Chiết xuất và phân lập saponin
MỤC LỤC
Trang
Đặt vấn đề....................................................................................................2
Phần I. Tồng quan......................................................................................3
1. Tổng quan về thực vật học...............................................................3
2. Thành phần hóa học.........................................................................7
3. Tác dụng của tam thất......................................................................9
Phần II. Thực nghiệm...............................................................................15
1. Chiết xuất nhóm saponin toàn phần..............................................15
1.1 Nguyên liệu và hóa chất..........................................................15
1.2 Phương pháp chiết..................................................................15
1.3 Kết quả chiết...........................................................................17
2. Phân lập các hợp chất thuộc nhóm saponin..................................18
2.1 Phân lập bằng HPLC..............................................................18
2.2 Phân lập 20(S) protopanaxatriol và 20(S) protopanaxadiol
bằng nhựa có lổ xốp lớn................................................................23
Phần III. Kết luận và nhận định..............................................................35
Tài liệu tham khảo....................................................................................36
Trang 1
Chiết xuất và phân lập saponin
ĐẶT VẤN ĐỀ
Saponin là một hợp chất phổ biến trong tự nhiên, gặp rộng rãi trong các loài thực
vật và trong một số ít các loài động vật. Saponin có tác dụng sinh học khá rộng
với nhiều tính năng trị liệu tốt như tác dụng chống nấm, kháng khuẩn, tác dụng
chống viêm…trong đó các saponin có khung dammaran đóng một vai trò rất
quan trọng đặc biệt là các ginsenosid trong các loài dược liệu quý thuộc họ Nhân
sâm (Araliaceae).
Bên cạnh Nhân sâm, một dược liệu quý đã được mọi người biết đến với tác dụng
bổ, tăng lực… thì Tam thất cũng là một dược liệu có thành phần tương tự và giá
trị của nó đã được chứng minh cả về mặt tác dụng sinh học và giá trị kinh tế. Do
vậy nhóm đã chọn dược liệu Tam thất để tìm hiểu rõ hơn về các phương pháp
chiết xuất cũng như phân lập các saponin từ cây dược liệu quý này.
Nhóm thực hiện
Trang 2
Chiết xuất và phân lập saponin
PHẦN I: TỔNG QUAN
1. Tổng quan về thực vật học: [1] , [2], [3], [4], [5]
1.1. Tên khoa học:
Tên thuốc: Radix Notoginsing.
Tên khoa học: Panax notoginseng (Burk.)
Họ: Nhân sâm (Araliaceae)
Theo y học cổ truyền:
- Gọi là nhân sâm tam thất, sâm tam thất hay kim bất hoán. Có tên khoa
học cùng họ sâm Panax Pseudo - Ginseng Wall (Panax repens Maxim).
- Có nhiều cách giải thích tam thất: theo Bản thảo cương mục gọi "tam
thất" vì cây có 3 lá bên trái, 4 lá bên phải. Có tài liệu lại nói tam = ba, tức
từ gieo trồng đến ra hoa là 3 năm; thất = bảy, tức từ gieo trồng đến thu
hoạch rễ bán được mất 7 năm. Lại có thuyết cho rằng vì lá tam thất có từ 3
đến 7 lá chét.
1.2. Phân bố, trồng trọt và thu hái
Tam thất được trồng tại Trung Quốc.
Nơi sản xuất chính cây tam thất là huyện
Văn Sơn, Nghiên Sơn, Tây Trù, Mã
Quan, Phú Ninh, Quảng Nam tỉnh Vân
Nam; vùng Điền Dương trong chuyên
khu Bạch Sắc, các huyện Tĩnh Tây, Đức
Bảo, Lục Biên (khu tự trị dân tộc Choang
tỉnh Quảng Tây). Ngoài ra còn được
trồng tại các tỉnh Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây.
Cây tam thất đã được di thực trồng ở nước ta vào những năm 1960 - 1970
tại các vùng núi cao trên 1.200 m thuộc huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ,
Trang 3
Chiết xuất và phân lập saponin
Hoàng Su Phì (Hà Giang), Mường Khương, Bắc Hà, Xi Ma Kai, Sapa (Lào Cai)
và các tỉnh Cao Bằng, Lai Châu.
Từ năm 1996 đến nay đang được nghiên cứu trồng tại thành phố Đà Lạt. So
sánh với nhiệt độ, độ ẩm, thời tiết, độ cao của vùng trồng tam thất tại tỉnh Vân
Nam (Trung Quốc), khí hậu thành phố Đà Lạt tương tự giống nhau. Tuy nhiên,
cây tam thất lại ưa thời tiết ấm áp, sợ mưa nhiều, sợ lạnh, sợ nóng, thường mọc
trong râm, ẩm. Người ta đã dùng giống tam thất từ Trung Quốc đem trồng tại Đà
Lạt trong giàn che phù hợp. Người ta chọn hạt giống tốt ở những cây đã mọc 3-4
năm, gieo hạt tháng 10-11, tháng 2-3 cây mọc, nhưng phải chờ 1 năm sau, vào
tháng 1-2 mới bứng cây con đi trồng chính thức. Sau 4-5 năm đến 7 năm thì mới
thu hoạch được rễ củ có phẩm chất tốt.
