm phân bón mới, các chế phẩm sinh học giúp
cho quá trình xử lí ủ phân hoặc xử lí các phế phụ phẩm từ trồng trọt, giảm thiểu
mức thấp nhất khả năng ô nhiễm môi trường đất;
- Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin quản lí hoạt động kiểm tra giám sát
chất lượng môi trường đất, chất lượng phân bón và các tác động của chúng tới
môi trường đất;
- Nghiên cứu xây dụng quy chuẩn phù hợp về chất lượng môi trường đất.
* Áp dụng các quy định trong bảo vệ môi trường đất
- Áp dụng triệt để nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả phí” trong ngăn
ngừa, xử lí và phục hồi đất bị ô nhiễm.
- Áp dụng chính sách ưu đãi (vay lãi suất thấp, miễn giảm thuế, hỗ trợ bao tiêu
sản phẩm.....) để lôi cuốn sự tham gia của các công ty nước ngoài khối tư nhân
đầu tư xxaay dựng các trung tâm xử lí chất thải liên vùng, liên tỉnh.
- Khuyến khích cộng đồng tham gia chương trình phân loại chất thải sinh hoạt
tại nguồn.
* Nâng cao nhận thức cộng đồng
Công tác giáo dục cộng đồng cần xuyên suốt và thống nhất từ trung ương đến
địa phương, đến mọi đối tượng. Một số vấn đề chính cần quan tâm trong lĩnh
vực này bao gồm:
- Đưa thêm và cụ thể các nội dung về bảo vệ môi trường đất vào các chương
trình truyền thông nâng cao nhận thức về môi trường nói chung, xây dựng các
tài liệu, sản phẩm truyền thông cụ thể về môi trường đất để phổ biến rộng rãi
đến người dân.
- Đưa nội dung giáo dục về môi trường đất vào các cấp học phù hợp với nhận
thức từng lứa tuổi.
- Tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ddaastvaf an toàn thực phẩm
cho người dân thông qua các kênh truyền thông khác nhau.
- Tuyên truyền, vận động nông dân sử dụng phân hữu cơ trong sản xuất nông
nghiệp để ngăn ngừa thoái hóa đất.
- Phát động các hoạt động phong trào cộng đồng tham gia BVMT đất (phân loại
rác tại nguồn, thu gom xử lí an toàn chất thải, sử dụng HCBVTV đúng kỹ
thuật....).
- Tư vấn, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp quy liên quan
b) Về phía người sản xuất nông nghiệp:
* Áp dụng các biện pháp tổng hợp:
+ Áp dụng tổng thể các biện pháp thủy lợi canh tác như làm ruộng bậc thang,
đào hố vẩy cá, trồng cây theo băng.
+ Bảo vệ rừng và đất rừng,trồng mới rừng tổ chức định canh, định cư.
+ Cần có biện pháp quản lí chặt chẽ và có kế hoạch mở rộng diện tích đất nông
nghiệp.
+ Thâm canh, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, cần canh tác hợp lí, chống bạc
màu, gây nhiễm mặn, nhiễm phèn.
+ Canh tác đất dốc: Phải đảm bảo chống xói mòn rửa trôi đất, chống hiện tượng
đất bị khô hạn, dẫn đến kết von đá ong hóa. Biện pháp kiến thiết ruộng trên đất
dốc hữu hiệu nhất là làm ruộng bậc thang, trồng cây theo đường đồng mức.
+ Bón phân cải tạo đất thích hợp: chống ô nhiễm đất do chất độc hóa học, thuốc
trừ sâu, nước thải công nghiệp chứa chất độc hại, chất chứa nhiều vi khuẩn gây
bệnh hại cây trồng.
+ Xây các đường bờ kè ven biển để hạn chế xâm nhập mặn , bảo vệ diện tích
đất không bị suy giảm.
