THUYẾT MINH DINH ĐỘC LẬP
by tailieudulich
Dinh Độc Lập có diện tích sử dụng 20.000 m2, gồm 3 tầng chính, 2 gác lửng, sân thượng, tầng hầm với khoảng
100 phòng, mỗi phòng được trang trí nội thất khác nhau. Nơi đây từng là cơ quan đầu não của chính quyền Sài
Gòn cũ, nơi ở của gia đình Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Ngô Đình Diệm cho xây công trình này từ năm 1962, xây dựng lại từ Dinh Norodom cũ. Đồ án thiết kế tòa nhà là
của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, người Việt Nam đầu tiên đoạt giải Khôi nguyên La Mã (Grand Prix de Rome), giải
thưởng cao nhất của trường Mỹ thuật Paris.
Dinh Độc Lập (số 135 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Q.1) mở cửa đón khách du lịch từ năm 1990 và hiện nay, mỗi ngày
có hàng nghìn lượt khách trong nước và quốc tế tới tham quan
.
Mặt tiền Dinh Độc Lập.
Phòng trình quốc thư.
Phòng tiếp khách nước ngoài.
Phòng tiếp khách trong nước.
Sách trong thư viện.
Sân vườn trên tầng 2, phía sau phòng trình quốc thư và là khu sinh hoạt của gia đình người
đứng đầu chính quyền cũ.
Bàn ăn món Tây.
Bàn ăn món Việt.
Một góc phòng giải trí.
Bàn chơi mạt chược.
Hành lang luôn tràn ngập ánh sáng.
Bức tranh vẽ tích Thúy Kiều gặp Kim Trọng trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Dãy rèm hoa đá trắng lấy cảm hứng từ cây trúc, tạo nét mềm mại, duyên dáng, lại vừa có tác
dụng đón ánh sáng phương Đông, đón gió cho hành lang.
Tứ phương vô sự lâu trên tầng thượng.
Nhưng thay vì lên đây để tĩnh tâm như ý định ban đầu của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, lãnh
đạo chính quyền Sài Gòn cũ biến nơi này thành sàn nhảy, có bục cho ban nhạc biểu diễn.
Đại lộ Lê Duẩn nhìn từ Tứ phương vô sự lâu. Bao quanh Dinh Độc Lập có nhiều cây xanh
mát.
Lịch sử và các tên gọi của Dinh Độc lập
Năm 1868, sau khi chiếm xong Lục tỉnh Nam kỳ, thực dân Pháp đã cho xây dựng tại đây một dinh
thự. Lúc đầu Dinh là nơi ở của Thống đốc Nam kỳ. Từ năm 1887 (17/10/1887), khi Tổng thống Pháp
ký sắc lệnh thành lập Liên bang Ðông dương thì Dinh trở thành Phủ toàn quyền Pháp tại Ðông
Dương với tên gọi là Dinh Norodom.
Năm 1954, sau thất bại ở Ðiên Biên Phủ, theo hiệp định Genève quân viễn chinh Pháp phải rút khỏi
Việt nam. Ngày 7/9/1954 Ðại tướng Paul Ely, Cao ủy Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Ðông dương thay
mặt cho nước Pháp đã trao Dinh Norodom cho đại diện nhà cầm quyền Sài gòn là Thủ tướng Ngô
Ðình Diệm. Buổi lễ chuyển giao này được coi như một biểu tượng của nền độc lập quốc gia, vì thế
ngày 8/9/1954 Ngô Ðình Diệm đã chính thức đổi tên dinh Norodom thành Dinh Ðộc lập.
Ngày 30/4/1975, giờ phút chiếm Dinh Ðộc lập cũng là giờ phút kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí
Minh và chiến dịch giải phóng hoàn toàn miền Nam. Dinh Ðộc lập trở thành điểm hội tụ của chiến
thắng. Tháng 11/1975, Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc đã diễn ra tại đây.
