Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Tiền tệ việt nam qua các thời kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.21 MB, 99 trang )

Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

Mục Lục

LỜI MỞ ĐẦU

Trải qua hơn 2000 năm lịch sử với biết bao thăng trầm và biến động. Lịch sử
hình thành của tiền tệ Việt Nam chính là một quá khứ tự hào xứng đáng với lịch sử
dân tộc ta. Người Việt Nam đã dùng rất nhiều loại tiền tệ . Tiền Việt Nam được
phát hành lần đầu vào giữa thế kỷ 10, thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt dưới sự trị vì
của Đinh Bộ Lĩnh. Thời phong kiến, gần như mỗi đời vua lại cho phát hành loại
tiền mới. Nhiều khi, mỗi lần thay đổi niên hiệu, vua lại cho phát hành loại tiền mới.
1


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14
Suốt một thời gian dài, tiền kim loại là thứ tiền duy nhất và mô phỏng theo tiền kim
loại của các triều đình Trung Quốc. Tiền giấy xuất hiện ở Việt Nam khá sớm so với
thế giới, vào năm 1396[1]
Vậy thì chúng trông như thế nào? Có hình dạng ra sao?
Dưới đây là chi tiết lịch sử hình thành tiền tệ Việt Nam

2


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

I. Thời kỳ Bắc Thuộc (179- 938)
Thời Bắc thuộc, tiền đồng Trung quốc đã được sử dụng ở Việt Nam như tiền
Hán nguyên thông bảo của nhà Hán, đồng Khai nguyên thông bảo của nhà Đường.
Bên cạnh đó, những đĩnh vàng, đĩnh bạc của Trung quốc cũng được lưu hành



Đồng Hán Nguyên Thông Bảo

Đồng Khai Nguyên Thông Bảo
II. Thời kỳ phong kiến độc lập (938- 1884)
Mỗi triều đại nước ta thường cho đúc một loại tiền riêng như tiền đồng, tiền
kẽm, tiền sắt, tiền giấy cụ thể như sau
1. Nhà Đinh
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân xưng hoàng đế. Từ năm
970, Vua đặt niên hiệu Thái Bình, Việt Nam mới có đồng tiền đúc bằng đồng đầu
tiên mang niên hiệu của vị hoàng đế nước mình là tiền Thái Bình hưng bảo. Đây là
tiền duy nhất được phát hành trong thời nhà Đinh, vì cho dù sau này có sự thay đổi
ngôi vua trong họ Đinh nhưng không có sự thay đổi niên hiệu

3


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

2. Nhà Tiền Lê
Nhà Tiền Lê khởi đầu từ Lê Hoàn.
Khi cai trị, Lê Hoàn đã dùng ba niên hiệu,
song chỉ đúc duy nhất tiền Thiên Phúc trấn
bảo, lấy tên theo niên hiệu đầu tiên. Các
vua tiền Lê sau không cho đúc tiền.
Thiên Phúc trấn bảo có ba loạt đều
có hình thù giống tiền của nhà Đinh. Một
loạt mặt trước có bốn chữ Thiên Phúc trấn
bảo và mặt sau có chữ Lê (họ của vua), một loạt mặt trước giống như loạt trên
nhưng mặt sau lại không có chữ gì, và một loạt nữa mặt sau có chữ Lê nhưng mặt

trước lại không có chữ gì. Theo Đỗ Văn Ninh, sở dĩ có sự khác nhau như vậy có thể
là vì trong quá trình đúc tiền, xưởng đúc đã ráp nhầm hai mặt của các khuôn đúc.
3. Nhà Lý
• Đồng Thuận Thiên Đại Bảo(1010-1028)
Đồng tiền đầu tiên của nhà Lý, được xác định là “Thuận Thiên đại bảo” Đây
là tiền kim loại được giới nghiên cứu tiền cổ ở Việt Nam cho là của Lý Thái Tổ vì
ông vua này có một niên hiệu là Thuận Thiên

4


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

• Đồng Càn Phù Nguyên Bảo (1039- 1041) thời vua Lý Thái Tông
Sử liệu cũ của Việt Nam và kết quả khảo cổ
đều không cho thấy có loại tiền này. Song,
Lacroix và các tác giả Lịch sử phong kiến Việt
Nam (tập I) đều cho là có và cũng do Lý Thái
Tông phát hành.
Như vậy theo một số tài liệu, Việt Nam vào
thời vua Lý Thái Tông đã đúc hai loại Minh Đạo thông bảo và Càn Phù nguyên
bảo. Song, khảo cổ học Việt Nam chưa cho thấy cả hai loại tiền này.
• Đồng Minh Đạo Thông Bảo (1042- 1043) thời vua Lý Thái Tông
Tương truyền là do Lý Thái Tông cho
phát hành. Sử liệu Lịch triều hiến chương
loại chí có ghi rằng vua Lý Thái Tông cho
đúc tiền Minh Đạo, nhưng không ghi rõ có
phải là Minh Đạo thông bảo hay không.