1.3. Mô tả
Tam thất là cây thân nhỏ, sống lâu năm. Cây cao khoảng 30 - 60 cm, thân
mọc đứng, vỏ cây không có lông, có rãnh dọc, lá mọc vòng 3 - 4 lá một. Lá kép
kiểu bàn tay xòe. Cuống lá dài 3 - 6 cm, mỗi cuống lá mang từ 3 đến 7 lá chét
hình mác dài. Các gân lá mọc nhiều lông cứng, màu trắng, mặt lá màu xanh sẫm,
mặt dưới màu nhạt hơn, mép lá có răng cưa nhỏ. Cây mọc một năm chỉ ra một lá
kép, cây 2 tuổi trở lên thì có 2 - 6 lá kép mọc vòng xung quanh ngọn cây.
Trang 4
Chiết xuất và phân lập saponin
Cây có hoa khoảng tháng 6 tháng 7 dương lịch. Hoa tự hình tán mọc đầu
ngọn cây, gồm nhiều hoa đơn. Cuống hoa trơn bóng không có lông. Hoa lưỡng
tính cùng lẫn với hoa đơn tính, có 5 cánh màu xanh, phần lớn là 2 tâm bì. Quả
chín vào khoảng tháng 10, tháng 11 dương lịch. Quả mọng lúc chín màu đỏ. Mỗi
quả có từ 1 - 3 hạt hình cầu, vỏ trắng. Cây có một rễ chính phình thành củ và có
những rễ phụ. Trên mặt củ có nhiều vết sẹo do thân củ để lại sau mỗi mùa đông.
Cây chỉ có một thân mang một chùm lá cố định, sống qua suốt năm và từ tháng
12 đến tháng 1 tàn lụi, sau đó cây lại mọc ra thân mới. Cây tam thất trồng tại
thành phố Đà Lạt năm thứ 2 có hoa nhưng hạt lép.
1.4. Bộ phận dùng: rể củ (Radix Notoginsing)
Tam thất trồng từ 3 đến 7 năm mới thu hoạch rễ củ để làm thuốc. Đào rễ củ
về, rửa sạch đất cát, cắt tỉa rễ con, phơi hay sấy đến gần khô, lăn xoa nhiều lần
cho khô. Rễ củ hình trụ hoặc khối, hình thù thay đổi, dài khoảng 1,5 - 4 cm,
đường kính 1 - 2 cm. Mặt ngoài củ màu vàng xám nhạt, trên mặt có những nét
nhăn nhỏ theo chiều dọc.
Trang 5
Chiết xuất và phân lập saponin
Khi chưa chế biến có lớp vỏ cứng bên ngoài, khó bẻ và khó cắt. Có thể tách
riêng khỏi phần lõi. Củ có mùi thơm nhẹ đặc trưng của tam thất. Rễ củ trồng lâu
năm, củ càng to, nặng giá trị càng cao.
Căn cứ vào trọng lượng củ để phân loại khi thu mua:
- Loại 1: 105-130 củ nặng 1 kg;
- Loại 2: 160-220 củ nặng 1 kg;
- Loại 3: 240-260 củ nặng 1 kg.
Củ Tam thất mọc hoang ở rừng núi (loại to 85 củ = 1kg, nhỏ cũng được 102
củ = 1kg), cứng nặng đen, thịt xanh xám, chỗ cắt mịn thì tốt, còn thịt trắng vàng
là kém, thứ Tam thất gây trồng thì bé hơn, thứ da nhẵn, ít đắng thì kém phẩm
chất. Không nhầm với củ Nga truật (Curcuma zedoaria Roscoe Họ Gừng)
thường làm Tam thất giả và cũng đừng nhầm với Thổ tam thất (Gynura sgetum
(Lour) Merr, Họ Cúc), củ to hơn, da ngoài vàng xám, ít đắng. Có người nói lấy
bột Tam thất cho vào máu vừa mới đặc mà máu tan ra thì đúng là Tam thất.
1.5. Những cây mang danh tam thất
Ngoài cây tam thất (Panax pseudoginseng Wall) kể trên còn có 2 loại tam thất
mọc hoang:
- Vũ diệp tam thất còn gọi là tam thất hoang có tên khoa học Panax bipinna
tifidus Seem có rễ củ nhiều đốt.