Với những ý nghĩa lịch sử trọng đại đó, năm 1976 Dinh đã được Nhà nước đặc cách công nhận là Di
tích lịch sử văn hóa Dinh Ðộc lập (Quyết định số 77A/VHQÐ ngày 25/6/1976).
Ngoài những tên gọi pháp lý như trên, trong nhân dân dinh thự này còn có những tên gọi khác tùy
theo từng thời kỳ như:
• Thời Pháp thuộc còn gọi là Dinh toàn quyền.
• Thời Việt nam Cộng hòa còn gọi là Dinh Tổng Thống. Và theo thuật phong thủy Dinh được đặt ở vị
trí đầu rồng nên còn gọi là Phủ đầu rồng.
• Sau Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc còn gọi là Hội trường Thống Nhất
hay Dinh Thống Nhất.
Cơ quan hiện được giao quản lý di tích văn hoá Dinh Ðộc lập có tên là Hội trường Thống Nhất thuộc
Cục Hành chính Quản trị II – Văn phòng Chính Phủ.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Ðà Nẵng mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Năm 1867, Pháp chiếm xong lục tỉnh Nam kỳ (Biên Hoà, Gia định, Ðịnh Tường, Vĩnh Long, An Giang,
Hà Tiên). Năm 1868, chính quyền Pháp bắt đầu cho thiết kế và xây dựng tại trung tâm thành phố Sài
Gòn một Dinh thự làm Dinh Thống đốc và đặt tên là Dinh NORODOM. Công trình được khởi công
ngày 23/2/1868 và hoàn tất vào năm 1871 do viên thống đốc Pháp tại miền Nam Việt Nam là
Lagradìere đặt viên đá đầu tiên. Từ 1871 đến 1887, là Dinh Thống đốc Nam kỳ.
Từ 1887-1945 nhiều đời toàn quyền Pháp đã sử dụng dinh thự này làm nơi ở và làm việc trong suốt
thời kỳ xâm lược Ðông Dương.
Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng Pháp, độc chiếm Ðông Dương, Dinh Norodom là nơi
làm việc của chính quyền Nhật ở Việt Nam.
Từ tháng 9/1945 Nhật thất bại trong chiến tranh thế giới thứ II, Pháp trở lại chiếm Nam Bộ, Dinh
Norodom là trụ sở làm việc của bộ máy chiến tranh xâm lược của Pháp ở Việt Nam.
Ngày 7 / 5/ 1954, thực dân Pháp thất bại nặng nề trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ, sau đó buộc phải ký
Hiệp định Gienève và rút khỏi Việt Nam. Mỹ tìm cách nhảy vào thực hiện ý đồ xâm chiếm miền Nam,
Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành 2 miền, miền Bắc là chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa, còn miền
Nam là chế độ Việt Nam Cộng hòa.
Ngày 7/9/1954 Dinh NORODOM được bàn giao giữa đại diện chính phủ Pháp, Ðại tướng Paul Ely với
đại diện cầm quyền Sài gòn Thủ tướng Ngô Ðình Diệm. Ngô Ðình Diệm đã quyết định đổi tên Dinh
thành Dinh Ðộc lập. Từ đó Dinh Ðộc lập trở thành nơi ở của gia đình Ngô Ðình Diệm và là nơi chứng
kiến nhiều biến cố chính trị. Ngô Ðình Diệm đã duy trì chế độ độc tài gia đình trị, dồn dân vào ấp chiến
lược, thi hành luật 10/59 lê máy chém khắp miền Nam, không những gây phẫn uất trong nhân dân mà
còn gây ra sự bất bình trong nội các chính quyền Sài gòn.
