Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

TIỂU LUẬN NGUYÊN lý II (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.14 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA NGÔN NGỮ TRUNG

TIỂU LUẬN
Khủng hoảng kinh tế thế giới và ảnh
hướng tới Việt Nam:
Nguyên nhân và giải pháp

Sinh viên thực hiện: VŨ NGỌC DIỆP
Mã số sinh viên: 1617720012
Hà Nội, 2016


MỤC LỤC

Phần mở đầu
Nội dung
Chương I​: Lý luận về khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản.
I.1: Định nghĩa ‘’ khủng hoảng kinh tế ‘’.
I.2: Bản chất của khủng hoảng kinh tế.
I.3: Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế.
I.4: Chu kỳ của khủng hoảng kinh tế.
Chương II​: Diễn biến khủng hoảng kinh tế thế giới và sự ảnh hưởng tới hiện nay.
II.1: Khủng hoảng bất động sản và hệ thống ngân hàng tại Mỹ.
II.2: Diễn biến khủng hoảng kinh tế trên phạm vi toàn thế giới
II.3: Sự ảnh hướng của các cuộc khủng hoảng kinh tế đến nước ta ngày nay.
Chương III​: Phương hướng giải pháp đối phó với khủng hoảng kinh tế

1



Lời mở đầu

​Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay là cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất
trên thế giới kể từ sau cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử từ những năm 30 của
thế kỷ XX, nó đã gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với nước Mỹ và nhanh chóng
lan rộng ra toàn thế giới, ảnh hưởng xấu tới toàn bộ hệ thống tài chính và sự tăng
trường kinh tế thế giới. Kể từ khi cơn lốc khủng hoảng đi qua, nó đã cuốn nhiều quốc
gia vào vòng xoáy của nó, đến bây giờ cuộc khủng hoảng đã tạm qua đi, tình trạng thị
trường đã trở nên ổn định hơn, quá trình khôi phục diễn ra mạnh mẽ. Mặc dù vậy các
nước vẫn còn phải tiếp tục lịch trình tái cơ cấu và đang đứng trước một nguy cơ khủng
hoảng mới ( tàn dư của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới ) đó là khủng hoảng nợ công
ở Châu Âu đã và đang tác động mạnh mẽ đến nến kinh tế đồng Euro nói riêng và nền
kinh tế thế giới nói chung.
​ ã có rất nhiều sách bảo, các cuộc hội thảo quốc tế đã viết và bàn về vấn đề này và
Đ
dường như vẫn chưa đủ và người ta vẫn buộc phải nghĩ về nó, viết về nó vì nó vẫn
đang ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế xã hội và chính trị của mỗi
quốc gia, mỗi khu vục và thế giới. Các tổ chức tài chính, các trung tâm nghiên cứu quốc
tế đã đưa ra các bài học va dự bào về nguy cơ của các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra
trong tương lai. Tuy không nằm trong tiêu điểm của cơn lốc khủng hoảng, nhưng
những ảnh hưởng và tác động của nó ngày càng có những biểu hiện rõ rệt ở VN, thể
hiện qua những chỉ số giảm đi cụ thể vè thương mại, đầu tư, tốc độ phát triển kinh tế và
du lịch....
​ iện nay, chúng ta càng nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc nghiên cứu
H
khủng hoảng, triển vọng và tác động của nó trong hoàn cảnh hội nhập kinh tế. Vì vậy
chúng tôi đã chọn đề tài “ Khủng hoảng kinh tế thế giới và ảnh hưởng đến VN - những
nguyên nhân và giải pháp ‘’ để nghiên cứu về cuộc khủng hoảng, những ảnh hưởng tác động của nó đến nước ta và chỉ ra những nguyên nhân từ đó rút ra được những
kinh nghiệm, biện pháp để cho nước ta có thể có những chính sách phát triển kinh tế
và đối ngoại hợp lý hơn. Song với kiến thức và thời gian có hạn, đề tài vẫn còn nhiều

thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp của thầy cô và các bạn để đề tài ngày càng
được hoàn thiện hơn.

2


NỘI DUNG

Chương I : Lý luận về khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản.
I.1: Định nghĩa ‘’ khủng hoảng kinh tế ‘’.
​ hủng hoảng kinh tế là khái niệm dùng để chỉ những hiện tượng mất cân đối ổn định
K
của quá trình tái sản xuất trong nền kinh tế kéo dài mà không điều chỉnh được,gây ra
những chấn động và hậu quả kinh tế-xã hội trong phạm vi rộng hoặc hẹp.
I.2: Bản chất của khủng hoảng kinh tế.
Khủng hoảng kinh tế có những tác động mạnh mẽ và không giới hạn biên giới.
Những ảnh hưởng cơ bản của nó có thể được đề cập đến dưới rất nhiều dạng thức:
-

Suy giảm kinh tế (tức là tốc độ tăng trưởng chậm lại, không tăng trưởng)

-

Suy thoái (tức là tăng trưởng âm).

