Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NHÂN tố CHỦ QUAN với VIỆC bảo đảm ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA với sự PHÁT TRIỂN nền KINH tế HÀNG hóa NHIỀU THÀNH PHẦN ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.81 KB, 86 trang )

2

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài:
Từ một nền kinh tế còn lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đó là biện pháp hữu hiệu, là sự
lựa chọn những bước đi phù hợp với hoàn cảnh lịch sử – cụ thể của nền
kinh tế ở nước ta. Vì nền sản xuất còn ở trình độ thấp kém, không qua bước
phát triển tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là sự lựa chọn đúng đắn "cái không thể
bỏ qua". Có như vậy chúng ta mới có đủ điều kiện phát triển lực lượng sản
xuất.
Với những thành tựu to lớn trong quá trình phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, chúng ta đã và đang từng bước khắc phục một cách có
hiệu quả những sai lầm của nhân tố chủ quan nước ta trước đây: Đó là bệnh
nóng vội, chủ quan duy ý chí mà chúng ta đã vấp phải trước thời kỳ đổi
mới. Song, sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta
cũng đã bộc lộ những khuyết tật, có nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế
ở những giai đoạn tiếp theo đòi hỏi phải có sự nỗ lực, phát huy tính sáng
tạo của nhân tố chủ quan ở nước ta.
Đáp ứng đòi hỏi này, chúng tôi chọn “nhân tố chủ quan với việc
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay" làm đề tài luận văn nghiên
cứu. Vì đây vẫn còn là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn chính trị nóng
bỏng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề vai trò “ nhân tố chủ quan” và “điều kiện khách quan” trong
lịc sử đã được các nhà triết học đề cập và giải thích nhiều. Ngay trong các



3

tác phẩm của mình các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lê Nin cũng đã đề
cập nghiên cứu nhiều về vấn đề đó. Do vị trí và ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiển, những năm gần đây ở nước ta nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu
về "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách quan" đối với quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, như các công trình nghiên cứu sau:
- “Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong xây dựng con
người mới ở Việt Nam” Luận án PTS của Nguyễn Thế Kiệt Hà Nội 1988
- “Quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan trong quá trình
xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở
nước ta” Luận án Thạc Sĩ của Chế Công Tâm, Hà Nội 1993.
- “Tác động của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đối với
quá trình xây dựng nền kinh tế thi trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa” Luân án PTS của Dương Thị Liễu ; Hà Nội 1996
- “Về nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Một số vấn đề về lý
luận và thực tiển ở nước ta hiện nay” Luân án TS của Phạm Ngọc Minh, Hà
Nội 2000
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về vấn đề này, như đã nêu
trên, các tạp chí “ Cộng Sản”, “Triết Học”, “Nghiên Cứu Lý Luận”, “
Thông Tin Lý Luận”… Cũng đã xuất hiện những bài của các tác giả nghiên
cứu đề cập tới việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan như:
- “Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội chủ
nghiã ở miền bắc nước ta” của Dương Phú Hiệp, tạp chí triết học số
2/1973.
- “Vị trí và vai trò của nhân tố chủ quan trong cơ chế tác động của
quy luật xã hội” của Phạm Văn Đức, tạp chí triết học số 3/1989.
- “Những yếu tố cơ bản làm tăng cường chất lượng của nhân tố chủ
quan trong xây dựng chủ nghĩa xã hôị” của Trần Bảo, tạp chí triết học số 3

tháng 9.1991.


4

- “Xu hướng và các nhân tố bảo đảm định hướng XHCN của nền
kinh tế nhiều thành phần” của Nguyễn Chí Mỹ, tạp chí cộng sản số
10/5/1997.
Kết quả nghiên cứu của các công trình trên đây rất có giá trị , các
tác giả nghiên cứu đã đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau của điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan trong quá trình phát triển xã hội nói chung
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói riêng.
Tuy nhiên cho tới nay, vẫn chưa có công trình nào đi sâu vào
nghiên cứu có tính hệ thống "vai trò nhân tố chủ quan" với việc bảo đảm
định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Vì
vậy, tác giả luận văn mạnh dạn đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu vấn đề này.
Với mong muốn có những đóng góp nhất định về phương diện lý luận và
thực tiễn, góp phần vào việc xây dựng giải pháp nâng cao chất lượng nhân
tố chủ quan, nhằm giữ vững định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta.
3.Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Luận văn có mục đích: Phân tích và làm rõ vai trò nhân tố chủ
quan ở nước ta trong việc bảo đảm dữ vững định hướng chính trị trong phát
triển nên kinh tế thị trường theo hướng XHCN. Qua đó, nhằm đưa ra một
số giải pháp nâng cao chất lượng nhân tố chủ quan ở nước ta.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất: Làm rõ nội dung khái niệm “ nhân tố chủ quan”và “nhân
tố khách quan”. Vai trò của nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội nói
chung và bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta nói riêng.

Thứ hai: Chỉ ra những bất cập của nhân tố chủ quan. Từ đó đề xuất
một số giải pháp nâng cao nhân tố chủ quản nhằm bảo đảm định hướng
XHCN sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta.


5

3.2. Giới hạn của luận văn
Luận văn chỉ tập trung đi vào phân tích và làm rõ vai trò nhân tố
chủ quan của Đảng và Nhà nước ta là hai chủ thể cơ bản và quan trọng nhất
trong việc lãnh đạo, quản lý và định hướng nền kinh tế phát triển theo
hướng XHCN.
4. Cái mới của luận văn
- Góp phần làm rõ vai trò nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định
hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay .
- Đề xuất một số giải pháp nhămg nâng cao vai trò nhân tố chủ
quan( nhất là ở đơn vị cơ sở) với việc bảo đảm đính hướng XHCN sự phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở các nguyên lý và các
nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mac- LêNin. Tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã dùng các phương
pháp nghiên cứu khoa học như: Phân tích, tổng hợp, lôgic và lịch sử, hệ
thống và yếu tố v.v...
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn trước tiên nhằm nâng cao nhận
thức cho tác giả. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy bộ môn triết học trong các trường
chính trị tỉnh thành.

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận các phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo. Luận văn gồm 2 chương 4 tiết.