Ngày 27/2/1962, phe đảo chính đã cử hai viên phi công quân đội Sài gòn là Nguyễn Văn Cử và Phạm
Phú Quốc lái 2 máy bay AD6 ném bom làm sập toàn bộ phần chính cánh trái của Dinh. Do không thể
khôi phục lại, Ngô Ðình Diệm đã cho san bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ
án thiết kế của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ người Việt Nam đầu tiên đạt giải Khôi nguyên La Mã.
Ngô Ðình Diệm quyết định khởi công xây dựng Dinh ngày 1/7/1962. Trong thời gian xây dựng Dinh
mới, gia đình Ngô Ðình Diệm tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia Long (hiện nay là Bảo tàng
thành phố Hồ Chí Minh). Công trình đang xây dựng dở dang thì Ngô Ðình Diệm bị phe đảo chính giết
chết ngày 2 / 11/ 1963 . Do vậy, ngày khánh thành Dinh 31/10/1966 người chủ tọa buổi lễ là Nguyễn
Văn Thiệu, Chủ tịch Uỷ ban lãnh đạo quốc gia. Ngô Ðình Diệm là người khởi xướng xây dựng Dinh
Ðộc lập nhưng ông ta không được sống ở đây một ngày nào, mà người có thời gian sống ở Dinh thự
này lâu nhất là Nguyễn Văn Thiệu (từ tháng 10 / 1967 đến 21/4/1975).
Từ đó, Dinh Ðộc lập là cơ quan đầu não của Chính quyền Sài Gòn, là nơi chứng kiến sự can thiệp
quân sự của nước ngoài gây chiến tranh tàn khốc ở Việt Nam, là nơi ra đời nhiều chính sách phản lại
nhân dân của Tổng thống Việt Nam cộng hòa NguyễnVăn Thiệu.
Nhưng điều gì phải đến đã đến.
Bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 10h45 ngày 30/4/1975 xe tăng mang số hiệu 843 của quân giải
phóng thuộc Ðại đội 4, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn xe tăng 230, Quân đoàn 2 dẫn đầu đội hình đã húc
nghiêng cổng phụ của Dinh Ðộc lập, tiếp đó xe tăng mang số hiệu 390 đã húc tung cổng chính tiến
thẳng vào Dinh. 11h30 cùng ngày, Trung úy Bùi Quang Thận – Ðại đội trưởng chỉ huy xe 843 đã hạ lá
cờ 3 sọc xuống, kéo lá cờ mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lên.
Cờ phấp phới tung bay trên nóc Dinh, kết thúc 30 năm chiến tranh gian khổ và anh dũng của dân tộc
Việt Nam. Cũng chính vào giờ phút này, Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà là Dương Văn
Minh cùng toàn bộ nội các của chính quyền Sài gòn đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện chính quyền
cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, quân và dân ta đã thực hiện được ý
nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh : Nhân dân 2 miền Nam – Bắc đã xum họp một nhà. Tinh thần và ý
chí của nhân dân Việt Nam là độc lập dân tộc và thống nhất nước nhà đã toàn thắng.
Ngày nay, Dinh Ðộc lập là di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng được đông đảo du khách trong nước và
nước ngoài đến tham quan và là nơi hội họp, tiếp khách của các cấp lãnh đạo trung ương cũng như
của thành phố.
Kiến trúc Dinh độc lập
Dinh Ðộc lập là một công trình kiến trúc độc đáo của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Dinh được khởi công
xây dựng ngày 1 /7 / 1962 và khánh thành vào ngày 31/10/1966.