Hậu quả của khủng hoảng kinh tế được thể hiện ra như gia tăng tình trạng thất
nghiệp, suy giảm thu nhập, hàng hoá không bán được, ngân sách sụt giảm, an sinh xã
hội bị ảnh hưởng, v.v..
Khủng hoảng kinh tế khác với tổn thất. Nếu một ngôi nhà bị sập, một kho hàng bị
cháy, đó là tổn thất. Còn đối với khủng hoảng, hàng hoá trong kho không bán được,

sức lao động cũng không bán được (tức là thất nghiệp). Do vậy, một cách đơn giản,
khủng hoảng kinh tế chính là cuộc khủng hoảng thừa.
I.3: Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế.
​ iai đoạn khủng hoảng của chu kì tư bản chủ nghĩa, được biểu hiện bằng hàng hoá
G
sản xuất thừa so với nhu cầu có khả năng thanh toán, sản xuất giảm sút, vốn đầu tư cơ
bản bị rút bớt, thất nghiệp và lạm phát tăng lên, những tỉ lệ chủ yếu của tái sản xuất bị
rối loạn. Nguyên nhân chủ yếu là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, từ đó nảy
sinh một loạt mâu thuẫn phái sinh: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa
sản xuất và tiêu dùng, mâu thuẫn giữa tính có tổ chức trong các xí nghiệp riêng biệt và
tình trạng sản xuất vô chính phủ trong toàn xã hội.
​ hững mâu thuẫn đó đưa nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đến khủng hoảng kinh tế.
N
Khủng hoảng là giai đoạn cơ bản của chu kì kinh tế tư bản chủ nghĩa. Cơ sở vật chất
3


của sự phát triển có tính chu kì của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và sự phát sinh một
cách định kì các cuộc khoa học kĩ thuật sản xuất là sự thay thế tư bản cố định (khoảng
8 - 10 năm). Lúc này, khối lượng hàng hoá sản xuất vượt quá khối lượng nhu cầu có
khả năng thanh toán.
​ o đó, nảy sinh những sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, và do đó "chủ
D
nghĩa tư bản cần trải qua một cuộc khủng hoảng mới tạo nên được một sự cân đối
thường xuyên bị phá hoại" (V. I. Lênin). Hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa đã
kinh qua những cuộc khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa những năm 1825, 1836, 1847,
1857, 1866, 1873, 1882, 1890. Bước vào thế kỉ 20, thời kì đế quốc chủ nghĩa, các cuộc
khủng hoảng xảy ra vào những năm 1900, 1907, 1914-1921, 1929-1933, 1937-1938,
1948-1949,1953-1954, 1957-1958, 1960-1961, 1969-1971, 1974-1975, 1980-1982.
Khủng hoảng kinh tế gây ra rất nhiều tác động tiêu cực: phá hoại lực lượng sản xuất,

làm phá sản một loạt xí nghiệp, một bộ phận người lao động bị thất nghiệp, và khôi
phục tạm thời những mất cân đối của tái sản xuất.
​ ác nhà nước tư bản chủ nghĩa đã tìm cách khắc phục khủng hoảng bằng các
C
phương pháp điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Nhưng khủng hoảng
kinh tế được coi là căn bệnh kinh niên của chủ nghĩa tư bản và diễn ra có tính chất chu
kì, trải qua những giai đoạn có liên quan kế tiếp nhau: khủng hoảng - tiêu điều - phục
hồi - hưng thịnh. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng có thể lâm vào khủng hoảng khi
không giữ được các tỉ lệ chủ yếu của tái sản xuất, mất cân đối giữa nông nghiệp, công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng, giữa cung và cầu,...
​ hưng nó không phải là khủng hoảng sản xuất thừa, không thuộc bản chất của nền
N
sản xuất xã hội chủ nghĩa và có thể được khắc phục bằng sự điều chỉnh có ý thức, có
kế hoạch các quan hệ cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.
I.4: Chu kỳ của khủng hoảng kinh tế.
​ hủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN)
K
mang tính chu kỳ. Trong giai đoạn tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, cứ khoảng từ
8 - 12 năm, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lại phải trải qua 1 cuộc khủng hoảng kinh tế.
Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền kinh tế TBCN vận đọng từ
đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau. Chu kì kinh tế gồm 4 giai
đoạn : khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
-

Khủng hoảng : giai đoạn khỏi điểm của chu kì kinh tế mới. Ở giai đoạn này, hàng
hóa ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản suất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa,
công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống,. Tư bản mất khả năng
thanh toán các khoản nợ, phá sản, lực lượng sản suất bị phá hoại nghiêm trọng.
4



Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.
-

Tiêu điều: đặc điểm ở giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ, ko còn tiếp tục
đi xuống nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hóa
được đem bán hạ giá, tư bản để rỗi nhiều vì không có nơi đầu tưu. Trong giai
đoạn này, để thoát khỏi tình trạng bế tắc, nhà tư bản còn trụ lại được tìm cách
giảm chi phí bằng cách hạ thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động
của công nhân, đổi mới tư bản cố định làm cho sản xuất vẫn còn có lời trong tình
hình hạ giá. Việc đổi mới tư bản cố định làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và
tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi chung của nền kinh tế.

-

Phục hồi : là giai đoạn các xí nghiệp khôi phục sản xuất. Công nhân lại được thu
hút vào làm việc, quy mo như cô, vật giá tăng lên, lợi nhuận cuat tư bản cũng
tăng lên.