• Đồng Thiên Phù Nguyên Bảo (1120- 1127) thời vua Lý Nhân Tông


Được cho là do Lý Nhân Tông phát
hành vì ông có hai niên hiệu có chữ Thiên
Phù trong đó. Sử liệu cũ của Việt Nam
không nhắc đến tiền này. Nhưng khảo cổ
học cho thấy có tiền Thiên Phù thông
bảo với đường kính chừng 20 mm với mặt
trước có bốn chữ Thiên Phù nguyên bảo
đọc theo vòng tròn, mặt sau để trơn, có lỗ, không có gờ. Đỗ Văn Ninh cho rằng
kích thước đồng tiền này nhỏ hơn so với các đồng tiền thời trước là vì thời Lý Nhân
Tông trị vì có nhiều chiến tranh, nên giành được ít đồng hơn cho việc đúc tiền
• Thiên Thuận thông bảo (1128-1132) thời vua Lý Thần Tông

5


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

• Đại Định thông bảo (1140-1162) thời vua Lý Anh Tông

• Thiên Cảm thông bảo (1174-1175) thời vua Lý Anh Tông
Lacroix có nhắc đến tiền này và còn công bố hình thù đồng tiền. Ông cho rằng
đây là tiền do Lý Anh Tông phát hành vì vua này có một niên hiệu trong đó có
chữ Thiên Cảm. Tiền có gờ và mép rõ ràng. Khảo cổ học Việt Nam chưa tìm ra loại
tiền này. Các vua Trung Quốc không có ai có niên hiệu có chữ Thiên Cảm.
• Thiên Tư thông bảo (1186-1201)
Không thấy chính sử đề cập đến đồng tiền này. Lacroix đã từng công bố một
mẫu tiền mà mặt trước có bốn chữ Thiên tư thông bảo, mặt sau để trơn. Lý Cao
Tông có một niên hiệu trong đó có chữ Thiên Tư. Các vua Trung Quốc không ai có
niên hiệu có chữ này.


• Trị Bình thông bảo (1205-1210) thời vua Lý Cao Tông
• Trị Bình nguyên bảo (1205-1210) thời vua Lý Cao Tông

4. Nhà Trần
• Nguyên Phong thông bảo (1251-1258)
Khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện ra tiền kim loại Nguyên Phong. Nhưng
bên Trung Quốc cũng có loại tiền này, nên hiện chưa kết luận được thứ tìm thấy ở
Việt Nam là do nước nào đúc. Nguyên Phong là niên hiệu thứ ba của vua Trần Thái
Tông. Vào hai thời có niên hiệu trước, vua cũng cho phát hành tiền, nhưng sử liệu
không nói và khảo cổ học không cho biết đó là tiền tên gì.
6


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

• Khai Thái nguyên bảo (1324-1329)
Đỗ Văn Ninh có cho biết rằng Trần Huy Bá đã thấy tiền này ở Viện Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam năm 1960. Khai Thái là một niên hiệu của Trần Minh Tông.
Các vua Trung Quốc không có niên hiệu nào như vậy.

• Thiệu Phong thông bảo, Thiệu Phong nguyên bảo (1341-1357)
Sử liệu không ghi nhưng khảo cổ học Việt Nam lại phát hiện ra thứ tiền kim
loại này và cho là do Trần Dụ Tông phát hành. Tiền có lỗ ở giữa và có gờ và mép
không rõ. Mặt trước tiền ghi bốn chữ Thiệu Phong thông bảo. Mặt sau để trơn.
Tiền nhỏ, mỏng, đường kính 21 mm.
Khảo cổ học còn tìm ra tiền Thiệu Phong thông bảo, hình thù như Thiệu
Phong bình bảo và mặt sau cũng để trơn.
Đỗ Văn Ninh cho biết Trần Văn Bá đã thấy tiền Thiệu Phong nguyên bảo
đường kính tới 40 mm và mặt sau có chữ Thập tam ở Viện Bảo tàng Lịch sử Việt

Nam vào năm 1960

Thiệu phong thông bảo

Thiệu phong nguyên

bảo
• Đại Trị thông bảo (1358-1369)

7


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14
Cũng là tiền do Trần Dụ Tông phát hành. Đại Việt sử ký toàn thư có cho biết
rằng vào năm 1360 đã đúc tiền này. Khảo cổ học cho biết tiền này có kích thước
lớn hơn tiền Thiệu Phong một chút.

5. Nhà Hồ
• Tiền giấy Thông Bảo hội sao
Năm 1396, 4 năm trước khi nhà Hồ thay thế nhà Trần làm vua Việt Nam,
tiền giấy mang tên Thông Bảo hội sao được phát hành. Lúc đó đang là niên hiệu
Quang Thái của vuaTrần Thuận Tông, nhưng việc ban bố các chủ trương chính
sách quan trọng của đất nước lại do Hồ Quý Ly nắm. Chủ trương phát hành tiền
giấy này chính là của Hồ Quý Ly. Mục đích của ông là dùng tiền giấy để thay thế
tiền kim loại, qua đó thu hồi kim loại về kho triều đình. Nhiều ý kiến thống nhất
rằng, sự ra đời tiền giấy Thông Bảo hội sao không phản ánh trình độ phát triển của
kinh tế tiền tệ ở Việt Nam đương thời.
Khảo cổ học Việt Nam chưa phát hiện ra di vật tiền giấy Thông Bảo hội sao,
nhưng Đại Việt sử ký toàn thư nhắc đến rõ ràng đến tên loại tiền này.
Tiền Thông Bảo hội sao có bảy mệnh giá khác nhau, đó là: 10 văn ( 十文