Khi thiết kế Dinh Ðộc lập, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ muốn tìm một ý nghĩa văn hóa cho công trình,
nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội thất cho đến tiền diện bên ngoài, tất cả đều tượng trưng cho triết
lý cổ truyền, nghi lễ Phương đông và cá tính của dân tộc. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã kết hợp hài
hoà giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền thống Phương Ðông. Toàn thể bình diện
của Dinh làm thành hình chữ CÁT ( ), có nghĩa là tốt lành, may mắn; Tâm của Dinh là vị trí phòng
Trình quốc thư; Lầu thượng là Tứ phương vô sự lầu hình chữ KHẨU ( ) để đề cao giáo dục và tự do
ngôn luận. Hình chữ KHẨU ( ) có cột cờ chính giữa sổ dọc tạo thành hình chữ TRUNG ( ) như nhắc
nhở muốn có dân chủ thì phải trung kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương, bao
lơn danh dự và mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM ( ). Theo quan niệm dân chủ hữu
tam Viết nhân, viết minh, viết võ, ý mong muốn một đất nước hưng thịnh thì phải có những con ngườ i
hội đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ. Ba nét gạch ngang này được nối liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ
VƯƠNG ( ), trên có kỳ đài làm thành nét chấm tạo thành hình chữ CHỦ ( ) tượng trưng cho chủ
quyền đất nước. Mặt trước của dinh thự toàn bộ bao lơn lầu 2 và lầu 3 kết hợp với mái hiên lối vào
chính cùng 2 cột bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành hình chữ HƯNG ( ) ý cầu chúc cho nước nhà
được hưng thịnh mãi.
Vẻ đẹp kiến trúc của Dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa đá mang hình dáng những đốt trúc
thanh tao bao xung quanh lầu 2. Rèm hoa đá được biến cách từ bức cửa bàn khoa của các cung điện
Cố đô Huế không chỉ làm tăng vẻ đẹp của Dinh mà còn có tác dụng lấy ánh sáng mặt trời.
Ði vào bên trong Dinh, tất cả các đuờng nét kiến trúc đều dùng đường ngay sổ thẳng, các hành lang,
đại sảnh, các phòng ốc đều lấy câu chính đại quang minh làm gốc.
Sân trước của Dinh là một thảm cỏ hình oval có đường kính 102m. Màu xanh rì của thảm cỏ tạo ra
một cảm giác êm dịu, sảng khoái cho khách ngay khi bước qua cổng.
Chạy dài theo suốt chiều ngang của đại sảnh là hồ nước hình bán nguyệt. Trong hồ thả hoa sen và
hoa súng gợi nên hình ảnh những hồ nước yên ả ở các ngôi đình, ngôi chùa cổ kính của Việt Nam.
Dinh có diện tích 120.000m2 (300m x 400m), được giới hạn bởi 4 trục đường chính đó là:
• Ðường Nam Kỳ Khởi Nghĩa ở phía Ðông Bắc (mặt chính của Dinh)
• Ðường Huyền Trân Công Chúa ở phía Tây Nam (mặt sau của Dinh)
• Ðường Nguyễn Thị Minh Khai ở phía Tây Bắc (phía bên trái Dinh)
• Ðường Nguyễn Du ở phía Ðông Nam (phía bên phải Dinh)
Dinh có 04 khu nhà:
• Khu nhà chính hình chữ T diện tích mặt bằng là 4.500m2, cao 26m, nằm ở vị trí trung tâm của khu
đất. Ðây từng là nơi ở và làm việc Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn. Khu này có 03 tầng lầu, 2 gác
lửng, 1 sân thượng, 1 tầng nền và 1 tầng hầm. Tổng diện tích sử dụng là 20.000m2 chia làm 95
phòng. Mỗi phòng có 1 chức năng riêng, kiến trúc và các trang trí phù hợp với mục đích sử dụng của
mỗi phòng. Sau 1975, khu nhà chính này tiếp tục được sử dụng một số phòng, còn lại để phục vụ du
khách tham quan.
• Khu nhà 2 tầng diện tích 8m x 20m phía đường Nguyễn Du trước 1975 là trụ sở làm việc của Ðảng
Dân chủ. Sau năm 1975 là nơi làm việc của Ban giám đốc Hội trường Thống Nhất.