-

Hưng thịnh : là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất của chu kì
trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí nghiệp được
mở rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay,
năng lực sản xuất lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó tạo điều kiện cho
cuộc khủng hoảng kinh tế mới.

​ rong quá trình hình thành chủ nghĩa tư bản, tần số và sự ảnh hưởng của khủng
T
hoảng kinh tế tăng lên. Nhưng điều chính là tất cả những khủng hoảng đó đều được

khắc phục. Và cứ mỗi lần một quốc gia nào đó thoát khỏi cuộc khủng hoảng thì nó lại
trở nên hùng mạnh hơn trước khi rơi vào khủng hoảng.
​ hủng hoảng vào năm 1825 được coi là thảm họa tài chính toàn thế giới đầu tiên.
K
Sau khi cuộc diễu hành giành độc lập đã lan đến Mỹ Latin, châu Âu đã nhập thêm
vốn-tư bản cho lục địa đó, dẫn đến xuất khẩu và các món nợ quốc gia của những nước
cộng hòa mới này tăng lên. Số vàng và bạc kiếm được ở Mỹ đã chuyển về cho nước
Anh. Sự đầu cơ đông đảo vào các kim loại qúy hiếm đã làm cạn kiệt các ngân hàng
nước Anh và dẫn đến phá sản thị trường vốn. Khủng hoảng đã lan ra phần lớn lãnh thổ
Tây Âu và Mỹ Latin.
​Khủng hoảng trong thị trường chứng khoán năm 1836-1837 đã bao phủ những quốc
gia Anh, Đức và Hà Lan, gắn bó với những vốn đầu tư vô căn cứ được góp vào sự
phát triển của những đường xe lửa. Và kết qủa là toàn bộ hệ thống ngân hàng những
nước đó bị tổn thương nghiêm trọng.
​ ào năm 1857 một trong những khủng hoảng có quy mô lớn nhất thế kỷ 19 bùng nổ.
V
Những công ty đường xe lửa bị phá sản hoàn toàn dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống
ngân hàng quốc gia nhiều nước, rồi đến sự sập đổ của hệ thống ngân hàng toàn châu
5


Âu.
​ ý do khủng hoảng tiền tệ năm 1861 ở Mỹ là cuộc nội chiến giữa miền Nam và miền
L
Bắc. Nhà nước đã không thể thanh toán được văn tự nợ sau khi vay ngân hàng. Khủng
hoảng đã xuất hiện và kéo dài đến cuối cuộc chiến tranh.
V​ào năm 1914 khủng hoảng tài chính tiếp theo bùng lên. Nhà nước Mỹ và phần lớn
những nước châu Âu đã bán tống bán tháo ngân phiếu nhiều quốc gia khác để cung
cấp cho những hoạt động quân sự của nước mình.
​ iữa hai cuộc chiến tranh thế giới hoàn toàn là khủng hoảng kinh tế. Thời kỳ Đình

G
Trệ năm 1920-1922 và giai đoạn Đình Đốn Vĩ Đại năm 1929-1933 đã tác động đến đời
sống mọi giới con người. Mùng 4 tháng 10 năm 1929 (“Thứ năm đen”), ở thị trường
chứng khoán New York, giá chứng khoán giảm đi 60-70%.
​ hủng hoảng năm 1957-1958 lan tràn ra Mỹ, Canada và những nước Tây Âu. Sản
K
xuất công nghiệp thế giới giảm đi 4%. Kinh tế Mỹ vào năm 1973-1974 bị thu hẹp lại và
giống như trong thời kỳ Đình Đốn Vĩ Đại. Khủng hoảng bao trùm toàn bộ châu Âu. Ở
Anh giá chứng khoán giảm đi 56%. Tình hình còn trầm trọng thêm vì khủng hoảng dầu
mỏ kèm theo, giá một thùng dầu tăng từ 3 lên thành 12 đô-la.
​ gày 19 tháng 10 năm 1987 được ghi nhớ ở lịch sử Mỹ là “Thứ hai đen tối”. Trong
N
vòng một ngày, chỉ số quỹ Dow Jones Industrial sụt giảm 22,6%. Tiếp theo, thị trường
Canada và Úc bị sụt giảm, còn sở giao dịch Hồng Kông nghỉ việc trong vòng một tuần.
Vào năm 1994-1995, khủng hoảng nổ ra ở Mêhicô, và hai năm sau thị trường quỹ của
châu Á sụp đổ. Các chuyên gia kết luận rằng khủng hoảng ở châu Á làm GDP thế giới
giảm 2 ngàn tỷ đô-la. Một năm sau Nga đã phải tuyên bố lạm phát và chấp nhận buông
xuôi, vì món nợ nhà nước quá lớn. Thị giá đồng Rúp sụt giảm, còn những người đầu tư
quay lưng lại với kinh tế Nga.
​ hủng hoảng năm 2008 là khủng hoảng đầu tiên đối với chúng ta, vì thế ở những
K
nước như Ucraine nó là nỗi lo sợ, là hiện tượng đáng lưu tâm, và, cho dù đã xem xét
phạm vi lan rộng của nó, đó là hiện tượng lô-gíc và tiên đoán được trước, và nhiều
chuyên gia đã nói về nó trước khi nó bắt đầu.
​ húng ta chỉ nêu tên những thời điểm chủ yếu trong lịch sử kinh tế, bởi vì còn rất
C
nhiều ví dụ khác ít quan trọng hơn, nhưng vẫn tác động mạnh đến số phận nhiều
nước... Cần phải nói rằng nhân loại sống với khủng hoảng nhiều hơn là thiếu nó, ít ra là
trong một thế kỷ rưỡi gần đây.