- Cây tam thất mọc hoang ở vùng Hà Giang, Lao Kai có tên khoa học Panax
pseudoginseng Nees.
Hai cây này công dụng như cây tam thất nhưng rễ củ dài nhiều đốt.
Do tam thất có nhiều tác dụng tốt nên trên thực tế, người ta đã dùng nhiều vị
Trang 6
Chiết xuất và phân lập saponin
thuốc "giả danh" tam thất. Do vậy, khi sử dụng vị thuốc quý này, cần biết những
vị thuốc thường được dùng dưới tên gọi là tam thất, song không có những tác
dụng như vị tam thất đã giới thiệu. Cần phân biệt một số cây có tên là "tam thất"
hoặc các cây lấy củ giả làm tam thất để bán ngoài thị trường:
- Cây hổ trượng (cốt khí củ, điền thất nam) có tên khoa học là Polygonum
cuspidatum Sieb et Zucc, họ Polygonaceae. Rễ củ cây này dài ngắn không đều,
mặt ngoài màu nâu vàng, mùi không rõ vị hơi đắng, dùng chữa phong thấp đau
nhức xương, viêm gan, mhiễm trùng đường tiểu tiện.
- Cây thổ tam thất có tên khoa học là Gynura segetum (L.) Merr. hoặc Gynura
pinnatifida thuộc họ Cúc (Compositae), lá và rễ dùng làm thuốc cầm máu, chữa
rắn cắn.
- Tam thất gừng (tam thất nam, khương tam thất) có tên khoa học là Staplianthus
thorlii Gagnep. thuộc họ gừng Zingiberaceae. Lá mọc thẳng từ thân rễ, phiến lá
nguyên thân dài, hình mác hẹp đầu nhọn màu nâu tím. Củ rễ hình tròn thuôn một
đầu hoặc hình trứng nhẵn, mặt ngoài màu vàng nhạt, thịt màu trắng ngà, vị cay
nóng. Rễ tam thất gừng dùng chữa nôn mửa, kinh nguyệt không đều, đau bụng
kinh. Ở mỗi gốc nhổ lên có rất nhiều củ nhỏ, có hình tròn dẹt. Trên thị trường
đôi khi người ta đánh bóng vỏ rễ bằng một lớp màu đen, khi nhấm có vị đắng,
mùi nghệ. Nhiều người đã mua nhầm.
- Cây ngải tím (nghệ đen, nga truật) có tên khoa học Curcuma zedoaria Rose họ
Zingiberaceae. Củ khô rất cứng, vỏ ngoài màu nâu, có mùi thơm đặc biệt củ hình
con quay (người ta hay làm giả tam thất bắc để bán). Củ này dùng chữa ứ huyết
bế kinh, đau bụng vùng dưới .
1.6. Chú ý khi chọn tam thất
Hiện nay một số người lợi dụng thị hiếu của người mua cho rằng tam thất
phải có màu đen bóng, cho nên đã dùng bột chì (còn gọi là phấn chì) rắc vào tam
thất, rồi vò làm cho tam thất có màu đen và bóng. Điều này rất nguy hiểm, vì chì
là một loại nguyên tố có hại cho sức khỏe, nếu nhiễm độc chì có thể gây viêm
ruột, hỏng răng (răng đen, xỉn, dễ vỡ, gãy) và nguy hiểm nhất là viêm thận (cấp
Trang 7
Chiết xuất và phân lập saponin
hoặc mãn). Vì vậy khi mua tam thất nếu thấy có màu đen bóng, sờ tay vào ta
thấy có một chất bóng, mịn dính vào tay, đấy là bột chì thì tuyệt đối không mua
và không dùng. Tốt nhất chỉ nên mua loại tam thất có màu xám.
2. Thành phần hóa học [6]
Thành phần hóa học chính của tam thất là các saponin dammaran có phần
aglycon là 20(S) protopanaxatriol và 20(S) protopanaxadiol.
Trang 8
Chiết xuất và phân lập saponin
Nhóm Dammaran có phần aglycon gồm 4 vòng và một mạch nhánh. Khi tác
dụng bởi acid thì mạch nhánh đóng vòng tạo thành vòng tetrahydropyran. Phân
loại của Dammaran:
Trang 9
Chiết xuất và phân lập saponin
Saponin
Saponin Triterpen
(30C)
Triterpen
5 vòng:
Oleanan
Ursan
Lupan
Hopan
Saponin 4
vòng:
Dammaran
Cucurbitan
Lanostan
Saponin Steroid
(27C)
Spirostan
Furostan
Glyco-alkaloid:
Spirosolan
Solanidan
Aminofurostan
Ngoài ra trong tam thất còn có một số thành phần khác như: acid oleanolic,
đường khử, các acid amin như phenylalanin, leucin, isoleucin, valin, prolin,
histidin, lysin, cystein, các chất vô cơ như Fe, Ca.