thập văn), 30 văn (三十文 tam thập văn), 1 bách (一陌 nhất bách), 2 bách (二陌
nhị bách), 3 bách (三陌 tam bách), 5 tiền (五陌 ngũ bách), 1 mân (一緡 nhất mân).
Không thấy Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại tỷ lệ giữa các đơn vị văn, bách và mân
của tiền Thông Bảo hội sao thế nào. Tiền kim loại đang lưu hành phải được đem
đến đổi lấy tiền giấy theo tỷ lệ 1 cưỡng ( 繦, chưa rõ là bao nhiêu văn) đổi lấy 1
mân 2 bách tiền giấy.
Về hình thức, không rõ kích thước, hình dáng, màu sắc ra sao. Đại Việt sử
ký toàn thư chỉ ghi sơ lược rằng tiền mệnh giá 10 văn có vẽ hình rong, mệnh giá 30
văn có vẽ hình sóng, mệnh giá 1 bách có vẽ mây, 2 bách có vẽ rùa, 3 bách có vẽ
lân, 5 bách có vẽ phượng, và 1 mân có vẽ rồng.
Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi lại rằng tiền Thông Bảo hội sao không
được nhân dân ưa dùng, chẳng qua vì luật quy định mà phải sử dụng.

8


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

• Thánh Nguyên thông bảo (1400-1401)
Thời nhà Hồ, tuy phát hành tiền giấy Thông bảo hội sao và đổi thu hồi tiền
kim loại về, song có thể Hồ Quý Ly cũng cho phát hành một lượng nhất định tiền
kim loại mang niên hiệu Thánh Nguyên (1400-1401) của mình. Khảo cổ học đã
phát hiện được ở Việt Nam nhiều đồng tiền kim loại Thánh Nguyên thông. Theo
Đỗ Văn Ninh, trong các vua Trung Quốc và Việt Nam, chỉ có Hồ Quý Ly có niên
hiệu Thánh Nguyên.
Tiền kim loại Thánh Nguyên thông bảo có hình tròn, lỗ vuông, kích thước
nhỏ (đường kính từ 19 đến 20 mm), mỏng. Mặt trước có bốn chữ Thánh Nguyên
thông bảo đọc chéo từ trên xuống và từ phải qua trái, gờ viền mép và lỗ rõ ràng.
Nhưng mặt sau lại để trơn và không có gờ và viền mép hay lỗ.
Một trong các mục đích phát hành tiền kim loại Thánh Nguyên thông bảo là

để quảng bá niên hiệu Thánh Nguyên của vua mới.

• THIỆU NGUYÊN THÔNG BẢO(1401-1407)
Khi Hồ Hán Thương lên ngôi cho đúc loại tiền Thiệu Nguyên Thông Bảo

6. Nhà Hậu Lê
• Thuận Thiên thông bảo (1428-1433), Thuận Thiên nguyên bảo
Sau khi đánh bại hoàn toàn quân Minh xâm lược, chẳng cần đợi nhà
Minh công nhận, ngày 15 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi xưng vua và lấy niên hiệu là
9


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14
Thuận Thiên; một tháng sau thì cho đúc tiền kim loại Thuận Thiên thông bảo bằng
đồng mà không tiếp tục chính sách sử dụng tiền giấy của nhà Hồ. Đó là theo Đại
Việt sử ký toàn thư. Còn theo phát hiện của khảo cổ học, thì tên tiền kim loại đó có
lẽ là Thuận Thiên nguyên bảo. Hiện các nhà nghiên cứu còn chưa có kết luận được
là sử chép sai "nguyên" thành "thông" hay Lê Lợi cho đúc hai loại nhưng hiện mới
chỉ phát hiện di chỉ loại Thuận Thiên nguyên bảo.
Thuận Thiên nguyên bảo có kích thước to hơn, dày hơn và được đánh giá là
đẹp hơn các đồng tiền kim loại của các thời trước ở Việt Nam. Đường kính tiền là
25 mm, dày dặn. Mặt trước đúc nổi bốn chữ Hán là Thuận Thiên nguyên bảo với
nét viết chân phương. Mặt sau không có chữ hay hình gì, viền mép và gờ viền lỗ rõ
ràng và đều đặn.
Thuận Thiên thông bảo có ba đơn vị đếm là đồng, tiền và quan. Đại Việt sử
ký toàn thư cho biết 1 tiền bằng 50 đồng

Thuận thiên nguyên bảo
• Thiệu Bình thông bảo (1434-1439)
Đây là tiền kim loại do Lê Thái Tông cho đúc khi lên ngôi năm 1434 và đặt

niên hiệu là Thiệu Bình (1434-1439). Về kiểu dáng, Thiệu Bình thông bảo căn bản
giống Thuận Thiên nguyên bảo. Ban đầu, 1 tiền bằng 50 đồng như theo quy định
của đời vua trước, nhưng từ năm 1439 thì định lại 1 tiền bằng 60 đồng.

• Đại Bình thông bảo(1440-1442)
Sử không nhắc đến tiền này, nhưng Lacroix công bố mẫu của nó và do
vua Việt Nam và vua Trung Quốc không còn ai đặt niên hiệu là Đại Bình nữa, nên
Đỗ Văn Ninh cho rằng đó là tiền do Lê Thái Tông cho đúc và đặt tên theo niên hiệu
thứ hai của ông, Đại Bình (1440-1442). Như vậy, dưới triều vua Lê Thái Tông của
Việt Nam đã lần lượt có hai tiền kim loại là Thiệu Bình thông bảo và Đại Bình
thông bảo.
• Thái Hòa thông bảo(1443-1453)
Đây là tiền kim loại do Lê Nhân Tông cho đúc và đặt tên theo niên hiệu Thái
Hòa (1443-1453) của mình. Kiểu dáng và kích thước tiền này giống tiền của các
10


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14
vua Lê đời trước. Tuy nhiên, Lacroix đã công bố một mẫu tiền Thái Hòa thông bảo
có kích thước nhỏ và lưng tiền không có gờ viền. Ngoài ra, ông này còn công bố
một mẫu tiền ghi là Đại Hòa thông bảo. Đỗ Văn Ninh cho rằng có thể viết là Đại
song vẫn đọc là Thái.