+ Xây dựng hệ thống thuỷ lợi đê điều để hạn chế lũ lụt , chú trọng tưới tiêu
nước và kỹ thuật tưới nước hợp lý. Đây là biện pháp rất quan trọng trong việc
phục hồi khả năng sản xuất và tăng độ phì nhiêu của đất đã bị thoái hóa. Kỹ
thuật tưới tiêu nước cũng rất quan trọng. Nhìn chung, do đặc tính vật lý của các
loại đất này phần lớn là kém, khả năng giữ nước giữ ẩm kém, nên cần áp dụng
các kỹ thuật tưới đảm bảo đưa lượng nước tưới thấm dần vào đất( tưới nhỏ
giọt), đồng thời tránh tạo dòng chảy trên bề mặt. Như vậy, vừa sử dụng được
lượng nước hữu hiệu cho cây, vừa tăng độ ẩm và giữ ẩm cho đất và tránh được
sự thất thoát nước trên bề mặt, cũng như tránh tạo nên dòng chảy gây xói mòn
và rửa trôi đất khi tưới.
+ Thực hiện các biện pháp làm giảm hiệu ứng nhà kính ( Bảo vệ môi trường ,
hạn chế rác và khí thải ) vì hiệu ứng nhà kính làm mực nước tăng lên dẫn đến
diện tích đất giảm
* Biện pháp thâm canh
+ Làm đất thích hợp với từng loại cây trồng: cày, bừa, đánh luống, rạch rãnh
gieo hạt, (trồng cây ăn quả ở vùng đất trũng thấp hoặc trồng cây lấy củ ở vùng
đất có mực nước ngầm nông).
+ Tưới nước theo nhu cầu sử dụng nước của các loại cây trồng hoặc tưới tiêu
nước để cải tạo đất bị thoái hóa (chua hóa, mặn hóa, phèn hóa).
+ Giống cây trồng thích hợp cho các loại đất, giống chịu được các đặc tính đất
bị thoái hóa như chịu chua, chịu thiếu lân, chịu mặn, chịu khô hạn, chịu ngập
úng...
+ Bón phân không chỉ cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng mà phải đảm bảo
lượng phân làm tăng độ phì nhiêu đất. Hiệu quả của bón phân phục hồi đất rõ
nhất là duy trì và tăng cường bón phân hữu cơ cho đất, bón vôi khử chua các
loại đất bị chua hóa.
+ Chăm sóc và bảo vệ cây trồng: làm cỏ, sục bùn (đất lúa), xới sáo (đất trồng
cạn), phòng trừ sâu hại và dịch hại thường xuyên, đặc biệt ưu tiên chăm sóc các
loại cây trồng trên những loại đất thoái hóa mạnh, vì trên những loại đất này,
hàm lượng hữu cơ, hoặc dung tích hấp thu, hoặc một số tính chất vật lý của đất
rất thấp/kém, nên các loại cây trồng thường dễ bị tổn thương khi thời tiết hoặc
môi trường sản xuất bị thay đổi đột ngột.
2
Giải pháp hạn chế
Một trong những biện pháp quan trọng nhất và được chú ý nhất nhằm phục hồi
đất bị suy thoái là biện pháp sinh học hay còn gọi biện pháp hữu cơ. Nhiều kết
quả nghiên cứu và thực tiễn trong việc phục hồi đất đã bị suy thoái bằng biện
pháp này đã chứng minh rằng sau một thời gian ngắn, đất được phục hồi độ phì
và khả năng sản xuất rõ rệt. Hơn nữa, với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm
của nước ta, các loại cây trồng và thực vật sinh trưởng phát triển mạnh, đã tạo
sinh khối lớn, trả lại chất hữu cơ cho đất, đó là:
- Tàn tích hữu cơ: rễ cây, thân lá rụng, rơi vào đất, được để lại đất sau thu
hoạch.
- Các hệ thống trồng trọt luân canh, xen canh, trồng theo băng giữa cây trồng
chính và cây cải tạo đất là cây phân xanh, cây họ đậu (lạc dai, điền thanh,
muồng hoa vàng, keo dậu…)
- Các hệ thống nông lâm kết hợp giữa cây dài ngày và cây ngắn ngày bổ sung
chất hữu cơ cho nhau và cho đất.
- Các phương thức bổ sung chất hữu cơ cho dất như bón phân hữu cơ, phủ vật
liệu hữu cơ cho cây trồng chính, trồng cây phủ đất đa tác dụng cho cây trồng
chính.