6

Chương I
NHÂN TỐ CHỦ QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC
BẢO ĐẢM ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA SỰ PHÁT TRIỂN
NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1. NHÂN TỐ CHỦ QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN XÃ HỘI

1.1.1. Khái niệm: “Nhân tố chủ quan”, “ Điều kiện khách quan”
Khái niệm nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan được hình
thành và phát triển trong quá trình nghiên cứu hoạt động thực tiễn của con
người. Do vậy, để làm sáng tỏ nội dung của các khái niệm đó, đòi hỏi phải
đề cập tới các khái niệm có liên quan tới hoạt động của con người. Đó là
những khái niệm : "chủ thể", "khách thể"
"Nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách quan"
- Khái niệm chủ thể và khách thể
Khái niệm "chủ thể" : trong hoạt động tác động và cải tạo thế giới
khách quan, con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh khách quan; đồng
thời là chủ thể của hoạt động cải tạo hoàn cảnh khách quan, từ đó hình
thành nên khái niệm chủ thể đây là một khái niệm đã được nhiều triết học
quan tâm nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã
đưa ra nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau về nội dung của khái niệm
này như :

Có người cho rằng : "Chủ thể" là con người (cá nhân hoặc nhóm...)
Tiến hành hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiển [ ,92] .
Củng có người hiểu : "chủ thể là con người có ý thức và ý chí, và
đối lập với khách thể bên ngoài" [ .192] .


7

Qua những quan niệm khác nhau trên đây cho thấy : tuỳ theo cấp độ
xem xét, chủ thể có thể là cả loài người, có thể là một nhóm, một giai cấp,
một đảng phái ... Đang thực hiện một quá trình hoạt động nhằm cải tạo
khách thể tương ứng .
Kế thừa những cách hiểu trên, trong luận văn này chúng tôi quan niệm:
Chủ thể - đó là con người với những cấp độ tồn tại khác khác nhau
(cá nhân, nhóm, gia công) đã và đang thực hiện sự tác động đến khách thể.
Với khái niệm chúng tôi đã nêu trên, cho thấy: Con người là chủ
thể, đó là con người thực tiễn, con người hành động, đặc trưng cơ bản nhất
đó là có năng lực hoạt động sáng tạo nhằm cải tạo khách thể (Tự nhiên, xã
hội). Nét biểu hiện về năng lực sáng tạo của chủ thể đó là việc lựa chọn
những hình thức và phương pháp tác động, xây dựng ý chí và quan tâm
trong quá trình tác động vào khách thể, nhằm đạt được mục đích đề ra. Đúng
như trước đây Lê Nin đã từng viết : "Khái niệm ấy (bằng con người) là
khuynh hướng tự mình thực hiện mình, qua bản thân mình, một tích khách
quan trong thế giới khách và tự hoàn thiện (Tự thực hiện) mình" [ ,228].
Khái niệm “khách thể”
Khái niệm“khách thể” và khái niệm "chủ thể" có mối liên hệ hửu cơ
và liên quan mật thiết với nhau. Với cách hiểu nội dung khái niệm "chủ
thể" như đã nêu trên. Chúng tôi quan niệm về khách thể, đó là:
Khách thể là tất cả những gì mà chủ thể hướng vào nhằm nhận
thức và cải tạo nó

Với cách hiểu và quan niệm như vậy, theo chúng tôi: Khách thể
phải được xác định tuỳ thuộc vào chủ thể tương ứng với nó và do vậy
khách thể không phải là toàn bộ hiện thực khách quan, nó chỉ là một bộ
phận của hiện thực khách quan (là các sự vật hiện tượng, quá trình ...), các
bộ phận đó chịu sự tác động của chủ thể xác định. Nói cách khác, tuỳ cung


8

cấp độ xác định về chủ thể để chúng ta xác định khách thể. Do, hiện thực
khách quan hết sức phong phú, từ đó khách thể là những bộ phận của nó
củng hết sức đa dạng. Có khách thể là những hiện tượng, quá trình thuộc
thể giới tự nhiên ; có khách thể là những hiện tượng, quá trình thuộc về lĩnh
vực đời sống xã hội. Chẳng hạn, những quan hệ kinh tế, những quan hệ
chính trị - xã hội, kể cả những quan hệ tư tưởng cũng là những khách thể
của những chủ thể tương ứng [xem ] .
Khách thể và chủ thể có liên quan mật thiết với nhau, quy định lẫn
nhau. Không thể nói tới một khách thể cụ thể, nếu không nói tới một chủ
thể xác định. Bởi vì, chủ thể và khách thể có mối quan hệ biện chứng với
nhau, chúng chỉ tồn tại với tư cách là chủ thể và khách thể khi lấy nhau làm
tiền đề. Khách thể tồn tại bên ngoài, không lệ thuộc vào chủ thể song khách
thể không đối lập trừu tượng với chủ thể. Vì nó chính là đối tượng mà chủ
thể luôn luôn hướng vào cải tạo bằng hoạt động có ý thức của mình .
- Khái niệm "Nhân tố chủ quan" và "Điều kiện khách quan"
Khi xem xét hoạt động của con người, người ta không chỉ nghiên
cứu các khái niệm chủ thể và khách thể ; mà còn quan tâm tới khái niệm
"nhân tố chủ quan "và" điều kiện khách quan. Bởi vì các khái niệm điều
kiện và nhân tố chủ quan được dùng để chỉ mối quan hệ giữa hoạt động có
ý thức của con người và hoàn cảnh mà trong đó con người hoạt động.
- Khái niệm "Nhân tố chủ quan"

Khái niệm nhân tố chủ quan không hoàn toàn đồng nhất với khái
niệm chủ thể. Hiện nay trên sách, báo tạp chí nghiên cứu xuất hiện nhiều
những quan niệm khác nhau về khái niệm nhân tố chủ quan.
Chẳng hạn, trong khi nghiên cứu khái niệm "nhân tố chủ quan", có
tác giả đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động có ý thức của con người
nói chung. "Nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội là hoạt động có ý


9

thức của những con người, những giai cấp, những chính đảng sáng tạo ra
lịch sử " [xem

,18 ]. Cũng có tác giả lại giới hạn và đồng nhất nhân tố chủ

quan với hoạt động tự giác của con người. Như vậy, nhóm quan niệm nêu
trên thường nhấn mạnh đặc trưng sáng tạo của ý thức, tư tưởng, vai trò của
ý thức trong việc phản ánh điều kiện khách quan. Những quan niệm trên
đây có nhiều giá trị và tính hợp lý, vì đã chỉ ra vai trò của ý thức, tính tự
giác trong hoạt động của con người. Nhưng, nếu đồng nhất nhân tố chủ
quan với hoạt động có thức của con người; hoặc giới hạn nhân tố chủ quan
với hoạt động tự giác của con người, thì theo chúng tôi chưa thật đầy đủ và
như vậy dễ dẫn đến tình trạng "chủa quan hoá " hoạt động của con người.
Bởi vì, hoạt động của con người không chỉ thuần tuý thuộc về nhân tố chủ
quan mà còn bị chi phối và quy định của điều kiện khách quan.
Ngoài những quan niệm nêu trên, còn có quan niệm đồng nhất nhân
tố chủ quan với ý thức của chủ thể hoạt động. Về quan niệm này trước đây
đã được A.K.ULeđôp đã nhận xét và phê phán một cách xác đáng, rằng :
"Nhiều phẩm chất tư tưởng, tâm lý xã hội, đạo đức của các tập đoàn xã hội,
của các giai cấp và các tổ chức của nó, của các dân tộc là nằm trong nội