6


Chương II : Diễn biến khủng hoảng kinh tế thế giới và sự ảnh hưởng
tới Việt Nam.
II.1: Khủng hoảng bất động sản và hệ thống ngân hàng tại Mỹ.
​ uộc khủng hoảng kinh tế bắt đâu ở Mỹ và nhanh chóng lan ra toàn thế giới đã có
C
mầm mống khởi nguồn từ trước ngày 6/8/2007 khi Công ty Thế chấp nhà Mỹ (American
Home Morgage) làm đơn xin phá sản. Tiếp theo sự khởi nguồn này là nhiều ngân hàng
và công ty lâm vào khó khăn và bộc lộ rõ nét là sự sụp đổ và khó khăn của các ngân
hàng và công ty tài chính lớn và nổi tiếng ở Mỹ.
​ ên cạnh sự sụp đổ của các tên tuổi lớn, hàng loạt các tổ chức tài chính khác cũng
B
đã đổ theo với các khoản nợ có liên quan tới các vụ sụp đổ nói trên và sự giảm mạnh
về giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Ngày 3/10, với 263 phiếu thuận và 171
phiếu chống Hạ viện Mỹ đã thông qua kế hoạch 700 tỷ USD nhằm giải cứu ngành tài
chính nước này thoát khỏi khủng hoảng.
​Mặc dù đã có rất nhiều biện pháp của Chính phủ Mỹ đã đưa ra nhưng đến đầu tháng
11 này, các cơ quan của Mỹ đã phải đóng của thêm một ngân hàng nữa là Freedom
Bank đưa tổng số ngân hàng bị giải thể là 17 ngân hàng. Đến thời điểm đó thì nhiều
người dân Mỹ thi nhau xin phá sản, cụ thể là tháng 10/2008, cá nhân nộp đơn xin phá
sản tăng 8% so với tháng trước (108.905 lượt người), tức là mỗi ngày có 4.936 đơn xin
phá sản, tăng 34% so với cùng kỳ năm 2007. Tại một số bang của Mỹ, tình hình người
dân lâm vào phá sản rất cao, như tại bang Nevada, số đơn xin phá sản trong tháng
10/2008 tăng 70% so với cùng kỳ năm trước, bang California và Florida là 80% và 62%.
Tóm lại nền kinh tế Mỹ khi đó là khá trầm trọng và đã lây lan khủng hoảng này sang
hầu khắp các nước trên thế giới.
​ ác thị trường chứng khoán trên thế giới đồng loạt sụt giảm mạnh trước diễn biến
C

thị trường tài chính Mỹ. Đặc biệt, ngày 17/9, bất chấp nỗ lực giải cứu AIG, thị trường
chứng khoán Mỹ đã có mức sụt giảm kỷ lục do đợt bán tháo cổ phiếu được coi là tồi tệ
nhất kể từ sau sự kiện 11/9/2001.
II.2: Diễn biến khủng hoảng kinh tế trên phạm vi toàn thế giới
​ ác thị trường chứng khoán trên thế giới đồng loạt sụt giảm mạnh trước diễn biến
C
thị trường tài chính Mỹ. Đặc biệt, ngày 17/9, bất chấp nỗ lực giải cứu AIG, thị trường
chứng khoán Mỹ đã có mức sụt giảm kỷ lục do đợt bán tháo cổ phiếu được coi là tồi tệ
nhất kể từ sau sự kiện 11/9/2001.
7


​ o mức độ trầm trọng và lan rộng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, EU, Nhật
D
Bản, Hàn Quốc và nhiều nền kinh tế trên thế giới đã và đang phải đối mặt với những
tác động tiêu cực và đã có nền kinh tế lâm vào khủng hoảng mặc dù các nước này đã
phối hợp sử dụng một nguồn lực tài chính lớn chưa từng có (tới hàng nghìn tỷ USD) và
gần như tất cả các biện pháp có thể để hỗ trợ thanh khoản và cứu hệ thống tài chính
khỏi sụp đổ.
​ ối với châu Á, khủng hoảng kinh tế đã tràn vào và Inđônêxia là nước hứng chịu đầu
Đ
tiên. Tiếp theo là các nền kinh tế ở châu Á khác cũng đang từng bước bị ảnh hưởng ở
mặt này, mặt khác với mức độ nặng nhẹ khác nhau, thể hiện ở hàng loạt thị trường
chứng khoán ở châu Á bị rơi tự do, nhiều công ty tài chính, ngân hàng khó khăn, thua
lỗ và có nguy cơ phá sản. Nền kinh tế Nhật Bản đang lâm vào khủng hoảng trong
những ngày gần đây: giá chứng khoán giảm mạnh, nhiều ngân hàng, công ty đã và
đang trên bờ vực thẳm. Như vậy, cuộc khủng hoảng này đã được coi là cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới. Đánh giá ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế Mỹ đến thời điểm hiện
nay trên toàn thế giới là rất khó, nhưng có thể thấy đây là một con số khổng lồ. Mới đó
mà nhiều quốc gia đã phải bơm ra hàng trăm tỷ USD để cứu vãn tình hình và ổn định