3. Tác dụng của tam thất
3.1 Theo y học hiện đại:
Tam thất có tác dụng tăng lực rất tốt, tác dụng này giống với tác dụng của
nhân sâm; rút ngắn thời gian đông máu; tiêu máu ứ và tăng lưu lượng máu ở
động mạch vành của động vật thí nghiệm. Làm tăng sức co bóp cơ tim ở liều
thấp; tác dụng kích dục, đối với chức năng nội tiết sinh dục nữ, thể hiện ở các
hoạt tính oestrogen và hướng sinh dục; giãn mạch ngoại vi và không ảnh hưởng
đến huyết áp và hệ thần kinh trung ương; điều hoà miễn dịch; kích thích tâm
thần, chống trầm uất. Năm 1937, hai tác giả Chu Nhiệm Hoàng và Triệu Thừa
Cổ (Trung Quốc) có nhận xét thấy tính chất các Saponin trong tam thất không
giống như Saponin thường: rất ít độc với loài cá. Với dung dịch tam thất 1/1000
hoặc 1/500, thả cá vàng vào dung dịch sau 24 giờ vẫn không trúng độc. Tiêm
Trang 10
Chiết xuất và phân lập saponin
vào chó (được đánh mê bằng ête) 1-20mg arasapomin A hoặc B không thay đổi
rõ rệt về huyết áp, với tim và hô hấp. Đối với khúc ruột và tử cung cô lập của thỏ
và chuột bạch cũng không thay đổi.
3.2 Theo y học cổ truyền:
Trong Đông y, tam thất được xếp vào loại đầu vị của nhóm chỉ huyết (cầm
máu). Khi nhấm có vị đắng nhẹ, hơi ngọt và để lại dư vị đặc trưng của nhân sâm.
Để dễ phân biệt, tiền nhân có câu nói về vị của tam thất: "Tiền khổ, hậu cam,
hậu cam cam". Nghĩa là khi nhấm, lúc đầu thấy vị đắng, sau thấy ngọt và càng
về sau càng thấy ngọt. Trên thực tế, tam thất được sử dụng rất đa dạng. Như ta
đã biết, tam thất thuộc vào dòng nhân sâm nên có tác dụng bổ, song lại có phần
khác với nhân sâm là tam thất lại theo hướng tác dụng vào phần âm huyết là
chính.
Tuy nhiên từ trước đến nay, tam thất vẫn là vị thuốc được sử dụng chính để
cầm máu, tiêu máu cục và bổ máu. Cầm máu vẫn là tác dụng được ưu tiên của
tam thất. Với 3 tác dụng trên, đối tượng được quan tâm sử dụng nhiều nhất của
tam thất vẫn là phụ nữ sau khi sinh, vì thuốc có tác dụng chữa chảy máu, máu tụ
và thiếu máu. Để tăng thêm ý nghĩa bổ, tam thất thường được sử dụng dưới dạng
tần gà. Tam thất được dùng để cầm máu khi xuất huyết bên trong như rong kinh,
băng huyết, chảy máu cam, ho ra máu, thổ huyết, trĩ xuất huyết... hoặc thiếu máu
gây hoa mắt, chóng mặt, da dẻ xanh xao... Có thể sử dụng dưới dạng uống
(thuốc hãm, bột thuốc). Với chảy máu bên ngoài như chấn thương, bị thương
chảy máu có thể dùng bột tam thất rắc vào vết thương rồi băng lại.
Cần chú ý thêm rằng, đối với trường hợp làm tiêu máu tụ, chỉ nên sử dụng
tam thất khi triệu chứng xuất huyết mới xảy ra. Ví dụ xuất huyết tiền phòng ở
mắt, dùng tam thất lúc này rất tốt. Nếu trong mạch máu hoặc trong tim đã có các
cục máu đông, không nên dùng tam thất nữa. Nếu dùng, cục máu này sẽ là trung
tâm để kết tụ, làm cho cục máu to dần lên, ảnh hưởng đến sự lưu thông của mạch
máu, đôi khi gây ra đột quỵ. Ngày nay, tam thất còn được dùng để trị các bệnh u
xơ, u cục..., cho kết quả khá tốt, tuy nhiên không phải là tất cả. Ngoài ra còn
Trang 11
Chiết xuất và phân lập saponin
dùng tam thất kết hợp với một số vị thuốc khác, như đan sâm để trị bệnh đau thắt
ngực do xơ vữa động mạch vành, hoặc lưu lượng huyết quản giảm, hoặc sau tai
biến mạch máu não...