dung của nhân tố chủ quan, nhưng sẽ là sai lầm khi cho rằng toàn bộ ý thức
xã hội củng nằm trong đó. "Nhân tố chủ quan không phải là ý thức nói
chung (cũng hệt như là sự hoạt động), mà là các ý thức đã trở thành sự chỉ
đạo, sự kích thích và phương châm của hoạt động. Nói cách khác là ý thức
đã biến thành đặc điểm nhất định của hành vi, của hoạt động của chủ thể " [
, 69]. Qua đó có thể khẳng định rằng, nhân tố chủ quan chỉ bao gồm những
bộ phận ý thức của chủ thể tham gia vào quá trình tương tác giữa chủ thể và
khách thể.
Theo chúng tôi, nói tới "nhân tố chủ quan", trước hết chúng ta cần
đề cập tới đặc trưng cơ bản của nó là "tính tích cực, tính sáng tạo" của chủ
thể hoạt động. Bởi lẽ, các nguyên lý triết học Mác xít chỉ ra rằng, con người


10

vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của mọi quá trình diễn ra trong lịch sử - xã
hội loài người. Do đó, khi đạt con người với tư cách là chủ thể (Tuỳ ở cấp
độ xem xét là nhóm, giai cấp ...) trong trạng thái đang tích cực hoạt động
trước một đối tượng cần nhận thức và cải tạo nó theo một mục đích nhất
định, với đầy đủ các mặt yếu tố, động lực, phẩm chất và năng lực ... tạo
thành. Tính tích cực của chủ thể - Các nhân tố tạo thành nguyên nhân và
điều kiện của mọi hoạt động tích cực của chủ thể, chúng ta có khách niệm
nhân tố chủ quan và đối lập với nó là điều kiện khách quan [xem , 58-59].
Như vậy, "vấn đề nhân tố chủ quan trong lịch sử dù người ta tiếp
cận việc giải quyết nó về mặt nào và ở bình diện nào đi nữa cũng chỉ có thể
được vạch ra thông qua sự phân tích đặc trưng về chất của những chủ thể
lịch sử" [

,67]. Những điều lưu ý ở đây đó là, không phải là bản thân các


chủ thể lịch sử đó đóng vai trò nhân tố chủ quan, mà là những thuộc tính,
những phẩm chất, những trạng thái của chủ thể biểu hiện trong hoạt động
đóng vai trò nhân tố chủ quan. Những thuộc tính, phẩm chất của chủ thể là
nhân tố chủ quan, là những yếu tố cần thiết để tạo ra khả năng tích cực,
sáng tạo của chủ thể. Biểu hiện sức mạnh sáng tạo đó của chủ thể phải
được thể hiện thông qua hành động thực tiển cải tạo các khách thể xác định.
Tổng hợp toàn bộ những yêu cầu đó tạo thành khái niệm nhân tố chủ quan.
Như trước đây, nhấn mạnh điều đó tác giả V.N Lavrineko cho rằng : "Nhân
tố chủ quan trong quá trình lịch sử là những khả năng khác nhau của con
người mà bằng sự tác động của mình, đã đem lại sự biến đối trong những
mặt nhất định của đời sống xã hội. Điều quan trọng nhất cấu thành nhân tố
chủ quan là ý thức và nói chung là đời sống tinh thần của con người, những
kỷ năng, kỷ xảo và thói quen của họ trong hoạt động sản xuất, kinh nghiệm
xã hội, trình độ văn hoá và đồng thời là những phẩm chất ý chí của họ:
Tính tổ chức trong hoạt động của con người có một ý nghĩa to lớn" [trích
theo ,20]" .


11

Từ những nội dung phân tích trên đây, theo chúng tôi, giữa nhân tố
chủ quan và chủ thể có sự thống nhất, nhưng không đồng nhất với nhau. Sự
thống nhất giữa khái niệm "chủ thể" và "nhân tố chủ quan" được thể hiện ở
chổ : nhân tố chủ quan về tất yếu luôn thuộc về chủ thể. Còn giữa các khái
niệm này có sự khác nhau và tính độc lập tương đối. Vì nhân tố chủ quan,
là khái niệm để chỉ những yếu tố, đặc trưng cấu thành phẩm chất của chủ
thể, được chủ thể huy động và trực tiếp tạo ra năng lực, cũng như động lực
của chủ thể nhằm để biến đổi khách thể cụ thể. Do đó:
Nhân tố chủ quan là những gì thuộc về chủ thể và tham gia trực
tiếp vào một hoạt động cụ thể của chủ thể cũng như bản thân sự hoạt

động đó.
Với quan niệm về khái niệm nhân tố chủ quan nêu trên, theo chúng
tôi xét về cấu trúc nhân tố chủ quan, bao gồm.
Thứ nhất : ý thức của chủ thể là nhân tố cấu thành nội dung khái
niệm nhân tố chủ quan. Song điều đáng lưu ý đó là, không phải là ý thức
nói chung của chủ thể là nhân tố chủ quan, mà là những bộ phận ý thức đã
trở thành sự chỉ đạo, sự kích thích và là phương châm của hoạt động, nói
cách khác là ý thức đã biến thành đặc điểm nhất định của hành vi, của hoạt
động của chủ thể [xem ,19] .
Thứ hai: Nói tới nhân tố chủ quan là nói tới hoạt động có ý thức
của con người (con người cụ thể, của giai cấp, của chính đảng ...) để sáng
tạo ra lịch sử; là nói tới tính tổ chức, ý chí và nghị lực của họ để giải quyết
những nhiệm vụ lịch sử nhất định. Do đó, nhân tố chủ quan không chỉ
thuần tuý là ý thưc của chủ thể mà còn bao gồm cả bản thân quá trình hoạt
động đó. Vì ý thức của chủ thể cùng lắm mới chỉ dừng lại ở "giai thích thế
giới". Điều đó, như trước đây Mác cũng đã từng khẳng định : "Tư tưởng
căn bản không thực hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng thì cần có
những con người sử dụng lực lượng thực tiễn"