kinh tế. Đó là chưa kể đến những thiệt hại tiếp theo từ kinh tế suy giảm, không tăng
trưởng, rối loạn và thất nghiệp đang chờ phía trước. Cho tới thời điểm hiện tại, tác
động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này là làm thay đổi hoàn toàn và sâu sắc ngành
công nghiệp tài chính Mỹ và hệ thống tài chính toàn cầu.
II.3: Sự ảnh hướng của các cuộc khủng hoảng kinh tế đến nước ta ngày nay.
Khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới chắc chắn sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến nền
kinh tế nước ta trên cả góc độ trực tiếp và gián tiếp, tuy nhiên mức độ không giống như
các nước khác và chưa thể xác định cụ thể, cũng không quá lo, không hoảng hốt,
nhưng không chủ quan mà bình tĩnh để xem xét, xử lý. Mặc dù, đã có nhiều ý kiến và
chắc chắn sẽ còn nhiều ý kiến nữa đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế
giới đến nước ta, nhưng nhìn chung có thể nói, nền kinh tế nước ta đang có chiều
hướng chuyển động tốt, trở lại dần với xu thế ổn định, lạm phát được kiềm chế, tăng
trưởng ở mức hợp lý, các cơ chế chính sách đang từng bước được rà soát phù hợp
hơn. Nhìn vào các ngành, lĩnh vực cụ thể, chúng tôi xin nêu một số ý ban đầu như sau:
-

Lĩnh vực sản xuất nông nghiệp: mặc dù bị thiệt hại nặng vì lũ lụt, thiên tai ở các
tỉnh miền Bắc và miền Trung gây ra hư hỏng nặng về hoa màu, nhưng khả năng
vụ mùa vẫn được bảo đảm. Năm 2009, khả năng sản xuất lương thực thực
phẩm cũng ở mức ổn định, không bị ảnh hưởng lớn của khủng hoảng kinh tế Mỹ
và thế giới.

8


-

Lĩnh vực sản xuất công nghiệp: cũng có khó khăn, nhưng những khó khăn hiện
nay là do lạm phát cao đem lại, đặc biệt là khó khăn trong lĩnh vực xây dựng.
Năm 2009, khi giá cả thế giới ở mức thấp và giá trong nước ổn định, đặc biệt đi

theo đó là lãi suất tín dụng ngân hàng sẽ giảm xuống tương ứng thì các doanh
nghiệp sẽ có cơ hội khôi phục và phát triển sản xuất, ảnh hưởng từ khủng hoảng
kinh tế thế giới cũng sẽ không nhiều vì sức mua trong dân vẫn cao, mức tiêu thụ
hàng hoá trong các tháng vẫn ở trong phạm vi khả quan.

-

Lĩnh vực dịch vụ: về cơ bản có ảnh hưởng nhưng không lớn vì khi giá cả giảm
xuống thì nhu cầu dịch vụ sẽ tăng lên và người tiêu dùng sẽ được hưởng thụ
nhiều hơn các loại hình dịch vụ. Đối với dịch vụ tài chính, ngân hàng sẽ tốt hơn
khi lãi suất tín dụng ngân hàng giảm xuống, chi phí dịch vụ ngân hàng ở mức
thấp thì nhiều doanh nghiệp và cá nhân sẽ có điều kiện vay vốn và sử dụng các
dịch vụ này nhiều hơn.

-

Lĩnh vực xuất – nhập khẩu: do nhập khẩu các nước giảm nên xuất khẩu của ta
giảm, hơn nữa giá cả các mặt hàng giảm nên mặc dù tổng sản lượng hàng xuất
khẩu vẫn tăng nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu vẫn giảm. Đó là chưa kể các
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu gặp khó khăn
trong huy động vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tháng
8/2008, ta xuất khẩu 6,1 tỷ USD, tháng 9/2008 giảm xuống còn 5,3 tỷ USD. Năm
2009 khả năng xuất khẩu sẽ không tăng cao do tác động của cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới trên các mặt nêu trên. Đối với nhập khẩu 10 tháng đầu năm 2008
tăng 42,6% và nhập siêu bằng 30,3% tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2009,
nhập khẩu sẽ giảm nhưng không nhiều, khả năng nhập siêu sẽ cao.

-

Lĩnh vực tài chính, ngân sách và bảo hiểm: có một số tác động nhẹ như giảm

nguồn thu ngân sách nhà nước, hay người dân sẽ giảm các hoạt động bảo hiểm
nhưng những vấn đề này về cơ bản là ổn định.

-

Đầu tư nước ngoài vào nước ta: có thể được xem xét ở trên các góc độ và các
mặt như: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta (FDI); đầu tư gián tiếp qua thị
trường chứng khoán (FII), Viện trợ phát triển chính thức (ODA), Vay nợ nước
ngoài và các nguồn khác.