3.3. Công dụng, chỉ định và phối hợp
- Tam thất được dùng chữa thổ huyết, nôn ra máu, đái ra máu, lỵ ra máu, băng
huyết, rong kinh, sinh xong máu hôi ra không hết, mắt đỏ sưng đau, rắn độc cắn.
- Rễ ngâm rượu trị vết thương do đâm chém, đòn ngã tổn thương.
- Tam thất có hiệu quả tăng nhanh quá trình phục hồi sức khỏe cho bệnh nhân
suy nhược; thuốc chế từ củ Tam thất dùng để hồi lại sức của những người đã trải
qua bệnh nặng, nhất là đối với phụ nữ sau khi sinh đẻ bị yếu; Tam thất còn làm
tăng nội tiết sinh dục, trị vô sinh. Liều dùng 4-8g dạng bột, sắc hay cao lỏng,
dùng ngoài lấy củ tươi giã đắp hoặc lấy bột rắc.
- Trong thời gian gần đây, Tam thất cũng được dùng như Nhân sâm điều trị ung
thư cũng có kết quả.
- Tài liệu cổ có ghi: tam thất vị ngọt, hơi đắng, tính ôn, vào 2 kinh can và vị, có
tác dụng hành ứ; cầm máu, tiêu thũng, dùng trị thổ huyết máu cam, lî ra máu,
ung thũng, bị chấn thương có máu bầm, sản phụ sinh xong máu hôi không sạch.
3.4. Bào chế, liều lượng và cách dùng
Bào chế
- Theo Trung Y: Mùa nắng hoặc mùa đông, đào lấy củ đem về rửa sạch, phơi
khô khi dùng thái lát, tán bột.
- Theo kinh nghiệm Việt Nam: Có thể dùng tươi, rửa sạch, giã đắp lên vết
thương. Rửa sạch, phơi khô, khi dùng tán bột hoặc mài với nước mà uống,
không dùng sắc và không sao tẩm gì. Rửa kỹ bằng bàn chải, để ráo, ủ rượu cho
mềm, bào phiến mỏng, sấy nhẹ cho khô đựng trong lọ kín, khi dùng hãm riêng
rồi hoà vào chén thuốc đã sắctới cho uống. Có người rửa kỹ để ráo, ủ rượu 3 giờ
cho mềm, thái mỏng sao qua (vi sao), tán bột để dùng.
- Bảo quản: cần tránh mọt, sao chế rồi đậy kín nên dùng ngay.
Liều lượng
Trang 12
Chiết xuất và phân lập saponin
Theo Dược điển Việt Nam, liều lượng uống từ 4 đến 5g mỗi ngày; theo tài liệu
nước ngoài lại ghi uống từ 6 - 10 g mỗi ngày. Một số trường hợp bệnh nhân ung
thư dùng từ 10 - 20 g mỗi ngày chia làm 4 đến 5 lần uống. Tam thất dùng dưới
dạng thuốc sắc hoặc dạng bột, dùng ngoài có tác dụng cầm máu tại chỗ.
Cách dùng
- Người ta dùng tam thất để chữa ung thư bằng cách lấy bột sống uống bằng thìa
nhỏ chiêu với nước lọc nguội hoặc dùng dạng thái lát ngậm nhai rồi nuốt. Trên
thực tế một số người nhai tam thất sống đã bị rộp niêm mạc miệng, vì vậy có thể
dùng bột hoặc thái lát tam thất hãm với nước sôi uống cả nước nhai cả bã vừa
đơn giản giữ được hương vị, hoạt chất dễ bay hơi không mất đi, vừa có tác dụng
chữa bệnh tốt.
- Làm thuốc bổ dưỡng (cho phụ nữ sau sinh, người mới ốm dậy, người già yếu,
phù dinh dưỡng...) bằng cách: củ tam thất ngâm với nước nóng, rửa sạch, mỗi
lần dùng khoảng 10-20g, cho vào trong mề gà, bỏ lại vào trong con gà (thường
là gà đen, tức gà ác), hầm cùng với hạt sen. Cách một vài ngày ăn một lần, sức
khỏe sẽ nhanh hồi phục.
- Đối với bột tam thất: củ tam thất rửa sạch, phơi và sấy thật khô, tán thành bột
mịn, cất trong lọ, mỗi ngày dùng từ 20-40g. Người bị các khối u, nên dùng bột
tam thất 20g/ngày, hằng ngày trong vòng 2-3 tháng.
- Người bị chấn thương nếu có tam thất tươi thì giã nát, gói vào miếng vải mỏng
băng vào vùng bị chấn thương, các vết bầm tím sẽ tan đi rất nhanh và dịu đau.
Nếu không có củ tươi thì dùng tam thất khô giã nát hay bột tam thất cũng được,
trong quá trình dưỡng thương nên uống bột tam thất. Để tăng tác dụng có thể
trộn bột tam thất với cồn hay rượu mạnh rồi băng vào vùng đau càng tốt.