[ , 187]. Từ những nội


12

dung trên đây, chúng tôi cho rằng, cấu thành nhân tố chủ quan còn bao gồm
cả quá trình hoạt động cải tạo thực tiển của chủ thể đối với một khách thể
xác định.
Thứ ba: Sức mạnh hoạt động thực tiễn của các chủ thể lịch sử - xã
hội là sự thống nhất biện chứng giữa sức mạnh thể chất và sức mạnh tinh
thần. Do đó, thuộc về nhân tố chủ quan còn bao gồm cả những phẩm chất,

những trạng thái thuộc về năng lực thể chất của chủ thể. Tức là, khi chủ thể
được xem xét là con người cụ thể thì đó là phẩm chất thể lực. Còn khi chủ
thể được xem xét với tính cách là một tổ chức, một lực lượng xã hội thì
điều đó được xem xét dưới góc độ là tính tổ chức ; sự phối kết hợp giữa
những bộ phận cấu thành nên tổ chức hay lực lượng xã hội đó. Bởi vì, trong
quá trình lịch sử, các chủ thể lịch sử được xem xét tuỳ theo cấp độ đó là
những con người cá biệt với ý thức ý chí và khả năng hoạt động của họ...;
mặt khác còn xem xét ở cấp độ đó là những lực lượng xã hội (như giai cấp,
Đảng phái...) .
Khái niệm "Điều kiện khách quan"
Như trên đây chúng tôi đã có dịp đề cập, điều kiện khách quan là
khái niệm có quan hệ với hoạt động cải tạo thực tiễn của con người, của các
chủ thể lịch sử xã hội. Bất cứ một chủ thể lịch sử xã hội nào trong quá trình
hoạt động và tồn tại đều gắn liền với một điều kiện khách quan xác định.
Trong nghiên cứu, khi đề cập tới khái niệm điều kiện khách quan
các nhà nghiên cứu cũng đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau và cũng đã
đưa ra những quan niệm khác nhau về khái niệm đó, chẳng hạn :
- Những điều kiện khách quan là tất cả những gì tạo nên một hoàn
cảnh hiện thực quy định và tác động lên mọi hoạt động của chủ thể, tồn tại
không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể hoạt động [ ,19] .


13

- Điều kiện khách quan là tổng thể các mặt, các nhân tố tạo nên một
hoàn cảnh hiện thực tồn tại bên ngoài, độc lập với chủ thể và tác động vào
hoạt động của chủ thể trong hoàn cảnh cụ thể đó [ ,12].
- Điều kiện khách quan là những yếu tố tạo nên một hoàn cảnh hiện
thực tồn tại bên ngoài, độc lập với chủ thể đang hoạt động ở những thời
điểm cụ thể nhất định và có tham gia vào việc quy định kết quả hoạt động

của chủ thể [ , 16].
Như chúng ta đều biết, bất cứ một chủ thể lịch sử - xã hội nào, cho
dù ở các vị trí và địa vị xã hội khác nhau, trong hoạt động và tồn tại đều
gắn liền với một điều kiện khách quan xác định cụ thể. Do vậy, trong mỗi
hoạt động của chủ thể, các yếu tố hợp thành điều kiện khách quan rất
phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều mặt. Như, các yếu tố, các kết cấu vật
chất tồn tại dưới dạng có sẵn trong tự nhiên ; các yếu tố vật chất tồn tại
dưới dạng xã hội. Những yếu tố có tính vật chất, cùng với các yếu tố tinh
thần như tư tưởng, tâm lý, tập quán ... đang tồn tại hiện thực trong xã hội
hợp thành một hoàn cảnh để chủ thể tồn tại và hoạt động - Đó là điều kiện
khách quan.
Do vậy, theo chúng tôi điều kiện khách quan đó là :
Tổng thể các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ tồn tại ở bên ngoài
chủ thể, độc lập với chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực,
thường xuyên tác động, quy định hoạt động của chủ thể trong mối hoạt
động xác định.
Từ khái niệm điều kiện khách quan như chúng tôi đã nêu trên cho
thấy : Điều kiện khách quan đó là hoàn cảnh tồn tại và hoạt động của chủ
thể, nó quyết định hoạt động của chủ thể. Bởi vì "Bất kỳ một hoạt động nào
của chủ thể cũng có thể được thực hiện khi có những điều kiện nhất định.
Những điều kiện đó đóng vai những tiền đề của hoạt động" [ ,71-72 ].


14

Với quan niệm và những nội dung phân tích như trên, thuộc về điều
kiện khách quan, trước hết là những hiện tượng, điều kiện, đối tượng vật
chất tạo nên một hoàn cảnh hiện thực, độc lập với chủ thể xác định và quy
định hoạt động của chủ thể đó. Những điều kiện vật chất là yếu tố chính
cấu thành điều kiện khách quan, trước hết đó là các yếu tố vật thể của lực

lượng sản xuất ; là trình độ sản xuất đã đạt được của xã hội. Nếu như các
điều kiện vật chất bao giờ cũng là những điều kiện khách quan xét trong
mối tương quan chung với ý thức, song điều kiện khách quan được xác
định cụ thể lại không phải chỉ là những điều kiện vật chất mà còn bao gồm
cả những yếu tố thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Bởi vì, những hiện tượng
tinh thần, ý thức khi nó tồn tại khách quan đối với một chủ thể cụ thể, mà
trong đó hoạt động của chủ thể hướng tới cải tạo nó và đồng thời nó tác
động tới hoạt động của chủ thể. Do đó nó được xác định là yếu tố câu thành
điều kiện khách quan. Chẳng hạn : những tập quán, tâm lý phong kiến lạc
hậu cũng như tâm lý sản xuất nhỏ..., đang là yếu tố cấu thành điều điện
khách quan tác động đến hoạt động của các chủ thể ở nước ta, trong quá
trình xây dựng về phát triển nền sản xuất xã hội chủ nghĩa [xem thêm ] .
Như vậy những yếu tố vật chất và tinh thần tư tưởng tồn tại khách
quan với chủ thể cụ thể, cấu thành hoàn cảnh và tác động đến hoạt động
của chủ thế đó là điều kiện khách quan .
Nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan có mối liên hệ hữu cơ
với nhau. Theo nguyên tắc phương pháp luận của triết học Mác xít, trong
mối quan hệ biện chững giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan,
điều kiện khách quan là tính thứ nhất, nó quyết định đối với nhân tố chủ
quan và được thể hiện trên các bình diện :
Một là : Hoạt động của chủ thể là quá trình thực hiện mục đích
nhằm để thoả mãn nhu cầu. Vai trò quyết định của điều kiện khách quan
đối với nhân tố chủ quan thể hiện ở chỗ, mục đích, mục tiêu chủ thể đặt ra