• Diên Ninh thông bảo(1454-1459)
Tiền kim loại bằng đồng do Lê Nhân
Tông cho đúc khi đổi niên hiệu thành Diên
Ninh. Tiền này được khảo cổ học phát hiện
nhiều. Kiểu dáng và kích thước to đẹp
giống như tiền của các đời vua Lê trước.
• Thiên Hưng thông bảo(14591460)

Tiền kim loại do Lê Nghi Dân cho đúc và đặt tên theo niên hiệu Thiên Hưng
của mình. Sử không nhắc đến việc ông vua này cho đúc tiền, song Lacroix có phát
hiện và công bố. Lê Nghi Dân ở ngôi một năm, nên Thiên Hưng thông bảo có thể
cũng chỉ được lưu hành không quá một năm.

• Quang Thuận thông bảo
Là tiền do Lê Thánh Tông cho đúc. Di chỉ tiền này được phát hiện khá
nhiều. Quang Thuận thông bảo được Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương
loại chí khen là đẹp vào loại nhất trong các tiền kim loại Việt Nam mà ông biết.
Không rõ tiền được bắt đầu phát hành từ năm nào, song niên hiệu Quang Thuận của
Lê Thánh Tông bắt đầu từ năm 1460, kết thúc vào năm 1469.

• Hồng Đức thông bảo
11


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14
Cũng là tiền do Lê Thánh Tông phát hành từ năm 1470 đến năm 1497 theo
niên hiệu thứ hai của mình.

• Cảnh Thống thông bảo(1497-1504)
Cảnh Thống là niên hiệu duy nhất của Lê Hiến Tông kéo dài khoảng 6 năm.
Sử không ghi về việc ông vua này cho đúc tiền, song khảo cổ học tìm ra nhiều di
chỉ tiền Cảnh Thống thông bảo. Về kiểu dáng thì giống tiền của các vua Lê đời
trước, song trọng lượng thì lớn hơn.

• Đoan Khánh thông bảo
Đoan Khánh thông bảo là tiền kim loại do Lê Uy Mục cho đúc. Niên hiệu
Đoan Khánh của ông vua này kéo dài từ năm 1505 đến năm 1509.


• Hồng Thuận thông bảo
Đây là tiền kim loại do Lê Tương Dực (ở ngôi từ năm 1509 đến năm 1516
có một niên hiệu duy nhất là Hồng Thuận). Kích thước và kiểu dáng như các tiền
trước đây của nhà Lê.

• Quang Thiệu thông bảo
Đây là tiền do Lê Chiêu Tông cho đúc. Ông vua này chỉ có một niên hiệu là
Quang Thiệu từ năm 1516 đến năm 1522. Hình thức cơ bản giống các tiền nhà Lê
trước đó nhưng xấu hơn, kích thước bé hơn, nhẹ hơn.
12


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

• Thống Nguyên thông bảo
Thống Nguyên thông bảo do Lê Cung Hoàng (lấy niên hiệu Thống Nguyên)
phát hành. Tiền này đẹp hơn Quang Thiệu thông bảo nhưng vẫn chưa bằng được
các tiền nhà Lê trước đó.
• Nguyên Hòa thông bảo
Đây là tiền bằng đồng mang niên hiệu Nguyên Hòa (1533-1548) của Lê
Trang Tông, vị vua đầu tiên của thời Lê Trung Hưng. Tiền này có kích thước nhỏ,
được đúc cẩn thận. Mặt trước có chữ Nguyên Hòa thông bảo đọc chéo. Mặt sau có
viền gờ mép và lỗ, song không có chữ hay hình gì. Nguyên Hòa thông bảo có nhiều
loại, trong đó có loại chỉ có hai chữ Nguyên Hòa viết theo lối chữ triện và có loại
thì lại có ba chữ Nguyên Hòa và bảo viết theo lối chữ triện.
• Vĩnh Thọ thông bảo
Vĩnh Thọ là niên hiệu của Lê Thần Tông. Tiền Vĩnh Thọ thông bảo đúc
bằng đồng, đường kính chừng 23 mm.
• Vĩnh Trị nguyên bảo, Vĩnh Trị thông bảo
Là các tiền do Lê Hy Tông phát hành (thực tế có thể là do chúa Trịnh phát

hành vì quyền hành mọi mặt trong thực tế thuộc về phủ chúa) mang niên hiệu đầu
tiên của ông. Cả hai loại đều bằng đồng, đúc cẩn thận, đường kính chừng 23 mm.
• Chính Hòa thông bảo
Tiền đặt theo niên hiệu thứ hai của Lê Hy Tông. Chữ "Chính" viết là 正, dễ
nhầm với Chính Hòa thông bảo của nhà Tống cũng thấy xuất hiện ở Việt Nam với
chữ Chính viết là 政.
• Tiền Cảnh Hưng
Tiền Cảnh Hưng có rất nhiều loại và đều bằng kim loại. Đỗ Văn Ninh đã đề
cập đến 40 loại tiền Cảnh Hưng và nhà nghiên cứu này cũng cho biết có người đã
liệt kê ra được đến 80 loại tiền Cảnh Hưng. Sở dĩ có nhiều loại như vậy là vì thời
Cảnh Hưng (niên hiệu của Lê Hiển Tông), không chỉ chính quyền trung ương mà
cả các chính quyền địa phương (ở các trấn) cũng tham gia đúc tiền, và có cả đúc
trộm. Các tiền Cảnh Hưng không chỉ có kích thước khác nhau, chất lượng kim loại
khác nhau mà cả các chữ ghi trên đó cũng khác nhau. Nguyên nhân khác nhau vừa
là do những thay đổi trong thiết kế đồng tiền, vừa là đúc sai quy cách.
13