• Khu 04 nhà 2 tầng phía góc đường Nguyễn Du – Huyền Trân Công Chúa trước 1975 là khu nhà ở
của tiểu đoàn bảo vệ Dinh Ðộc lập. Sau 1975 là nơi ở của Ðại đội 1 trung đoàn cảnh vệ 180. Hiện nay
khu này đã được cải tạo thành khu nhà khách của Văn phòng Chính phủ.
• Khu nhà trệt phía góc đường Huyền Trân Công Chúa – Nguyễn Thị Minh Khai, trước 1975 là khu
sinh hoạt của đội cận vệ phi hành đoàn lái máy bay cho Nguyễn Văn Thiệu, của bộ phận chăm sóc
vườn cây. Hiện đã được cải tạo thành khu nhà nghỉ trưa và bếp ăn tập thể của cán bộ công nhân viên
Hội trường Thống Nhất.
Ngoài các khu nhà trên, ở góc trái Dinh phía đường Nguyễn Thị Minh Khai còn có một nhà bát giác
đuờng kính 4m, xây trên một gò đất cao, chung quanh không xây tường, mái ngói cong cổ kính làm
nơi hóng mát, thư giãn.
Xen giữa 04 khu nhà trên là những bãi cỏ xanh mướt, vườn cây cổ thụ, những chậu cây kiểng quí và
04 sân tenis phía sau khu nhà chính.
Chữ Cát
Chữ Chủ
Chữ Hưng
Chữ Khẩu
Chữ Tam
Chữ Trung
Hồ Con Rùa có liên quan gì đến Dinh độc lập?
Hồ Con Rùa, tên chính thức là Công trường Quốc tế, là tên gọi dân gian của một vòng xoay giao
thông có đài phun nước, nối ba đường: Võ Văn Tần, Phạm Ngọc Thạch và Trần Cao Vân, nằm quận
1, thành phố Hồ Chí Minh. Khu vực Hồ Con Rùa hiện nay là một trong những khu vực hoạt động ẩm
thực gần như từ sáng đến đêm, với rất nhiều nhà hàng và các quán bar xung quanh.
Lịch sử
Nguyên thủy ban đầu, tại vị trí Hồ Con Rùa hiện nay, vào năm 1790 là vị trí cổng thành Khảm Khuyết
của thành Bát Quái (còn gọi là thành Quy). Về sau Minh Mạng đổi tên thành cửa Vọng Khuyết. Tuy
nhiên, sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (1833-1835) thì vào năm 1837, Minh Mạng đã cho phá
thành Bát Quái và xây dựng một ngôi thành nhỏ hơn mang tên là thành Phụng. Vị trị cửa Khảm
Khuyết trở thành một điểm ở ngoài thành và nối thẳng con đường ngoài mặt tây thành xuống bến
sông.
Sau khi người Pháp chiếm được thành Gia Định (là tên chính thức của thành Phụng), họ đã cho san
phẳng ngôi thành này vào ngày 8 tháng 3 năm 1859. Sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ,
người Pháp bắt đầu xây dựng thành phố vào năm 1862. Dựa trên những còn đường có sẵn dọc
ngang trong thành Quy cũ, người Pháp đã quy họach khu hành chính của mình. Vị trí Hồ Con Rùa
hiện nay nằm ngay vị trí cuối con đường dẫn ra bến sông được đánh số 16. Trên con đường này,
dinh Thống đốc đầu tiên được xây dựng vào năm 1863. Năm 1864, Nha Giám đốc Nội vụ (Direction
de I’ Intérieur – người dân đương thời gọi là “Dinh Thượng thơ”), được xây dựng ở phía đối diện dinh
Thống đốc. Vào ngày 1 tháng 2 năm 1865, Thống đốc Nam Kỳ, Phó đô đốc Hải quân Pháp PierrePaul de la Grandière (1807-1876) đã đặt tên con đường số 16 là đường Catinat.