15

nhằm để thực hiện, phải xuất phát từ những điều kiện và khả năng của hiện
thực. Chỉ những mục tiêu nào của chủ thể xuất phát từ khả năng của hiện
thực, của điều kiện khách quan thì hoạt động của chủ thể mới có thành

công. Như trước đây Lê Nin đã từng viết: "Thật ra, mục đích cuả con người
là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy thế giới khách quan làm tiền đề
" [ ,201].
Hai là": Vai trò quyết định của điều kiện khách quan đối với nhân
tố chủ quan còn được thể hiện ở khâu hoạt động thực tiển của chủ thể. Tức
là, phương thức hoạt động thực tiễn của chủ thể nó bị quy định bởi điều
kiện, hoàn cảnh khách quan. Để khẳng định về điều này, trước đây Mác đã
từng nêu "Nhân loại bao giờ cũng chỉ đạt ra cho mình những nhiệm vụ mà
có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng
bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất nhiệm vụ
đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở qua trình hình thành" [ ,16] . Từ luận
điểm của Mác cho thấy điều kiện khách quan là yếu tố chi phối và quyết
định đến phương tiện và phương pháp hành động của chủ thể .
Ba là: Điều kiện khách quan quyết định ra sự phát triển của nhân tố
chủ quan. Điều đó cũng có nghĩa, tuỳ ở điều kiện khách quan mà đòi hỏi
chủ thể hoạt động cải tạo điều kiện đó phải có những phẩm chất tương ứng.
Khi điều kiện khách quan đã thay đổi thì nhân tố chủ quan cũng phải thay
đổi theo cho phù hợp với sự đòi hỏi của điều kiện khách quan mới.
Tuy bị điều kiện khách quan quyết định, nhưng nhân tố chủ quan
không phải thụ động hoàn toàn, mà nó có tính tích cực ; tính sáng tạo của
nó. Vai trò tích cực và sự tác động sáng tạo trở lại của nhân tố chủ quan đối
với điều kiện khách quan, đó là : Dựa trên năng lực nhận thức của mình,
chủ thể xem xét, đánh giá điều kiện khách quan, từ đó chủ thể đặt ra
phương hướng, phương thức để thực hiện nhiệm vụ đã đặt ra. Ngoài ra,
nhân tố chủ quan - Bằng hoạt động thực tiển, chủ thể đã cải tạo điều kiện,


16

hoàn cảnh khách quan; thông qua sự biến đổi của chủ thể, đã làm cho các

điều kiện khách quan luôn biến đổi và tới sự chín muồi. Thực chất vai trò
nhân tố chủ quan ở đây, là sự phát hiện ra những khả năng khách quan, trên
cơ sở những điều kiện, phương tiện vật chất vốn có của hoàn cảnh khách
quan để biến đổi hoàn cảnh theo quy luật vận động vốn có của nó .
1.1.2. Vai trò nhân tố chủ quan trong sự phát triển của xã hội
Như chúng ta đã biết, xã hội là một kết cấu vật chất đặc biệt, là kết
quả vận động lâu dài tách ra theo quy luật khách quan của thế giới tự nhiên
[xem , 399]. Vì xã hội, là hình thức vận động cao nhất của vật chất. Hình
thức vận động này lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau
giữa người với người làm nền tảng. Như trước đây C.Mác đã từng khẳng
định: "Xã hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì ? Là sản phẩm
của sự tác động qua lại giữa con người " [ ,657] . Con người là sản phẩm
cao nhất của tự nhiên, bằng hoạt động của mình, con người đã làm nên lịch
sử, tạo ra xã hội. Do vậy, xã hội là một bộ phận đặc biệt của tự nhiên. Song,
đồng thời với quá trình tiến hoá tiếp tục của tự nhiên, xã hội cũng có một
quá trình phát triển của nó. Sự vận động và biến đổi của xã hội tuân theo
quy luật khách quan vốn có của nó, thể hiện bằng sự vận động, biến đổi và
phát triển không ngừng trong cơ cấu của xã hội. Quá trình vận động biến
đổi của cơ cấu xã hội dẫn đến sự phát triển của xã hội luôn thể hiện vai trò
của con người - chủ thể của lịch sử xã hội [xem thêm

]. Quá trình vận

động và biến đổi của xã hội, luôn là quá trình thống nhất biện chứng giữa
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan; mà trước hết là vai trò nhân tố
chủ quan trong sự biến đổi điều kiện khách quan của xã hội. Như trong khi
phân tích vai trò của nhân tố chủ quan trong mối quan hệ biện chứng giữa
nó với điều khách quan, chúng tôi đã có dịp đề cập tới tính tích cực ; chủ
động và sáng tạo của nó trước điều kiện và hoàn cảnh khách quan .



17

Nhân tố chủ quan có vai trò to lớn trong sự phát triển của xã hội.
Do chổ : Con người ở bất kỳ hoàn cảnh nào, với tất cả sức mạnh của năng
lực hoạt động có ý thức của mình, luôn là chủ thể của lịch sử, đó là sức
mạnh và năng lực của nhân tố chủ quan. Hành động làm nên lịch sử xã hội
đầu tiên của con người, đó là con người tiến hành cải tạo thế giới tự nhiên
nhằm để đáp ứng những nhu cầu của mình. Như trước đây Lê Nin đã viết :
"Thế giới không thoả mản con người và con người quyết định biến đổi thế
giới bằng hành động của mình" [ ,229] .
Hành động cải tạo và biến đổi tự nhiên nhằm để thoả mản nhu cầu
của con người, đó là con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất .
Chính sản xuất vật chất, là cơ sở tồn tại và là động lực cơ bản thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Trong quá trình sản xuất vật chất, con người đồng
thời thực hiện hai mối quan hệ cơ bản, đó là, mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với con người . Từ việc thực
hiện các mối quan hệ cơ bản đó, đã tạo nên xã hội loài người. Vai trò của
nhân tố chủ quan đối với sự phát triển của xã hội được thể hiện trên cả hai
mối quan hệ cơ bản nêu trên.
Quá trình sản xuất vật chất, trước hết là quá trình con người nhằm
vào tự nhiên, thay đổi các kết cấu vật thể của tự nhiên, tạo ra những dạng
thể vật chất mới đáp ứng nhu cầu của con người. Thông qua hoạt động cải
tạo đó, con người làm cho tự nhiên không ngừng biến đổi. Mỗi bước biến
đổi của tự nhiên đều ghi lại và phản ánh lại những dấu ấn về vai trò hoạt
động có ý thức của con người, vai trò của nhân tố chủ quan. Biểu hiện vai
trò nhân tố chủ quan trong quá trình con người cải tạo tự nhiên, trước hết
đó là, con người dựa trên cơ sở sự hiểu biết của mình đã lợi dụng những
quy luật khách quan của tự nhiên; những điều kiện tự nhiên khách quan,
qua đó biến đổi những điều kiện khách quan hiện có của tự nhiên, nhằm