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14
Khảo cổ học tìm ra rất nhiều di chỉ tiền Cảnh Hưng cho thấy thời này tiền
được phát hành rất nhiều. Nguyên nhân của việc phát hành nhiều như vậy hiện
chưa rõ.
Cảnh Hưng thông bảo là loại phổ biến nhất, nhưng loại này lại có nhiều loại
phụ với thiết kế khác nhau và chữ ghi trên tiền ở mặt sau cũng khác nhau.
• Chiêu Thống thông bảo
Chiêu Thống là niên hiệu duy nhất
của Lê Mẫn Đế, ông vua nhà Hậu Lê ở ngôi
3 năm. Khảo cổ học cho thấy tiền kim
loại Chiêu Thống thông bảo có nhiều loạt
khác nhau. Thêm vào đó, mỗi loạt đều được

đúc nhiều lần, mỗi lần kích thước lại khác
nhau một chút. Chiếu Thống thông bảo
được phát hành dưới thời Lê Mẫn Đế, nhưng ai phát hành thì không rõ vì có quá
nhiều loạt và nhiều kích cỡ. Lưu ý là thời Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống), lúc đầu thì có
thế lực của nhà Trịnh (chúa Trịnh Bồng), lúc sau thì có thế lực của nhà Tây Sơn,
trung ương cũng đã không kiểm soát được các địa phương.
Các loạt đều có bốn chữ Chiêu Thống thông bảo đúc nổi và được đọc chéo.
Nhưng có một loại thì chữ Thống viết là 繦, các loạt khác chữ Thống đều viết là 統.
Không rõ loạt chữ Thống viết là 繦 có phải là tiền do chính quyền đúc hay không.
Loại có chữ Thống viết là 繦 thì mặt sau để trơn, chỉ có viền gờ mép và lỗ.
Các loại khác, loạt thì mặt sau có chữ Nhất (-) phía trên lỗ vuông, loạt thì có một
nét sổ dọc trên lỗ, loạt thì có một vành trăng khuyết bên phải và một chấm tròn bên
trái lô, loại thì có hình bốn vành trăng khuyết xếp vòng tròn quanh lỗ, loại thì có
chữ Chính (正) hoặc chữ Chính và cả một chấm tròn, lại có loạt thì có một chữ Sơn
(山), loại lại có hai chữ Sơn Nam, loạt thì có một chữ Trung (中), và có cả loại có
chữ Đại (大). Theo Đỗ Văn Ninh, thì chữ Chính chỉ kinh thành, chữ Sơn chỉ Sơn
Tây, chữ Trung chỉ Trung đô phủ, chữ Đại chỉ Thanh Hóa.
7. Nhà Mạc
• Minh Đức thông bảo, Minh Đức nguyên bảo
Đây là các tiền kim loại do Mạc Thái
Tổ phát hành. Đại Việt sử ký toàn thư có nhắc
đến việc này.
Minh Đức thông bảo có hai loại. Loại
thứ nhất bằng đồng được bắt đầu đúc từ năm
1528. Mặt trước có bốn chữ Minh Đức thông

14


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

bảo đúc nổi đọc chéo. Mặt sau có hai chữ Vạn Tuệ đúc nổi. Loại này có kích thước
lớn, đường kính từ 23 đến 24,5 mm, dày dặn.
Loại thứ hai đúc bằng kẽm. Kích thước vẫn như loại trước. Mặt sau không
còn chữ vạn tuế mà thay vào đó là một vành khuyết nổi ở bên phải và một chấm
tròn ở bên trái.
Minh Đức nguyên bảo làm bằng sắt. Sách sử Việt Nam không nhắc đến tiền
này, nhưng Đại Việt sử ký toàn thư cho biết Mạc Đăng Dung có cho pha kẽm vào
khi đúc tiền rồi sau lại cho đúc tiền bằng sắt. Khảo cổ học Việt Nam không phát
hiện ra di vật, song Lacroix có công bố một mẫu vật tiền này, mặt trước có bốn chữ
Minh Đức nguyên bảo đọc vòng tròn, mặt sau không có chữ hay hình gì.
• Đại Chính thông bảo
Các sử liệu cũ của Việt Nam không đề cập đến việc Mạc Thái Tông phát
hành tiền. Tuy nhiên khảo cổ học đã phát hiện ra loại tiền kim loại bằng đồng mang
niên hiệu Đại Chính của ông. Mặt trước tiền nổi bốn chữ Đại Chính thông bảo đọc
chéo. Mặt sau để trơn. Tiền đúc không đẹp, đường kính khoảng 22 mm.
• Quảng Hòa thông bảo
Mạc Phúc Hải làm vua từ năm 1541
đến năm 1546 và chỉ có một niên hiệu là
Quảng Hòa. Sử liệu không ghi vị vua nhà
Mạc này có cho đúc tiền hay không, song
khảo cổ học phát hiện ra di vật tiền Quảng
Hòa thông bảo. Tiền này có hơn một loạt
nhưng đều đúc bằng đồng và bốn chữ Quảng
Hòa thông bảo đọc chéo ở mặt trước, mặt sau để trơn. Có loạt thì các chữ này được
viết chân phương. Có loạt thì những chữ này lại được viết theo lối chữ triện.
• Vĩnh Định thông bảo, Vĩnh Định chí bảo
Vĩnh Định là niên hiệu đầu tiên trong ba niện hiệu của Mạc Phúc Nguyên,
bắt đầu từ năm 1547. Khảo cổ học đã tìm thấy tiền Vĩnh Định thông bảo đúc bằng
đồng có đường kính chừng 21,5 mm. Mặt trước có bốn chữ Vĩnh Định thông bảo
viết chéo. Mặt sau để trơn, nhưng gờ mép và gờ lỗ có viền nổi.