Tuy tam thất có tác dụng điều trị nhiều bệnh nhưng không nên lạm dụng đối với
người có sức khỏe bình thường.
Kiêng kỵ: người huyết hư, không có ứ huyết thì không dùng.
Ghi chú: hầm Tam thất với gà ác cho ăn thì rất bổ.
3.5. Các bài thuốc dân gian của Tam thất
Trang 13
Chiết xuất và phân lập saponin
Còn được dùng phổ thông trong nhân dân thì tam thất là 1 vị thuốc cầm máu,
hữu dụng trong các trường hợp bị chảy máu, bị chấn thương do nhiều nguyên
nhân, ứ huyết, sưng bầm, đau nhức.
- Liều dùng: Độc vị, ngày từ 5 - 10g tùy nặng nhẹ với dạng thuốc sắc, hoặc
thuốc bột loại tốt. Thầy thuốc coi tam thất là vị thuốc vừa trị bệnh đồng thời
cũng là vị thuốc bổ thay nhân sâm.
- Trong dân gian có bài Thập bổn thang gia giảm có dùng tam thất chữa bệnh
băng huyết: tam thất 1g, gia cỏ mực 5g, nhỏ chảo gang 1g, muồng 1g. Thuốc sắc
hoặc chế thành bột uống.
- Trị ngoài da: dùng củ tam thất loại tốt mài ra nước keo vàng vàng, thoa hoặc
đắp chỗ sưng đau nhức vùng da mặt, khi lành sẽ không bị nám sẹo.
- Liệt dương + di tinh: Cây xộp cành và lá phơi khô 100g + đậu đen 50g +
đường vừa đủ cho sau 10 ngày + rượu 250ml. Ngâm 10 ngày thành rượu thuốc.
Uống 10-30ml, 2-3 lần mỗi ngày.
4. Các thông tin mới về Tam thất
Theo tài liệu nước ngoài, tam thất có tác dụng giúp lưu thông tuần hoàn máu,
giảm lượng Cholesterol trong máu, hạ đường huyết, kích thích hệ miễn dịch, ức
chế vi khuẩn và siêu vi khuẩn, chống viêm tấy giảm đau... được dùng trong các
trường hợp huyết áp cao, viêm động mạch vành, đau nhói vùng ngực, đái tháo
đường, các chấn thương sưng tấy đau nhức, viêm khớp xương đau loét dạ dày tá
tràng, trước và sau phẫu thuật để chống nhiễm khuẩn và chóng lành vết thương,
chữa những người kém trí nhớ, ăn uống kém, ra mồ hôi trộm, lao động quá sức.
Gần đây, tam thất được dùng trong một số trường hợp ung thư (máu, phổi, vòm
họng, tiền liệt tuyến, tử cung, vú) với những kết quả rất đáng khích lệ. Một số
người bị huyết áp thấp do thiếu máu nặng cũng dùng tam thất được.
Trang 14
Chiết xuất và phân lập saponin
PHẦN II: THỰC NGHIỆM
1. Chiết xuất nhóm Saponin toàn phần [7]
1.1. Nguyên liệu và hóa chất
- P.notoginseng được thu hái từ Vân Nam, Trung Quốc. Nguồn gốc thực vật học
được xác nhận bởi viện Khoa học Y khoa Trung Quốc, Đại học Ma Cau, Trung
Quốc.
- Ginsenoside Rb2, Rb3, Rc, Rd, Re và Rf được mua từ công ty Chromadex
(Santa Anna, Mĩ).
- Ginsenoside Rb1 và Rg1 được cung cấp bởi viện kiểm nghiệm Dược phẩm và
Sinh phẩm quốc gia Trung Quốc.
- Notoginsenoside R1 được cung cấp bởi viện Thực vật học Côn Minh, Trung
Quốc.
- Methanol, Acetonitrile cung cấp từ Merk.
1.2. Phương pháp chiết
1.2.1. Chiết áp suất lỏng PLE
Quá trình chiết xuất với dung môi ở trạng thái nhiệt độ và áp suất rất cao nên
quá trình thuận lợi cho quá trình xâm nhập, hòa tan mẫu chiết xuất.
PLE được thực
hiện trên hệ
thống Dionex
ASE
(USA)
200
trong
điều kiện tối
ưu.
Trang 15
Chiết xuất và phân lập saponin
-
0.5g bột dược liệu khô cho vào ngăn chiết
11 ml.
-
Kích thước mẫu: 0.3-0,45 mm.
-
Dung môi: Methanol.
-
Nhiệt độ: 150oC
-
Áp suất: 6.895 x 103 Mpa.