​ ến thời điểm hiện nay, Mỹ đứng thứ 11 trong hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ cóá
Đ
hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với 419 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký
4,1 tỷ USD, các dự án phần lớn còn ở giai đoạn đầu và phần nhiều đầu tư vào hạ tầng
dài hạn (khách sạn du lịch, công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải bưu
điện). 65% đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam là vào lĩnh vực dịch vụ, trong đó khách sạn
9


du lịch chiếm 52%. Đây là khu vực có thể chịu nhiều ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng
tài chính ở Mỹ, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng cụ thể còn phụ thuộc vào tốc độ giải ngân
của các dự án tại nước ngoài và tiềm lực, chiến lược đầu tư của từng công ty. Luồng
vốn FDI thực hiện trong 10 tháng đầu năm đạt 9,1 tỷ USD, tăng 38,3% so với cùng kỳ
năm 2007. Nhìn chung, các nhà đầu tư đến từ châu Âu và Mỹ chỉ chiếm khoảng 5%
trong số 59,3 tỷ USD đăng ký, trong khi các nhà đầu tư châu Á chiếm khoảng 80%
(13% từ Nhật Bản và 67% từ các nước châu Á khác). Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính
Mỹ và thế giới không chỉ gây ra khó khăn cho các nhà đầu tư Mỹ mà còn cho các nhà
đầu tư từ các nước khác do sự liên thông và lệ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế và
các nhà đầu tư.
​ ối với nguồn vốn FDI đã bắt đầu bị ảnh hưởng nhẹ. Một số dự án đăng ký mới có

Đ
xu hướng chững lại, trong tháng 10/2008, chỉ số 68 dự án đăng ký mới với tổng số vốn
đăng ký là 2,02 tỷ USD, thấp hơn so với các tháng đầu năm (bình quân 1 tháng đầu
năm số dự án đăng ký mới là trên 98 dự án với tổng số vốn trên 6,25 tỷ USD; 9 tháng
đầu năm 2008 có 885 dự án đăng ký với tổng số vốn 56,27 tỷ USD). Tháng 10 năm
2008, tổng số vốn thực hiện chỉ đạt 15% so với số vốn đăng ký mới và tăng thêm. Đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta sẽ sút giảm nhẹ vì các nước đều khó khăn, các
nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ khó khăn hơn vì chi phí vốn sẽ đắt đỏ hơn. Hơn
nữa, nhiều công ty mẹ yêu cầu các công ty con đầu tư tại nước ta phải giảm đầu tư rút
vốn về để tháo gỡ khó khăn cho công ty mẹ.
​Về nguồn vốn ODA, trong tháng 10, giải ngân đạt thấp, năm 2008 giải ngân không
đạt như dự báo 2,3 tỷ USD vì các nguồn vốn cũng gặp các khó khăn và hạn hẹp khi
các nước đang tập trung chống khủng hoảng tại nước mình. Như vậy, có thể thấy số
vốn ODA cam kết và giải ngân tại Việt Nam trong những năm tới sẽ có xu hướng giảm
do nguồn lực tài chính của các tổ chức tài chính quốc tế và các nước được dành để
cân đối bình ổn thị trường trong từng nước và quốc tế nên sẽ khó khăn hơn trong tài
trợ ODA.
​ guồn vốn đầu tư gián tiếp (FII), chúng ta có thể thấy: trong bối cảnh cuộc khủng
N
hoảng tài chính Mỹ đang lan rộng ra toàn cầu, các định chế tài chính sẽ phải xem xét lại
chiến lược đầu tư và danh mục đầu tư của mình. Điều đó có thể sẽ diễn ra sự điều
chỉnh nhất định của dòng đầu tư vào thị trường vốn Việt Nam, giảm bớt đầu tư vào Việt
Nam và có xu hướng đầu tư vào các kênh an toàn.
​Tính đến thời điểm này, có khoảng 70 quỹ đầu tư quốc tế lớn nhỏ đang thực hiện
giải ngân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ khiến
các quỹ đầu tư nước ngoài khó huy động vốn hơn hoặc sẽ có xu hướng thận trọng hơn
trong quyết định đầu tư khi những thị trường lớn của họ đang có vấn đề. Luồng tiền
10