đáp ứng nhu cầu. Nói cách khác, con người với những phẩm chất của mình


18

- nhân tố chủ quan, đã cố gắng tránh những ngẩu nhiên của tự nhiên ;
không chờ đợi để cho các lực lượng tự nhiên đó hình thành dưới ảnh hưởng
tự phát. Chẳng hạn, con người với những sự hiểu biết về tự nhiên và năng
lực hành động thực tiễn của mình, con người đã tạo ra những điều kiện
"nhân tạo" mà tự nó có trong giới tự nhiên, để biến đổi những khả năng của
tự nhiên phục vụ và đáp ứng nhu cầu của con người. Nhưng trong sản xuất
nông nghiệp, trên cơ sở hiểu biết về các giống cây, con trong tự nhiên, con
người đã bằng phương pháp nhân tạo, tạo ra những giống cây trồng ; vật
nuôi có những đặc tính đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Đây
là một thí dụ nêu rõ vai trò nhân tố chủ quan trong quá trình biến đổi điều
kiện khách quan của tự nhiên nhằm phục vụ cho xã hội.
Cùng với quá trình biến đổi tự nhiên, con người - chủ thể lịch sử xã
hội, bằng những phẩm chất trí tuệ và năng lực thực tiển của mình đã biến
đổi những điều kiện khách quan của đời sống xã hội thúc đẩy xã hội phát
triển .
Như chúng ta đã biết, bằng hoạt động cải tạo tự nhiên của con
người, đã xác lập nên mối quan hệ khách quan giữa con người với con
người trong việc cải tạo tự nhiên, từ đó tạo nên các quan hệ xã hội của con
người và tạo thành xã hội. Xã hội ra đời, không ngừng vận động và phát
triển theo quy luật khách quan của nó. Những quy luật khách quan của sự
phát triển xã hội biểu hiện ra không phải bằng cách nào khác, mà là thông
qua hoạt động của con người dù là tự phát hay là tự giác . "Xã hội với tính
cách là hệ thống là tổng thể những hình thức hoạt động khác nhau của con
người, các quan hệ xã hội, các hình thức cộng đồng của con người" [ ,106]
. Do vậy vai trò nhân tố chủ quan đối với sự phát triển của xã hội trước hết

đó là vai trò của các chủ thể của lịch sử trong việc nhận thức và vận dụng
các quy luật khách quan của sự vận động của xã hội .


19

Quá trình các chủ thể lịch sử xã hội nhận thức và vận dụng các quy
luật khách quan của sự vận động xã hội là sự biểu hiện vai trò nhân tố chủ
quan trong sự phát triển xã hội. Bởi vì, tuy quy luật khách quan của quá
trình vận động của xã hội được hình thành và phát huy tác dụng thông qua
hoạt động của con người. Nhưng không phải vì thế mà con người có thể
sáng tạo ra quy luật hay xoá bỏ quy luật. Nhưng con người có thể thay đổi
hình thức và trật tự tác động của những quy luật khách quan xã hội, bằng
cách tạo ra những điều kiện khách quan mới, tạo ra những địa bàn mới cho
quy luật hoạt động [xem

,34 ].

Do vậy, vai trò nhân tố chủ quan trong sự phát triển của xã hội là ở
chổ, trên cơ sở hiểu biết những quy luật, điều kiện khách quan đã có, nhận
thức được yêu cầu tất yếu của quy luật, từ đó, cải biến những điều khách
quan hiện có, hình thành và tạo nên những điều kiện khách quan mới, trên
cơ sở đó điều chỉnh hình thức, trật tự tác động của quy luật khách quan.
Thậm chí, dựa trên cơ sở sự hiểu biết và năng lực cải tạo thực tiễn, các chủ
thể hình thành điều kiện khách quan mới, qua đó có thể làm cho các quy
luật tác động trong điều kiện cũ mất hiệu lực, nhường chổ cho quy luật mới
hình thành. Ví dụ, trong điều kiện nền kinh tế tiểu nông ở nước ta, những
năm trước đây dựa trên cơ chế tập trung thời bao cấp, có những quy luật
vận hành của nó. Song, cũng điều kiện ấy của nền kinh tế sẽ mất hiệu lực,
nhường chỗ cho các quy luật của nền sản xuất hàng hoá (nhất là quy luật

giá trị) phát huy tác dụng mạnh mẽ đối với nền kinh tế. Điều đó nói lên vai
trò to lớn của nhân tố chủ quan trong sự nhận thức và vận dụng các quy
luật của sự phát triển xã hội [xem thêm ].
Sự vận động và phát triển của xã hội, tương xứng với mỗi nấc thang
phát triển là một chế độ kinh tế - xã hội. Trong mỗi chế độ kinh tế - xã hội
cùng tồn tại và phát huy tác dụng của nhiều quy luật khách quan, trong đó
có thể có những quy luật có vai trò tác động trái ngược nhau. Vai trò nhân


20

tố chủ quan còn được biểu hiện ở chổ : Trên cơ sở năng lực nhận thức các
quy luật khách quan đó, các chủ thể của chế độ kinh tế - xã hội ấy, điều
chỉnh một cách tự giác sự tác động tổng hợp của các quy luật, tạo ra khả
năng và làm cho các quy luật phát huy tác dụng một cách hài hoà, có lợi
nhất, nâng cao tính hiệu quả hoạt động thực tiển của chủ thể.
Khi phân tích về cấu trúc của nhân tố chủ quan mà chúng tôi đã đề
cập ở phần trước, đó là, nhân tố chủ quan còn bao gồm cả bản thân hoạt
động cải tạo thực tiển của chủ thể. Quá trình phát triển của lịch sử xã hội,
trước hết dựa trên những hoàn cảnh và điều kiện khách quan nhất định.
Trong những điều kiện khách quan đó, có thể tạo ra những khả năng phát
triển khác nhau, vai trò nhân tố chủ quản đối với sự phát triển của xã hội
được biểu hiện : Các chủ thể cải tạo điều kiện khách quan đó, dựa trên sự
nhận thức về sự chín muồi của những khả năng từ những điều kiện khách
quan ; phát hiện những nhân tố cơ bản đã chín muồi, qua đó các chủ thể lựa
chọn khả năng có lợi nhất theo mục đích của mình ; tìm ra những biện pháp
thích hợp, lựa chọn phương tiện và cách thức tác động đúng đắn nhất trong
quá trình cải tạo nhằm biến khả năng thành hiện thực. Như trước đây cố
Tổng bí thư Lê Duẫn đã từmg viết : "Trong hoàn cảnh lịch sử nhất định bao
giờ cũng có thể có nhiều khả năng tiến lên. và sự vật tiến lên theo khả năng

này hay khả năng khác còn tuỳ thuộc vào ý định của con người. Cũng như
để đạt đến mục đích nhất định, không phải chỉ có một con đường mà có thể
có nhiều con đường, giống như đi đến một điểm trung tâm, người ta có thể
đi từ trên xuống, hoặtc từ dưới lên, từ tả qua hay từ hửu lại - Đi theo con
đường nào, cái đó do con người quyết dịnh" [ ,116].
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, khi những điều kiện khách quan
đã chín muồi cho việc giải quyết một nhiệm vụ nào đó của lịch sử đặt ra và
tạo ra khả năng hiện thực hoá của nhiệm vụ đó, vai trò nhân tố chủ quan
được biểu hiện, đó là : Dựa trên sự phân tích, lựa chọn khả năng, các chủ