-
Thời gian: 15 phút.
1.2.2. Chiết xuất với sự hổ trợ của sóng siêu âm
Cho 0.5g bột khô vào ống ly tâm 50ml có chứa 30ml methanol và lắc trong
vòng 30 giây trước khi đánh siêu âm khoảng 2 giờ ở nhiệt độ 25 oC trong
buồng siêu âm. Sau khi ly tâm 2000 rpm trong khoảng 5 phút, dịch chiết phía
trên được chuyển vào bình 50ml, bổ sung methanol vừa đủ.
1.2.3. Chiết xuất bằng Soxhlet
0.5g dược liệu được chiết soxhlet với 60ml methanol trong 6h. Sau đó làm
mát, loại bớt methanol và cho phần còn lại vào bình 50ml, bổ sung methanol
vừa đủ.
1.2.4. Ngâm lạnh
0.5g dược liệu được cho vào ống ly tâm 50ml có chứa 30 ml methhanol. Đậy
nắp và để ở nhiệt độ phòng trong 48h. Sau đó đem quay ly tâm với tốc độ
2000 rpm trong khoảng 5 phút.
Trang 16
Chiết xuất và phân lập saponin
1.3. Kết quả chiết xuất
Kết quả so sánh giữa các phương pháp chiết xuất được thể hiện trong bảng 3
Table3. The content and repeatability data of investigated saponins from Panax
notoginseng using different sample preparation methods
Bảng số liệu cho thấy phương pháp PLE rõ ràng có nhiều thuận lợi hơn các
phương pháp khác như chiết Soxhlex, ngâm lạnh và chiết siêu âm, hiệu quả chiết
xuất cao, độ lặp lại và khả năng tự dộng hoá cao, thời gian chiết ngắn, ít tiêu tốn
dung môi.
Trang 17
Chiết xuất và phân lập saponin
2. Phân lập các hợp chất thuộc nhóm Saponin
2.1. Phân lập bằng HPLC [7]
- Thực hiện trên hệ thống sắc kí lỏng Agilent 1100 (Palo Alto, CA, USA).
- Một cột Zorbax ODS C18 (4.6mm x 250mm, 5micromet)
- Một cột bảo vệ Zorbax ODS C18 (4.6mm x 12.5mm, 5micromet).
- Pha động : nước (dung môi A), acetonitrile (dung môi B)
+ 0-30 phút: 18-19% B
+ 30-35 phút: 19-35% B.
+ 35-60 phút: 35-55% B.
- Tốc độ dòng: 1.5 ml/phút.
- Nhiệt độ: 40oC
- Bước sóng phát hiện: 203 nm.
2.1.1. Điều kiện HPLC – ESI – MS.
- Các điều kiện về cột tương tự điều kiện HPLC trên.
- Nhiệt độ cột: 25oC.
- Thể tích tiêm mẫu: 10 microlit.
- Các điều kiện MS được điều chỉnh sao cho tín hiệu thu được là lớn nhất.
2.1.2. Đánh giá điều kiện HPLC
Các nghiên cứu trước đây đều cho thấy ginsenoside Rg1 và Re không thể
tách ra tốt. Bằng cách dùng nước – acetonitril với chương trình rửa giải như
trên các peak của ginsenoside Rg1 và Re đã được nới rộng ra. Tuy nhiên,
ginsenoside Rb3 không thể tách ra khỏi chất đồng phân của nó là Rb2. Vì thế
cả Rb2 và Rb3 chỉ được tính như Rb2.
Trang 18
Chiết xuất và phân lập saponin
2.1.3 Xác định các hợp chất trong P.notoginseng.
Sắc đồ của 9 saponin cần phân tích và dịch chiết từ P.notoginseng
Fig. 3. Total ion chromatograms (TIC) of (A) nine investigated saponins and (B)
PLE extract of Panax notoginseng. 1, Notoginsenoside R1, 2–9, ginsenoside Rg1,
Re, Rf, Rb1, Rc, Rb2, Rb3 and Rd, repectively.
Trang 19
Chiết xuất và phân lập saponin
Các saponin cần phân tích được so sánh thời gian lưu và khối phổ với
chất chuẩn:
Fig. 2. HPLC profiles of (A) nine investigated saponins and (B) PLE extract of
Panax notoginseng. 1, Notoginsenoside R1, 2–9, ginsenoside Rg1, Re, Rf, Rb1, Rc,
Rb2, Rb3 and Rd, repectively
Trang 20
Chiết xuất và phân lập saponin
Note: relative abundance of ion is shown in parentheses; Xyl: Xylose; Glc: Glucose;
Rha: Rhamnose; Agl: Aglycone; Araf: Arabinose; Arap: Arabinose.