đầu tư gián tiếp vào Việt Nam cũng bị ảnh hưởng và có khả năng sẽ chảy ngược ra
nếu tình hình thế giới tiếp tục xấu đi.
​ hủng hoảng kinh tế Mỹ và toàn cầu cũng gây khó khăn cho việc phát hành trái
K
phiếu và chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế vì chi phí tăng cao và ít nhà
đầu tư hơn do dòng vốn khan hiếm. Nếu chúng ta phát hành để huy động với lãi suất
quá cao thì đưa về đầu tư trong nước sẽ không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp sẽ dẫn
đến khó có khả năng trả nợ khi đến hạn.
​ ột nguồn lực tài chính mà chúng ta có thể hy vọng tương đối ổn định là nguồn kiều
M
hối. Trong một vài năm trở lại đây nguồn kiều hối đã vào nước ta ở mức 9 – 10 tỷ USD,
ngoài mục đích hỗ trợ thân nhân và đầu tư kinh doanh, thì trong hai năm qua, nguồn
vốn này đưa về nước còn thêm mục đích đầu tư bất động sản và đầu tư chứng khoán.
Tuy nhiên, tình hình khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới hiện nay có thể làm cho nguồn
này giảm vì tỷ lệ thất nghiệp ở các nước gia tăng, thu nhập của nhiều người sẽ giảm
mạnh. Hơn nữa, thị trường chứng khoán và bất động sản ở ta cũng không còn hấp dẫn
như trước đây nên khoản đầu tư vào các lĩnh vực này qua con đường kiều hối sẽ giảm
mạnh.
​ ùng với khó khăn của các nguồn vốn trên, thì nguồn vốn vay nước ngoài cũng sẽ bị
C
hạn chế vì khan hiếm về vốn, chi phí vốn cao và người cho vay cũng sẽ bớt đi. Hơn
nữa nếu vay để đầu tư trong giai đoạn này thì hiệu quả rất thấp nên cũng sẽ ít nhà đầu
tư cố đi vay nước ngoài về để đầu tư nên khả năng đầu tư từ nguồn vốn này sẽ giảm.
​ ên cạnh sự khó khăn và giảm đầu tư nước ngoài tại nước ta trong thời gian tới do
B
khủng hoảng tài chính Mỹ và thế giới như đã nêu ở trên, thì chúng ta cũng thấy những
cơ hội để các nguồn vốn này giảm không nhiều, đó là:
-

Việt Nam đang được coi là nền kinh tế, đất nước có môi trường đầu tư ổn định

nên nhiều nhà đầu tư vẫn muốn đầu tư vào nước ta. Nhiều nhà đầu tư vẫn tin
vào tương lai và triển vọng phát triển của nền kinh tế nước ta và cho rằng tác
động của khủng tài chính Mỹ và thế giới vào nước ta chỉ ở mức độ nhất định và
sẽ khắc phục trong thời gian tới.

-

Các nhà đầu tư Nhật Bản, Châu Âu đã nhắm vào khu vực Đông Nam Á và lên
chiến lược trong 10 năm tới, trong đó nhấn mạnh nhất vào Việt Nam.

11


Chương III : Phương hướng và giải pháp đối phó với khủng hoảng
kinh tế.
​Trước tình hình khủng hoảng tài chính, tín dụng thế giới và nền kinh tế nước ta đã
có những chuyển biến tích cực, lạm phát tháng 10 đã ở mức -0,19%, tháng 11 là
-0,76% so với tháng 10, nhưng vẫn đang ở trong tình trạng lạm phát cao. Do vậy, mục
tiêu tổng quát về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2012 được quốc hội thông
qua Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII, Ngày 9/11 là “Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và
cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phúc
lợi xã hội, an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị,
củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, nâng cao hiệu
quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế” . Bên cạnh những khó khăn do tác động
của khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới vào nước ta, phải kể đến những khó khăn nội
tại nền kinh tế như: do thủ tục phiền hà, vướng mắc không được tháo gỡ nên nhiều
công trình, dự án, doanh nghiệp gặp khó khăn.
​Do vậy, để ngăn chặn khủng hoảng, chúng ta cần có những biện pháp, kế hoạch cụ
thể :

Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các nhóm giải pháp chống lạm phát, nhất là tiếp tục
chính sách tiền tệ chặt chẽ nhưng linh hoạt, thận trọng theo cơ chế thị trường. Sử dụng
hiệu quả các công cụ tiền tệ với việc điều chỉnh linh hoạt theo diễn biến của thị trường
như: tỷ giá, lãi suất, hạn mức tín dụng… Trước mắt hạ lãi suất xuống một cách phù
hợp theo tín hiệu thị trường. Xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại, bảo đảm các
khoản nợ này ở mức an toàn. Rà soát và kiểm soát chặt chẽ các khoản vay kinh doanh
bất động sản và chứng khoán. Bên cạnh đổi mới và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, cần
đổi mới quản trị nội bộ ngân hàng nhằm lành mạnh hoá hệ thống này tránh tác động
của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Thứ hai, tăng cường sự giám sát của Chính phủ đối với hệ thống tài chính, ngân
hàng và thị trường chứng khoán. Rà soát lại và lành mạnh hóa hệ thống tài chính, ngân
hàng. Rà soát lại các ngân hàng cho vay nhiều vào khu vực bất động sản và các dự án
có tính rủi ro cao. Kiểm tra chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại, đặc biệt
là tín dụng dành cho các lĩnh vực nhiều rủi ro như bất động sản, chứng khoán. Xây
dựng hệ thống cảnh báo sớm với các tiêu chí cụ thể để có phương án, giải pháp dự
phòng đối với biến động xấu từ hệ thống ngân hàng, tài chính.
Thứ ba, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, có chính sách hỗ trợ nông nghiệp khắc
phục hậu quả bão lụt, hỗ trợ người dân sản xuất lương thực, thực phẩm và người dân
12