Vào năm 1878, một tháp nước được xây tại vị trí Hồ Con Rùa ngay nay để phục vụ nhu cầu cung cấp
nước uống cho cư dân trong vùng. Từ ngày 24 tháng 2 năm 1897, đoạn đường từ phía sau nhà thờ
Đức Bà đến tháp nước đổi tên thành đường Blancsubé. Đến năm 1921 thì tháp nước bị phá bỏ do
không còn đủ sức đáp ứng nhu cầu cung cấp nước nữa và con đường được mở rộng nối dài đến
đường Mayer (nay là đường Võ Thị Sáu) và khúc cuối này có tên là đường Garcerie. Từ đó vị trí này
trở thành giao lộ như ngày nay, với tên gọi là Công trường Maréchal Joffre (cắt giao lộ là đường
Testard – nay là đường Võ Văn Tần – và đường Larclauze – nay là đường Trần Cao Vân). Tại vị trí
này, người Pháp đã cho xây dựng một tượng đài ba binh sĩ Pháp bằng đồng với hồ nước nhỏ, để
đánh dấu cuộc xâm chiếm và biểu tượng của việc người Pháp làm chủ Đông Dương. Do đó, người
địa phương ở đây thường gọi nó là công trường ba hình. Các tượng đài này tồn tại đến năm 1956 thì
bị người Việt phá bỏ, chỉ còn lại hồ nước nhỏ. Giao lộ cũng được đổi tên thành Công trường Chiến sĩ.
Thời điểm xây dựng Hồ Con Rùa chưa được xác định chính xác. Một số tài liệu cho là nó được xây
dựng vào năm 1965, vài tài liệu khác thì cho là 1967.
Từ 1970 đến 1974, Hồ Con Rùa thực sự được trùng tu và chỉnh trang trong đó gồm việc dựng thêm
và điều chỉnh 5 cột bê tông cao có dạng năm bàn tay xòe ra đón đỡ giống như các cánh hoa đón đỡ
một nhụy hoa. Công trình mới này còn bao gồm một vòng xoay giao thông với đường kính khoảng
gần 100 mét, được trang trí bởi cây xanh và hồ phun nước hình bát giác lớn với 4 đường đi bộ xoắn
ốc đồng hướng đến khu vực trung tâm là đài tưởng niệm và hình tượng con rùa bằng hợp kim có đỡ
trên lưng bia đá lớn với các dòng chữ ghi công những người đã hy sinh cho chế độ Việt Nam Cộng
Hoà. Do đó mới có tên gọi dân gian là Hồ Con Rùa.
Sau khi xây dựng xong thì ban đầu khu giao lộ này được đặt tên là Công trường Chiến sĩ Tự do, đến
năm 1972 thì đổi tên thành Công trường Quốc tế. Tuy nhiên, vào đầu năm 1976, tấm bia và con rùa bị
phá hủy trong một vụ nổ, nhưng người dân vẫn quen gọi là Hồ Con Rùa, thay cho tên gọi chính thức.
Huyền thoại Hồ Con Rùa
Theo các giai thoại truyền miệng, thì vào năm 1967, khi tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống
Việt Nam Cộng Hòa, đã mời một thầy phong thủy người Hoa nổi tiếng đến coi thế đất tại dinh Độc
Lập. Người thầy phong thủy này khen vị trí của dinh là vị trí của long mạch, trấn yểm vị trí của đầu
rồng[1]. Con rồng này đầu tại dinh Độc Lập và đuôi nằm tại vị trí Công trường Chiến sĩ, tuy phát hưng
vượng, nhưng do đuôi rồng hay vùng vẫy nên sự nghiệp không bền. Vì vậy cần phải cúng yểm bùa
bằng cách đúc một con rùa lớn để trấn đuôi rồng không vùng vẫy nữa thì mới giữ được ngôi vị tổng
thống lâu dài. Theo một số người thì kiến trúc tháp cao giống như hình một thanh gươm (hoặc cây
đinh/kim), đóng xuống hồ nước để giữ chặt đuôi rồng. Một số người khác thì lại cho rằng kiến trúc
tháp lại giống hình đuôi rồng vươn cao, nhưng có con rùa đè chặt ở phần đầu ngọn. Số khác thì lại
cho là nhìn từ trên cao xuống thì toàn thể kiến trúc trông giống như một con rùa.