Trang 21
Chiết xuất và phân lập saponin
2.1.4. Giá trị của phương pháp
- Hệ số tương quan cao: r2 > 0.9997 cho thấy có sự tương quan tốt giữa nồng
độ của các saponin phân tích với các diện tích peak của chúng trong vùng
phân tích.
- RSD <3.1%.
Kết quả chỉ ra rằng các ginsengnosid thu được: Rg1, Re, Rf, Rb1, Rc, Rb2, Rd
và notoginsenoside R1 lần lượt là 95.62, 97.32, 96.71, 93.96, 97.81, 97.44, 95.01
và 96.32% ở lần chiết xuất đầu tiên.
Trang 22
Chiết xuất và phân lập saponin
2.2. Phân lập 20(S) protopanaxatriol và 20(S) protopanaxadiol bằng nhựa
Macroporous [8]
2.2.1. Phân tích HPLC-UV trước khi phân lập
Điều kiện sắc ký: như phần chiết xuất.
Kết quả: Quá trình phân tích được hoàn thành trong 60 phút. Sắc ký đồ chuẩn
và của PLE được thể hiện trong hình sau:
A Sắc ký đồ của hỗn hợp các chất chuẩn
B Sắc ký đồ của dịch chiết
Trang 23
Chiết xuất và phân lập saponin
Theo profile của dịch chiết P. notoginseng, notoginsenoside R1 (1), ginsenoside
Rg1( 2 ), Re( 3 ) của PTS và RB1 ginsenoside (5), Rd (10) của PDS là thành
phần chính trong P. notginseng. Do đó, năm saponins này đã được sử dụng như
là tiêu chí định lượng trong nghiên cứu của quá trình phân tách này.
Tổng hàm lượng R1 notoginsenoside, Rg1 ginsenoside và Re đã được tính toán
như là của PTS. Trong khi đó, khối lượng của RB1 ginsenoside và Rd được tính
cho PDS. Tính tuyến tính, hồi quy, và phạm vi tuyến tính của năm saponins đã
nói ở trên được thực hiện với phương pháp HPLC - UV. Hệ số tương quan (R 2>
0.9989) giá trị cho biết tính tuyến tính tốt giữa nồng độ của hợp chất nghiên cứu
và các diện tích peak B ng 2. Dựa vào phương pháp đã thiết lập, độ tinh khiết
của PTS và PDS trong dịch chiết PLE đã được tính toán tương ứng là 22,5% và
16,4%.
2.2.2. Khả năng hấp phụ của các loại nhựa
Chuẩn bị: Nhựa Macroporous được thử nghiệm bao gồm: D-101, DA-201, DM301 và DS-401. Tất cả nhựa đã được liên kết với polystyrene. Độ ẩm của nhựa:
từng loại nhựa có lổ xốp lớn được cân và đặt trong kính đồng hồ, sau đó làm khô
trong nồi (Binder GmbH Bergestr, Đức) tại 105 oC cho đến khi khối lượng
Trang 24
Chiết xuất và phân lập saponin
không đổi và lặp lại 3 lần. Tính chất vật lý và hóa học của các loại nhựa này
được liệt kê trong b ng sau:
Quy trình kiểm tra pha tĩnh hấp phụ và phản hấp phụ: Chất hấp phụ khô
(0,5g), được đặt vào trong lọ thủy tinh có nắp và 15 ml dịch chiết được mô tả ở
trên đã được thêm vào. Các lọ đã được đậy kín và lắc ở 25oC trong 12h với thiết
bị lắc (Memmert GmbH + Co KG, Đức), các chỉ số rung đã được giữ ở mức độ
7. Các dịch nổi trên mặt sau khi đã hấp phụ được phân tích với HPLC. Sau khi
đạt đến trạng thái cân bằng hấp phụ, các hạt nhựa được rửa với 15 ml nước khử
ion bốn lần và phản hấp phụ với 15 ml 80% (v / v) dung dịch nước : ethanol. Các
lọ đã được rung trong 12 h ở 25oC và dung dịch phản hấp phụ cũng đã được
phân tích với HPLC.
Kết quả: Các đặc tính hấp phụ phản hấp phụ của các nhựa khác nhau đã được
định lượng với các phương trình sau đây:
Q e = (C0 − Ce) Vi / W (1)
Qe (mg/g nhựa) là khả năng hấp phụ tại trạng thái cân bằng.
E và D (%) là những tỉ lệ hấp phụ và giải hấp tương ứng.
Co và Ce (mg/ml) là nồng độ ban đầu và cân bằng của dung dịch phân tích.
Cd (mg/ml) là nồng độ của dung dịch giải hấp.
Vi và Vd (ml) thể tích cho vào ban đầu và sau khi giải hấp.
W (g) là trọng lượng của nhựa khô.
Trang 25