nghèo vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi đến các doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả. Có chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nhất là đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ, giảm tiến độ thu thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá
trị gia tăng hàng nhập khẩu trong trường hợp lạm phát cao và suy thoái kinh tế. Tập
trung tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trong
các tháng cuối năm.
Thứ tư, tiếp tục các chính sách về chặt chẽ chi tiêu Chính phủ và đầu tư khu vực
công nhằm tránh xảy ra nguy cơ thâm hụt ngân sách. Việc thắt chặt chi tiêu Chính phủ
và chuyển các khoản đầu tư công sang cho khu vực tư nhân sẽ góp phần vào việc

giảm thuế cho khu vực doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Các doanh nghiệp sẽ
có thêm được nguồn vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thị trường. Đẩy mạnh đầu
tư cho các dự án cơ sở hạ tầng, hạ tầng kỹ thuật lớn, quan trọng mà trong các thời
điểm trước đây chưa có điều kiện đầu tư thì nay đầu tư để kích thích kinh tế phát triển.
Thứ năm, cải cách và tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính, về giải
phóng mặt bằng, phê duyệt dự án và về giải ngân để tạo điều kiện các dự án, chương
trình được triển khai nhanh, đặc biệt là đối với các công ty xây dựng. Đối kinh doanh
bất động sản thì bên cạnh đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư và xây dựng nhà giá rẻ
cho người nghèo, các đối tượng chính sách, nhà ở cho người lao động ở các khu kinh
tế, khu công nghiệp tập trung, nhà ở cho sinh viên, học sinh, cần hạn chế và đánh thuế
cao vào các trường hợp đầu cơ bất động sản.
​ hứ sáu, đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, để tránh bớt tác động từ việc giảm
T
nhập khẩu của Mỹ và một số nước chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính,
tín dụng thế giới và tăng cường các thị trường mới, chuyển hướng tới mở rộng thị
trường trong nước. Áp dụng các biện pháp chính sách để khuyến khích phát triển sản
xuất hàng xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt nhập siêu. Thực
hiện chế độ tỷ giá linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu và tăng mức tín dụng ưu đãi cho sản xuất
hàng xuất khẩu. Tăng cường và đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước, nhất là
trong các khâu thu mua nguyên liệu nông sản bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa phát triển
vùng sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, phát triển hệ thống
phân phối các vật tư quan trọng và hệ thống bán lẻ, nâng cao chất lượng dịch vụ và
bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
​Thứ bảy, theo dõi chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta, tiếp tục
cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài, trong đó
theo dõi việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Mỹ và các nước Châu
Âu để có thể hỗ trợ khi cần thiết.
​Thứ tám, tổ chức, điều hành và giám sát tốt việc bảo đảm sự thông suốt của cơ sở
13



bán lẻ trong nước, không gây đầu cơ, ách tắc, khan hiếm hàng hoá. Đồng thời khuyến
khích tiêu dùng hợp lý và nâng lương tối thiểu sớm cho cán bộ, công chức nhà nước và
công nhân ở các doanh nghiệp.
​ hứ chín, tăng cường công tác thông tin, quan hệ công chúng. Bám sát thường
T
xuyên, cập nhật thông tin trong và ngoài nước để có đánh giá đúng diễn biến tình hình;
qua đó có được phản ứng chính sách thích hợp và kịp thời nhất.

KẾT LUẬN
K​hủng hoảng đã đi qua nhưng vẫn còn đó rất nhiều công việc để chúng ta phải nhìn
nhận, sự yếu kém trong khâu quản lý và quá tin tưởng vào thị trường đã làm phát sinh
nên nhiều quá nhiều điểm yếu và bất ổn trong hệ thống tài chính của Mỹ nói riêng và
thế giới nói chung. Xu thế toàn cầu hóa cũng là con dao hai lưỡi đối với nền kinh tế thế
giới, cơ hội tạo ra cũng nhiều và thách thức cũng khá là nhiều đó là vấn đề cần được
nhiều quốc gia xem xét để có một chiến lược phát triển hợp lý. Cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu đã chỉ ra quá nhiều điểm yếu kém cần phải được cải tổ và khắc phục,
sẽ không dẽ một sớm một chiều để làm được điều đó bởi ngay sau lưng nó đây là một
khoảng nợ khổng lồ mà nhiều nước châu Âu đang gánh phải, tình trạng thất nghiệp lan
rộng, sự thiếu lòng tin của các nhà đầu tư vào tình hình tài chính trong tương lai… sẽ là
vết thương rất khó lành sau cuộc khủng hoảng tồi tệ này, phải chăng thế giới sắp bước
vào một cuộc khủng hoảng tài chính mới? đó là một câu hỏi mà không ít người đang đề
cập tới hiện nay và đang là bài toán hóc búa đối với nhiều nhà kinh tế, nhiều quốc gia
hiện nay. Tuy nhiên hi vọng với những bài học những kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu này mỗi nhà quản lý, mỗi quốc gia sẽ đúc kết được những
kinh nghiệm quý báu để từng bước phục dậy nền kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi khu vực
và xa hơn là tái cơ cấu, ổn định lại hệ thống tài chính quốc tế để làm tiền đề cho sự
phát triển vững mạnh của nền kinh tế thế giới trong bối cảnh hội nhập sâu rộng này.

14




×