1. Do đó dinh Độc lập còn có tên gọi là Phủ Đầu Rồng
Vụ án Hồ Con Rùa
Cũng xuất phát từ quan niệm phong thủy trên, vào năm 1978, một nhóm người phản đối chính quyền
Việt Nam thống nhất, cũng mê tín dị đoan, đặt bom phá hủy với mục đích giải thoát cho đuôi rồng để
nó phá chính quyền mới. Tuy nhiên, đã bị lực lượng an ninh Việt Nam bắt giữ và ngăn chặn trong vụ
án mang tên “Vụ án Hồ con Rùa”. ngoài ra cái chết này cũng còn là cái chết bí ẩn. có những thông tin
cho rằng Cái chết của nữ nghệ sĩ Thanh Nga lại liên quan đến vấn đề dân tộc Champa và vai diễn
của bà lúc bấy giờ.
--------------------------------------------------------
Xuất xứ của cặp ngà voi trong Dinh Độc Lập
Posted by tailieudulich
Theo lời kể của một cựu sĩ quan quân đội Sài Gòn: Trung úy Bùi Quang Vinh, Trưởng Ban Tham mưu
hành quân của Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 54, Sư đoàn 1 bộ binh, đóng tại Thừa Thiên – Huế năm
1970, để đoạt hai chiếc ngà voi, có ít nhất 20 người dân vô tội đã bị sát hại trong rừng sâu Hạ Lào.
Cặp ngà voi sau đó được đem về Huế, gửi vào Dinh Độc Lập…
Sang đầu năm 1971, tiểu đoàn đột ngột nhận lệnh tập kết tại Khe Sanh, qua vùng Lao Bảo và tiến
sang đất Lào. Mấy ngày đầu, trung đội trinh sát do trung úy Minh chỉ huy tiến lên trước, gặp một nhóm
dân tộc thiểu số đi ngược chiều, chừng hơn 20 người gồm toàn phụ nữ, cụ già và trẻ em, theo sau họ
có con voi to lớn (trên lưng chở một cái bành, mà sau này khi hạ voi, đã tìm thấy pho tượng nữ thần
bằng đồng để trong bành ấy). Voi có cặp ngà cong vút, láng lẫy, dài non sải tay. Trung úy trinh sát
(Minh) điện về ban chỉ huy tiểu đoàn gặp trung úy tham mưu (Vinh) xin nói chuyện trực tiếp với “đại
bàng” (mật danh của thiếu tá Thọ, tiểu đoàn trưởng, là bà con bên vợ Tổng thống Thiệu). “Đại bàng”
hỏi: “Lấy ngà dễ chứ?”. Minh đáp: “Khó. Người Thượng không chịu bán voi hoặc đổi chác gì cả. Họ tỏ
ra sùng kính, bảo vệ con voi lắm”. “Đại bàng” thúc: Vậy thì… bắn bỏ hết!”. Tuân lệnh, Minh cho trung
đội xả súng vào đoàn người vô tội, bắn chết không chừa một ai.