Ngoài ra còn có tiền Vĩnh Định chí bảo có kiểu dáng như Vĩnh Định thông
bảo, khác ở chỗ chữ chí viết theo lối chữ thảo và mặt sau không có viền gờ mép và
lỗ.
• Càn Thống nguyên bảo
Đây là tiền kim loại do Mạc Kính Cung phát hành. Ông này làm vua nhưng
đóng ở vùng miền núi Đông Bắc. Khảo cổ học đã phát hiện ra loại tiền này.
15


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14
• An Pháp nguyên bảo
An Pháp nguyên bảo là tiền kim loại kích
thước nhỏ mà khảo cổ học tìm thấy nhiều. Lê Quý
Đôn qua Phủ biên tạp lục cho biết đây là tiền do nhà
Mạc phát hành, nhưng không nói cụ thể bởi vị vua
nào của nhà Mạc.
8. Nhà Tây Sơn
• Thái Đức thông bảo
Tiền do vua Thái Đức Nguyễn Nhạc phát hành và lưu thông trong các vùng
lãnh thổ do nhà Tây Sơn kiểm soát. Tiền này được đúc từ đồng. Tiền không dày,
nhưng đúc cẩn thận, chữ và dấu hiệu dễ đọc. Đường kính tiền tùy loại từ 22,5 mm
đến 24 mm. Mặt trước có bốn chữ Thái Đức thông bảo đọc chéo. Mặt sau thì mỗi
loạt một khác, thường thì có các ký hiệu như chấm nổi tròn, hình Mặt Trăng lưỡi
liềm. Có một loạt ở mặt sau có hai chữ Vạn Thọ.
• Quang Trung thông bảo, Quang Trung đại bảo

Đồng
Trung
Đồng
Trung thông bảo


Quang
đại
bảo
Quang

Khi Quang Trung lên ngôi, Việt Nam cơ bản đã được thống nhất, vì thế tiền
do Quang Trung phát hành sẽ được lưu thông gần như khắp cả nước. Và trong thực
tế, khảo cổ học tìm thấy rất nhiều tiền Quang Trung khắp nơi, đặc biệt nhiều từ đèo
Hải Vân ra Bắc. Quang Trung đã cho phát hành hai loại tiền mang niên hiệu của
ông, đó là Quang Trung thông bảo và Quang Trung đại bảo.
Quang Trung thông bảo được đúc nhiều đợt và kỹ thuật của thời đó đã khiến
cho mỗi đợt đúc tiền lại có một chút khác nhau. Tiền này được đúc từ đồng, có kích
thước từ 23 đến 26 mm. Mặt trước tiền có bốn chữ Quang Trung thông bảo đọc
chéo. Có một loạt chữ bảo lại viết theo lối giản thể. Mặt sau thì có thể để trống
hoặc có một trong các chữ nhất, nhị, công, chính, sơn nam hoặc các ký hiệu như
dấu chấm, trăng lưỡi liềm, v.v... Viền gờ mép và lỗ rõ ràng.
Có một số di vật tiền Quang Trung thông bảo được phát hiện mà ở đó người
ta thấy mặt sau của tiền cũng giống mặt trước. Đỗ Văn Ninh cho rằng đó là do thợ
đúc tiền ráp nhầm hai mặt của khuôn đúc.
Quang Trung đại bảo có chữ bảo viết theo lối giản thể. Mặt sau để trống.
16


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14
• Cảnh Thịnh thông bảo

Cảnh Thịnh thông bảo có loại nhỏ và loại lớn. Đây là tiền mang niên hiệu
đầu tiên của Nguyễn Quang Toản, vị vua cuối cùng của nhà Tây Sơn.
Về kiểu dáng và thiết kế thì Cảnh Thịnh thông bảo loại nhỏ không khác gì