21

thể xây dựng cho mình lòng quyết tâm, niềm tin và từ đó tiến hành trong
thực tiển quá trình cải tạo hoàn cảnh, nhằm thực hiện mục đích của mình.
Mặt khác trong quá trình hoạt động cải tạo điều kiện khách quan, các chủ
thể dựa trên những phẩm chất năng lực trí tuệ và năng lực thực tiễn của
mình, từng bước xác định cách thức tiến hành cải tạo điều kiện khách quan
đó. Tức là, dựa trên điều kiện vật chất khách quan hiện có, các chủ thể đã
biết lợi dụng và sử dụng các lực lượng vật chất khách quan tác động chúng
với nhau, nhằm để đạt hiệu quả. Để đạt được điều đó đòi hỏi các chủ thể
phải dựa trên năng lực hiểu biết, những kinh nghiệm, kỹ năng hoạt động
của mình. Đó chính là vai trò nhân tó chủ quan.
Sự tác động trở lại của nhân tố chủ quan đối với điều kiện khách
quan trong sự phát triển của xã hội, vai trò nhân tố chủ quan ngày càng
được nâng cao trong tiến trình phát triển đó. Bởi lẽ, điều kiện khách quan
của xã hội không ngừng biến đổi và phát triển , từ đó, đòi hỏi các chủ thể
lịch sử tương ứng với những điều kiện đó không ngừng nâng lên. Các chủ
thể hoạt động ngày càng mang tính tự giác. Quá trình phát triển của xã hội
biểu hiện trên những nấc thang lịch sử, đó là các hình thái kinh tế - xã hội.

Tương ứng với mỗi hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp, giai cấp đại diện
cho. Đó là những lực lượng xã hội đại diện và phù hợp với xu hướng tiến
bộ của lịch sử, đóng vai trò là chủ thể của chế độ kinh tế xã hội đó. Do đó,
vai trò nhân tố chủ quan trong sự phát triển của xã hội được xem xét ở vai
trò định hướng và hoạt động sống trực tiếp nhằm cải biến sự phát triển của
chế độ kinh tế - xã hội của giai cấp đóng vai trò chủ thể. Quán triệt nguyên
tắc đó trong sự phát triển của lịch sử xã hội, trươc đây nhà khoa học Xô
viêt G.E.Glê-Dec-Man đã từng khẳng định : "Bước chuyển từ một chế độ
xã hội này sang chế độ xã hội khác là một tất yếu khách quan do sự ra đời
của những lực lượng sản xuất ra đời hoàn toàn không phải vì con người
quyết định trước một cách có ý thức sẽ thay đổi chế độ xã hội của mình .


22

Lực lượng sản xuất do con người tạo ra ; họ không đặt nhiệm vụ cho mình
như vậy, mà chỉ theo đuổi lợi ích tính trước mắt hàng ngày của họ mà thôi.
Nhưng khi lực lượng sản xuất mới đã ra đời và mâu thuẩn với quan hệ sản
xuất cũ, thì xã hội đứng trước sự cần thiết phải thay đổi quan hệ đó. Sự cần
thiết đó sớm muộn rồi cũng được những lực lượng xã hội tiên tiến có lợi
ích xung đột với lợi ích của lực lượng đang suy tàn nhưng cố duy trì chế độ
của nhận thức ra" [ , 223] .
Tóm lại : Sự vận động của lịch sử xã hội là quá trình thống nhất
biện chứng giữa những điều kiện khách quan của xã hội và nhân tố chủ
quan. Sự phát triển của xã hội, về tất yếu khách quan phải xuất phát và dựa
trên nhưng điều kiện, hoàn cảnh khách quan. Nhưng các hoàn cảnh và điều
kiện khách quan của sự phát triển xã hội, tự nó không thể tự phát và trở
thành động lực cho sự phát triển của xã hội. Để các hoàn cảnh điều kiện đó
thực sự là động lực phát triển của xã hội phải được thực hiện và phát huy
vai trò to lớn của nhân tố chủ quan. Đây là nguyên tắc của sự phát triển xã

hội.
1.2. VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG VIỆC BẢO ĐẢM ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN Ở NƯỚC TA

Từ một nền kinh tế thuần nhất về thành phần và chế độ sở hửu
chuyển qua kinh tế nhiều thành phần và đa dạng sơ hửu ; Từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp chuyển quan cơ chế thị trường ; Từ một nền kinh tế
đóng cửa chuyển qua nền kinh tế mở cửa với bên ngoài - Đó là sự chuyển
hướng lớn lao, một sự thay đổi sâu sắc trong xây dựng nền kinh tế ở nước
ta. Nhưng toàn bộ sự chuyển hướng đó, không phải là chúng ta đã thay đổi
mục tiêu, con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn và thực hiện suốt
mấy thập kỷ qua. Sự thay đổi đó, chỉ là sự thay đổi về biện pháp ; về bước
đi để chúng ta càng có khả năng sớm đến với mục tiêu xã hội chủ nghĩa.


23

1.2.1. Phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa - một khả năng
khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay
- Xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là yêu cầu
khách quan đó với nước ta.
Nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa không phải là ý muốn
chủ quan, mà là sự nhận thức và tuân thủ lôgíc khách quan của lịc sử. Bởi
vì, về tất yếu khách quan, loài người sẽ tiến đến một xã hội văn minh, hiện
đại ; quan hệ giữa người với người là bình đẳng. Như trước đây C.Mác đã
khái quát Lôgíc vận động khách quan đó bằng học thuyết hành thái kinh tế
- xã hội, học thuyết đó đã khái quát và phác hoạ quy luật vận động tổng
quát của lịch sử. Từ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác
đã chỉ ra rằng, về tất yếu lịch sử, chế độ kinh tế cộng sản chủ nghĩa sẽ ra

đời mà giai đoạn thấp của nó, đó là chủ nghĩa xã hội.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới được mở ra
từ thắng lợi của cuộc cách mạng tháng mười nga vĩ đại, cuộc cách mạng
đó, trước đây đã được Lênin đánh giá là "mở đầu cho một thời đại mới
trong lịch sử", là giai đoạn lịch sử nhân loại phát triển hướng tới một chế độ
xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, tuy chủ nghĩa xã hội đang lâm vào một thời kỳ khủng
hoảng, thoái trào, nhiều mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ.
Nhưng không phải vì thế mà tính chất của thời đại đã thay đổi; xu hướng
khách quan lên chủ nghĩa xã hội đã bị triệt tiêu mà xu hướng lên chủ nghĩa
xã hội đang tồn tại khách quan ngay trong lòng mỗi quốc gia, ngoài ý chí
của lực lượng cầm quyền.
Nước ta, vốn là một nước nền kinh tế lạc hậu. lực lượng sản xuất
còn ở trình độ thấp và phát triển không đều ; sản xuất nông nghiệp và dân
số nông thôn vẫn còn chiếm tỉ lệ lớn, đời sống xã hội còn nhiều khó khăn.