Giết người, giết voi, chặt ngà xong, trung đội trinh sát của Minh tiếp tục di chuyển và hai ngày sau bất
ngờ lọt vào vòng vây giăng sẵn của bộ đội chính quy cách mạng, bị cắt đứt đội hình với tiểu đoàn và
bị chênh vênh, cô lập trên đồi cao…
Lúc này Minh đang giữ cặp ngà voi còn dính máu, đã lập cập điện về bộ chỉ huy xin liên lạc hậu cứ
tiếp ứng máy bay giải vây. Nhưng “đại bàng” sợ cặp ngà quý bị bom thả nát, nên chỉ lặng lẽ tung bộ
binh mở đường máu lên đỉnh đồi một cách khó khăn, chậm chạp. Và, phải đổi nhiều sinh mạng sau
trận đánh kéo dài từ 10 giờ sáng hôm nay đến 10 giờ sáng hôm sau mới lọt vào tử địa, lục tìm cặp
ngà mang về. Những ngày sau tiểu đoàn của Thọ tiếp tục bị truy đánh, tan tác, chạy về tới Huế, còn
không quá 2 đại đội (trong số 5 đại đội biên chế lúc xuất quân). Ông Vinh kể: “Nhiều người bỏ xác tại
chỗ trong đó có trung úy Minh, ngược lại cặp ngà voi thì theo lệnh của ông Thọ phải đưa ra khỏi mặt
trận bất cứ giá nào để đem về nhà riêng ông ta trong thành nội Huế”.
Đến 1972, thiếu tá Thọ một lần nữa bị vây khốn trên một cứ điểm vùng núi Thừa Thiên, tính mạng
nguy ngập. Quyết định thăng chức trung tá cho Thọ được đựng trong chai, rồi dùng máy bay thả
xuống căn cứ, xem như Thọ sắp là “người cõi trên” (trên bàn thờ).
Song, nhờ bấy giờ, ông Thiệu hay tin cháu vợ lâm nguy, sốt ruột, điện trực tiếp cho Tư Lệnh quân khu
1, vùng 1 chiến thuật phải bằng mọi cách cứu Thọ. Họ dùng lực lượng đặc biệt xuyên rừng đưa Thọ
và một số sĩ quan thân cận may mắn chạy thoát thân khỏi trận địa pháo, số binh sĩ Sài Gòn còn lại bị
B52 ném bom rải thảm, chôn vùi.
Thoát chết, Thọ thất thần, muốn rời khỏi vùng hỏa tuyến. Và muốn xa cặp ngà voi mà Thọ cho là từ
ngày có chúng trong nhà đã xảy ra nhiều xui xẻo. Năm sau, 1973, Thọ bấy giờ lên trung tá, được Dinh
Độc Lập chiếu cố dàn xếp để rời vùng 1 chiến thuật, về làm tiểu khu phó Định Tường, thuộc địa bàn
của quê vợ ông Thiệu. Ngày ra đi, Thọ đóng cặp ngà voi vào thùng, chuẩn bị tặng Tổng thống Thiệu,
để vừa đền ơn (cứu mạng), vừa muốn xa “món quà” dính dấp tới quá nhiều cái chết. Áp tải thùng ngà
voi lên chiếc máy bay C130 (cùng một số vật sản của gia đình trung tá Thọ) tại phi trường Phú Bài là
trung úy Vinh, người kể chuyện này. Đáp xuống Tân Sơn Nhất, ông Vinh đưa ngà voi vào Dinh Độc
Lập theo cổng đường Nguyễn Du. Năm ấy ông 22 tuổi, thuộc hàng sĩ quan trẻ nhất, xuất thân từ
trường thiếu sinh quân của Sài Gòn. Sau năm 1975, ông đi học tập cải tạo hơn 6 năm. Nay ông đã 52
tuổi, đến tòa soạn và nhắc chuyện cũ: Đọc bài báo viết về di tích Dinh Độc Lập tôi không ngủ được,
suốt đêm trằn trọc nghĩ tới những người bị giết oan, tới một số bạn bè mất xác vì cặp ngà voi. Sau 32
năm dường như chả ai để ý về gốc gác dính máu của chúng chăng? Song dù thế nào đi nữa, ông
Vinh nói, nó vẫn thuộc “loại tài vật đặc biệt do chính tay tôi đưa vào dinh với một lai lịch đầy những
oan hồn”.