tiền Quang Trung thông bảo, nhưng chất lượng đúc có phần tốt hơn. Cảnh Thịnh
thông bảo cũng có loạt mặt sau giống mặt trước như một loạt của Quang Trung
thông bảo. Ngoài ra lại còn có một loạt tiền mà một mặt là Cảnh Thịnh thông bảo
và một mặt là Quang Trung thông bảo.
Cảnh Thịnh thông bảo loại lớn được đúc cẩn thận, thiết kế cầu kỳ, đường
kính tới 48 mm, dày tới 5 mm. Viền gờ mép ở hai mặt là một vành văn triện hình
chữ T, viền gờ lỗ ở hai mặt là hai hình vuông lồng vào nhau. Mặt trước tiền có bốn
chữ Cảnh Thịnh thông bảo đọc chéo. Mặt sau có hình rồng, mây ở phía trên lỗ, lại
có hình cá chép và hình sóng nước ở phía dưới lỗ. Đỗ Văn Ninh cho rằng tiền này
hoa văn giống với tiền Cảnh Hưng nên có thể là theo mẫu tiền Cảnh Hưng mà làm.
9. Nhà Nguyễn
• Gia Long thông bảo
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, đặt niên hiệu là Gia Long. Sách Đại Nam
thực lục chính biên cho biết vào năm
1803, Nguyễn Ánh cho đúc tiền Gia
Long thông bảo bằng đồng. Khảo cổ
học đã phát hiện ra nhiều di chỉ tiền
này. Tiền được đúc nhiều lần và không
phải chỉ ở một nơi. Thứ lớn nhất thì có
đường kính chừng 26 mm, thứ nhỏ nhất
thì có đường kính chừng 20 mm. Mặt trước bốn chữ Gia Long thông bảo đọc chéo.
Mặt sau để trơn.
Năm 1813, vua Gia Long cho đúc tiền Gia Long thông bảo thất phân. Theo
Đại Nam thực lục chính biên thì tiền này bằng kẽm, song khảo cổ học phát hiện ra
cả tiền mang tên này nhưng bằng đồng. Tiền kẽm Gia Long thông bảo thất phân và
tiền đồng Gia Long thông bảo có thể đổi qua lại theo tỷ lệ 1,25:1. Gia Long thông
17


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

bảo thất phân có đường kính trung bình 22 mm và trong thực tế có nhiều kích cỡ.
Theo quy định thì tiền nặng bảy phân, nhưng không phải mọi mẫu vật phát hiện ra
đều nặng đúng như thế. Mặt trước giống Gia Long thông bảo, nhưng mặt sau thì có
hai chữ thất phân ở hai bên lỗ tiền.
Năm 1814, vua Gia Long lại cho đúc tiền Gia Long thông bảo lục phân nặng
sáu phân. Thư tịch cho biết rõ hợp kim đúc tiền này có các thành phần sau đồng đỏ,
kẽm, chì, thiếc (tỷ lệ là 500:415:65:20). Tiền được đúc nhiều lần và có đường kính
xê xích khoảng 21,5 mm đến 22,5 mm. Mặt trước giống Gia Long thông bảo,
nhưng mặt sau thì có hai chữ lục phân ở hai bên lỗ tiền.
• Minh Mạng thông bảo
Minh Mạng thông bảo là tiền do vua Minh Mạng phát hành. Mặt trước có
bốn chữ Minh Mạng thông bảo, mặt sau
để trống.
Tiền này có nhiều loại. Loại đúc
sớm nhất là vào năm 1820 theo quy định
nặng 6 phân bằng đồng và bằng kẽm. Loại
bằng đồng thực ra cũng chỉ có khoảng
một nửa nguyên liệu đồng còn lại là kẽm
và cả lượng nhỏ thiếc và chỉ dùng đến năm 1825 thì bị bãi bỏ.
Loại thứ hai có kích thước lớn từ 22 đến 25 mm, được phát hành từ năm
1820. Nguyên liệu là hợp kim đồng, kẽm và thiếc.
Loại thứ ba có đường kính khoảng 22 mm, nặng 9 phân, bằng hợp kim đồng
kẽm, được phát hành từ năm 1825.
Loại thứ tư có đường kính 25 mm, nặng 1 đồng cân, được phát hành từ năm
1827.
• Thiệu Trị thông bảo
Tiền mang niên hiệu của vua Thiệu Trị có loại nặng 6 phân và loại nặng 9
phân đều bằng hợp kim đồng pha kẽm. Còn có cả loại nặng 6 phân bằng toàn kẽm.
Các loại này ở mặt trước có bốn chữ Thiệu Trị thông bảo đọc chéo, mặt sau để
trống.


Đồng Thiệu Trị thông bảo

18


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

• Tự Đức thông bảo
Tự Đức thông bảo có mấy loạt bằng đồng và cả bằng kẽm, đường kính từ
20 mm đến 25 mm. Nhìn chung các loạt đều có mặt trước giống nhau: bốn chữ Tự
Đức thông bảo đọc chéo, có viền gờ mép và lỗ. Mặt sau thì mỗi loạt một khác. Có
loạt để trống, có loạt thì có chữ "lục văn", có loạt có chữ "Hà Nội", có loạt lại có
chữ "Sơn Tây" và có loạt thì có chữ "Bắc Ninh". Tiền này nhiều khi được giao cho
các lò đúc tiền tư nhân của người Hoa và người Việt giàu có đúc. Đại Nam thực lục
chính biên cho biết có tiền này khi đúc bị pha thêm sắt vào.
• Tự Đức bảo sao
Tự Đức bảo sao là tiền thời vua Tự
Đức, được đúc từ năm 1861 có các mệnh
giá 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 40 đồng,
50 đồng và 60 đồng. Tiền đúc bằng đồng.
Mặt trước có bốn chữ Tự Đức bảo sao đọc
chéo. Mặt sau thì mỗi mệnh giá thiết kế
một khác. Đường kính tiền cũng khác
nhau giữa các mệnh giá.