24

Nền kinh tế còn nghèo so với thế giới và khu vực; tính chất tự túc, tự cấp
của nền kinh tế đang là vấn đề nổi cộm. Vì vậy, vấn đề đặt ra, chúng ta lựa
chọn con đường phát triển của đất nước theo con đường XHCNtrong dòng
chảy lịch sử tự nhiên, với những quy luật vốn có của nó, là sự lựa chọn
đúng đắn, nhưng hết sức khó khăn. Bởi vì, biện chứng của cuộc sống đã tạo
ra một thời đại mới, với những khả năng mới, để các nước có thể tiến lên
chủ nghĩa xã hội từ bất cứ trình độ nào của lực lượng sản xuất. Nhưng đặc
điểm về hoàn cảnh kinh tế thấp kém ở nước ta đang là một thực tế khách
quan, là những khó khăn trở ngại.
Chỉ có thể lựa chọn con đường phát triển đất nước theo hướng xã
hội chủ nghĩa như Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Vì thực tiễn đã chứng

minh "sự phát triển tư bản chủ nghĩa không thể khắc phục được những mâu
thuẩn và đáp lại đòi hỏi củ lý trí loài người, mà chúng chỉ có thể khắc phục
khi loài người phát triển theo xu hướng khác, xu hướng xã hội chủ nghĩa" [
,34] .
Muốn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có lực lượng sản
xuất phát triển . Đất nước ta có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, đó là xu hương và khả năng khách quan của thời kỳ
lịch sử hiện nay. Nhưng, chúng ta không thể bỏ qua những tiền đề kinh tế,
kỹ thuật, văn hóa, xã hội cần thiết cho sự quá độ đó. Cái thiếu của nền kinh
tế nước ta là lực lượng sản xuất chưa phát triển; quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa không thể thiết lập tràn lan trên một lực lượng sản xuất thấp kém
[xem thêm,

.9] Nên chúng ta khẳng định rằng, chỉ có phát triển nền kinh

tế nhiều thành phần, mới phù hợp với thực trạng trình độ thực tế của lực
lượng sản xuất ở nước ta ; chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
chúng ta mới có khả năng huy động được mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật ;
mới có khả năng tạo thêm công ăn việc làm và phát huy nguồn lao động dồi
dào ở nước ta để đẩy nhanh sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng


25

kinh tế. [xem , 35 ]. Như vậy, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là
nhu cầu khách quan và phù hợp với quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa đối với nước ta. Đó là con đường để tạo ra tiền đề kinh
tế kỹ thuật cần thiết cho sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Một nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường
phát triển ở một nước tiền tư bản như ở nước ta, liệu có đi lên và phát triển

theo hướng xã hội chủ nghĩa được không? Cho dù đi lên chủ nghĩa xã hội
là một xu hướng khách quan của thời đại. Như trước đâu, trong các nguyên
lý triết học của mình, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - LêNin đã khẳng
định rằng, hiện thực này hoặc hiện thực khác đều sinh ra bởi tác dụng của
những quy luật khách quan nhất định tồn tại trên những điều kiện khách
quan nhất định .
Như ở phần trên chúng tôi đã phân tích, đi lên chủ nghĩa xã hội là
xu hướng và là quy luật khách quan của thời đại ngày nay. Quá trình phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, là biện pháp thực tiễn để biến
nền kinh tế của nước ta trở thành nền kinh tế có bước phát triển cao. Bởi vì
"thực tế đã cho thấy quốc gia nào kinh tế hàng hoá kém phát triển thì đời
sống thấp kém nghèo nàn và lạc hậu" [

,31]. Vậy, hà cớ gì Chủ nghĩa xã

hội không sử dụng nền kinh tế hàng hóa, như một công cụ nhằm phục vụ
cho sự phát triển kinh tế, trong khi điều kiện khách quan của lịch sử, đã cho
phép và tạo ra nhiều con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tính phong phú
của các phương thức đi tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà vốn trứơc đây
được xem là dị thường xa lạ, nay mỗi con đường, mỗi phương thức trong
tính phong phú của nó mà các quốc gia lựa chọn đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa lựa chọn, đã và đang mở ra các khả năng gây ảnh hưởng mạnh
mẽ một cách toàn diện và sâu sắc tới sự phát triển của các xã hội, tạo ra
những bước ngoặt bất ngờ. Góp phần đưa các nước này ra khỏi khủng


26

hoảng một cách hiện thực, [xem thêm


,24] mà nước ta là một trong các

nước đó.
- Điều kiện khách quan nền kinh tế thế giới, tác động quá trình phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần theo hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta .
Ngày nay khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, các thành tựu khoa học do quá trình lao động sáng tạo của con người
đã nhanh chóng được con người ứng dụng vào quá trình sản xuất. Từ đó, đã
nâng lên một trình độ mới về chất quá trình sản xuất vật chất của nhân loại.
Do vậy, trật tự nền kinh tế thế giới đã có những biến đổi khác so với thời
kỳ trước. Xu thế hội nhập giữa mọi quốc gia dân tộc mở ra tốc độ nhanh,
tạo ra sự giao thoa về lợi ích kinh tế giữa các quốc giữa dân tộc, giã các khu
vực. Làm cho, toàn cầu hoá toàn bộ đời sống xã hội diễn ra nhanh chóng.
Toàn cầu hoá về bản chất chính là sự tăng cường của hoạt động
kinh tế nói chung ; toàn cầu hoá có nội dung chỉ đạo là cầu hoá về kinh tế.
Phát triển kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình toàn cầu
hoá. Đây là nhu cầu khách quan của nền kinh tế hiện đại. Chính vì lẻ đó,
ngay ở các nước tư bản phát triển , giai cấp tư sản đã có bước điều chỉnh
lớn về quan hệ sản xuất cho phù hợp với xu thế khách quan của xu hướng
toàn cầu hoá. Các Công ty tư bản xuyên quốc gia luôn mở rộng liên kết,
đầu tư về đi kèm động thái sát nhập để đủ mạnh và tăng khả năng cạnh
tranh, thúc đẩy sự phát triển quá trình chu chuyển vốn bằng con đường đầu
tư, nhằm tăng mức thu lợi nhuận. Từ đó đã thúc đẩy quá trình quốc tế hoá
sản xuất và dịch vụ.
Do, sự phát triển nhanh và mạnh mẻ của quá trình quốc tế hoá kinh
tế. Từ đó, đã làm cho nền kinh tế thế giới có sự biến đổi, đã thúc đẩy lực
lượng sản xuất của thế giới bước vào thời kỳ phát triển cao chưa từng có,
mở rộng phân công lao động và hợp tác quốc tế về quá trình sản xuất và
dịch vụ trên phạm vi quốc tế, củng như khu vực; tạo điều kiện quan trọng



×