- Sử dụng các chế phẩm sinh học, vi sinh vật trong sản xuất nông nghiệp
+ Sử dụng các vi sinh vật để cố định Nitơ tự do thành đạm dễ tiêu qua 2 con
đường vi sinh vật cố định đạm tự do từ khí trời và vi sinh vật cố định đạm qua
nốt sần.
Azospirillum lần đầu tiên được phân lập vào năm 1992 được Beirink phân lập
từ đất cát nghèo Nitơ ở Grorssel, tỉnh Gelderland, Hà Lan. Vi khuẩn này có khả
năng cố định đạm, sống tự do hoặc kết hợp với vùng rễ của cây họ hòa thảo, đặc
biệt là vùng rễ của cây cỏ nhiệt đới, lúa nước, lúa mì, ngô (Boddy et al., 1995).
Sự tăng sinh xảy ra dưới cả hai điều kiện hiếu khí và kỵ khí nhưng thích hợp ở
điều kiện vi hiếu khí. Ngoài khả năng cố định đạm, Azospirillum có khả năng
tổng hợp các chất điều hòa sinh trưởng thực vật như Auxin và Gibberelin giúp
bộ rế cây trồng phát triển tốt hơn, gia tăng diện tích tiếp xúc của rễ với đất.
+ Sử dụng các vi sinh vật phân giải lân khó tiêu thành dạng dễ tiêu:
Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu và sản xuất ra các sản phẩm có khả năng
chuyển lân từ dạng khó tiêu sang dạng dễ tiêu. Nhiều nghiên cứu kết luận vi
sinh vật Pseudomonas sp có tác dụng phân giải lân khó tiêu (CaHPO4,
Ca3HPO4, Ca5OHPO4, AlPO4, FePO4) trong đất thành lân dễ tiêu (H3PO4)
cung cấp cho cây.
+ Sử dụng các chế phẩm sinh học để làm gia tăng hiệu quả sử dụng phân bón,
cải tạo đất
+ Sử dụng các biện pháp sinh học trong phòng trừ các loài nấm, vi khuẩn phát
sinh từ đất: Để làm phong phú quần thể các các loài vi sinh có lợi cho cây trồng
người ta sử dụng các loài sinh vật đối kháng như các loài vi khuẩn có lợi cho
cây trồng, các chủng nấm Trichoderma spp có tác dụng đối kháng với các loài
nấm bệnh từ đất như Fusarium sp, Phytophthora sp, Pythium, Rhizoctonia
solani, Sclerotium rolfsii.
3. Giải pháp khắc phục
+ Cải tạo đất hoang, đồi núi trọc bằng các biện pháp nông - lâm kết hợp.
+ Bón phân cải tạo đất thích hợp: chống ô nhiễm đất do chất độc hóa học, thuốc
trừ sâu, nước thải công nghiệp chứa chất độc hại, chất chứa nhiều vi khuẩn gây
bệnh hại cây trồng.
IV. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI NGUYÊN ĐẤT.
1. Các quan điểm, chính sách đất đai của Đảng và Nhà Nước
• Giai đoạn (1981 – 1992): triển khai về chính sách đất đai
Đây là thời kỳ mô hình kinh tế tập trung bao cấp bộc lộ một cách toàn diện mặt
tiêu cực của nó, mà hậu quả là cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội sâu sắc vào
cuối những năm 70 đầu những năm 80. Đầu thập niên 1980, sản xuất lương thực
không đáp ứng được nhu cầu đời sống của nhân dân, hàng năm vẫn phải nhập
trên 1 triệu tấn lương thực.
Trong khó khăn, một số địa phương đã mạnh dạn tìm cách tháo gỡ và làm thử
cách quản lý mới. Ngày 27-06-1980, Thành ủy Hải Phòng ra Nghị quyết 24NQ/TƯ làm thử hình thức khoán việc và khoán sản phẩm cho xã viên và nhóm
xã viên. Các thí điểm khác ở Vĩnh Phú, Nghệ Tĩnh cũng chứng minh hình thức
đó chính là giải pháp tốt thúc đẩy tăng năng suất, sản phẩm, phát huy tính tích