• Kiến Phúc thông bảo
Tiền mang niên hiệu của vua Kiến
Phúc được đúc nhiều đợt từ năm 1884 và
ở nhiều nơi vì vậy mỗi loạt khác nhau

một chút. Nhìn chung, tiền có đường
kính 23 mm. Mặt trước có bốn chữ Kiến
Phúc thông bảo, mặt sau để trống. Thời
này, quân Pháp đang đánh chiếm Việt
Nam, triều chính cũng mất ổn định, ngôi vua thay đổi mấy lần nên sự quan tâm tới
kinh tế không nhiều, tiền được đúc với số lượng ít. Khảo cổ học chỉ phát hiện được
ít tiền này. Tiền đúc ra chỉ để khẳng định niên hiệu của vua mới chứ tác dụng cho
lưu thông không nhiều vì số lượng quá ít.
• Hàm Nghi thông bảo
Tiền này chính thức chỉ đúc với số
lượng rất ít, nhưng tiền Hàm Nghi thông
19


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14
bảo giả rất nhiều. Theo Đỗ Văn Ninh thì có cả tiền Hàm Nghi thông bảo đúc giả
thời chiến tranh Việt Nam mà lính Mỹ tưởng là tiền cổ thật nên mua mang về sưu
tập. Hàm Nghi thông bảo thật có đường kính 23 mm, mặt trước có bốn chữ Hàm
Nghi thông bảo đọc chéo, mặt sau có hai chữ "Lục văn".

• Đồng Khánh thông bảo
Tiền được đúc với số lượng ít. Năm
1886, triều đình cho đúc một loạt có đường
kính 26 mm. Năm 1887 cho đúc một loạt nữa
có đường kính 23 mm. Cả hai loạt ở mặt trước
đều có chữ Đồng Khánh thông bảo, mặt sau để
trống.
• Thành Thái thông bảo
Tiền kim loại được đúc vào các năm 1889-1890 với số lượng ít. Mặt trước
có bốn chữ Thành Thái thông bảo đọc chéo. Mặt

sau để trống. Đường kính tiền khoảng 23 mm.
Năm 1893-1890, triều đình lại cho đúc
tiền Thái Bình thông bảo mới mà mặt sau có chữ
thập văn. Tiền này đường kính chừng 26 mm.

• Duy Tân thông bảo
Tiền này có hai loạt, một loạt có đường
kính chừng 26 mm đúc ở Thanh Hóa, một loạt
khác nhỏ hơn. Loạt lớn thì mặt sau có chữ "Thập
văn", loạt nhỏ thì mặt sau để trống. Mặt trước cả
hai loạt đều có chữ Duy Tân thông bảo đọc
chéo.

• Khải Định thông bảo
Tiền này có bốn loạt đúc ở bốn nơi là Huế, Hải Phòng, Hà Nội và ở Pháp.
Loại đúc ở Huế lưu thông ở Trung Kỳ, loại đúc ở Hà Nội và Hải Phòng thì để lưu
thông ở Bắc Kỳ. Cả ba loạt này đều bằng kẽm. Riêng loạt đúc ở Pháp thì bằng đồng
và chỉ để lưu thông ở Nam Kỳ.
20


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14
Lưu ý là từ thời này, thực dân Pháp đã phát hành tiền Đông Dương gồm các
loại tiền giấy và tiền kim loại với nhiều mệnh giá được lưu thông rộng rãi hơn tiền
do triều đình phát hành rất nhiều.

Đồng Phi Long

Khải Định thông bảo


• Bảo Đại thông bảo
Tiền bằng đồng nhưng không đúc mà dập lá đồng bằng máy. Kích thước tiền
nhỏ và mỏng. Người dân không coi trọng giá trị tiền này.

III. Thời kỳ Pháp Thuộc (1884- 1945) và kháng chiến chống Pháp(19451954)
1. Thời kỳ Việt Nam là một phần của Đông Dương thuộc Pháp:
Trong thời kỳ này, đơn vị tiền tệ của cả khu vực Đông Dương là piastre, được
dịch ra tiếng Việt là "đồng" hay đôi khi là "bạc". Tiền đúc lúc đầu có đồng bạc
Mexico nặng 27 gam 073 (độ tinh khiết 902 phần nghìn), sau đó là đồng bạc Đông
Dương được đúc ở Pháp nặng 27 gam (độ tinh khiết 900 phần nghìn). Tiền giấy
thời kỳ này được Ngân hàng Đông Dương phát hành và có thể đem đến ngân hàng
đổi thành bạc. Một sắc lệnh ngày 16 tháng 5 năm 1900 cho phép Ngân hàng Đông
Dương in tiền giấy gấp ba lần số bạc đảm bảo nhưng khi Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất xảy ra thì tỷ lệ này không còn giữ được nữa, tiền giấy phát hành gấp nhiều
lần số bạc đảm bảo. Sau một số biện pháp cải cách tiền tệ, ngày 31 tháng 5 năm
1930, Tổng thống Pháp có sắc lệnh quy định đồng bạc Đông Pháp (Đông Dương)
21


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14
có giá trị là 655 miligam vàng (độ tinh khiết 900 phần nghìn), từ đó chấm dứt chế
độ bản vị bạc mà chuyển sang bản vị vàng
Sau đây là một số hình ảnh tiền tệ trong Thời kỳ Việt Nam là một phần của
Đông Dương thuộc Pháp:

Đồng bạc Mexico

Đồng bạc Đông Dương 1885

22



Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

23


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

24


Tài chính Tiền Tệ - Nhóm 1 - KTNN K14

25


×