1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức cách mạng là nền đạo đức tích tụ nhiều giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc và đạo đức nhân loại. Nó có vị trí đặc biệt quan trọng, là nhân
tố có sức mạnh to lớn đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước ta hơn nửa thế kỷ qua. Nó đã trở thành nền tảng đạo đức xã hội
ta, một di sản văn hóa vô cùng quý báu, đã và đang là động lực tinh thần to
lớn cho toàn Đảng, toàn dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước, nhằm mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức cách mạng đối với sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng và thường xuyên chăm lo giáo dục,
trau dồi đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Do đó, cách mạng nước ta
trong những năm qua, đặc biệt, sau 18 năm đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị
trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đã đạt được những thành
quả to lớn chưa từng có trong lịch sử Việt Nam về kinh tế, chính trị, xã hội.
Nhưng bên cạnh những thành tựu nói trên, chúng ta cũng đang đối mặt với
những suy thoái về đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Đáng chú ý là sự suy thoái này ngày một gia tăng. Điều đó Đảng ta
đã khẳng định qua các kỳ Đại hội:
Đại hội Đảng lần thứ VI nhận định: "Tình trạng vi phạm kỷ luật Đảng,
pháp luật nhà nước nghiêm trọng kéo dài chưa giảm" [29, tr. 9].
Đại hội Đảng lần thứ VII nhận định: "Số đảng viên vi phạm kỷ luật
trong số được kiểm tra tăng lên nhiều hơn" [29, tr. 10].
Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định: "Điều đáng lo ngại là không ít
cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo
đức" [26, tr. 27].
2
Đến Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh: "Tình
trạng tham nhũng, suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng" [30, tr. 76].
Đạo đức cán bộ, đảng viên ở Hải Phòng cũng không nằm ngoài tình
trạng chung đó.
Sự suy thoái đạo đức xã hội ngày càng gia tăng trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên đó đã làm giảm uy tín của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân
dân đối với chế độ, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH, HĐH) ở nước ta nói chung, ở Hải Phòng nói riêng.
Vậy tại sao có sự suy thoái về đạo đức ngày càng gia tăng trong một
bộ phận cán, bộ đảng viên ở Hải Phòng? Làm thế nào để khắc phục được tình
trạng trên? Làm sao để có được đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ có năng
lực chuyên môn mà còn có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng làm
động lực phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Phòng?
Đó là những vấn đề lớn, bức xúc đặt ra đối với Đảng bộ và nhân dân
thành phố Hải Phòng. Đề tài: "Vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng viên trong
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Hải Phòng hiện nay"
muốn góp một phần nhỏ vào việc giải quyết vấn đề lớn đó.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề đạo đức nói chung, đạo đức cách mạng trong điều kiện KTTT
định hướng XHCN nói riêng đã có nhiều cá nhân và tập thể tác giả quan tâm
nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau, với những cách tiếp cận khác nhau
như: Vũ Khiêu: "Mấy vấn đề đạo đức cách mạng", Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, 1978; Nguyễn Ngọc Long: "Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy", Tạp chí Nghiên cứu Lý luận, số
1-2/1987; Trần Thành: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức", Nxb Chính trị
quốc gia, 1996; Nguyễn Tĩnh Gia: "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường
3
đối với đạo đức người cán bộ quản lý", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số
2/1997; Nguyễn Chí Mỳ: "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước
ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Ngọc Long (chủ
biên): "Giáo trình đạo đức học", Nxb Chính trị quốc gia, 2000; Nguyễn Văn
Lý: "Kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế trị trường Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ triết
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000; Nguyễn Thế
Thắng: "Tìm hiểu tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh", Nxb Lao động,
Hà Nội, 2002; Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc (Đồng chủ biên),
Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Nguyễn thế Kiệt (chủ nhiệm đề tài),
Kỷ yếu đề tài cấp bộ (2002-2003), Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và xu
hướng biến động, Hà Nội, 2003; Trần Văn Phòng: "Tiêu chuẩn đạo đức của
người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, số 52003.
Một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề xây dựng đạo đức cho
cán bộ, đảng viên của các tác giả như: Đặng Thanh Giang: "Vấn đề xây dựng
đạo đức mới cho cán bộ cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay" (qua thực tế ở tỉnh Thái Bình), Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội,
2001; Dương Xuân Lộc: "Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo
đức mới cho cán bộ, đảng viên hiện nay" (qua thực tế ở Thành phố Hồ Chí
Minh), Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2001; Trương Thế Thắng: "Vấn đề
xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị
trường ở tỉnh Hà Giang hiện nay", Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2003...
Như vậy, vấn đề đạo đức, đạo đức cách mạng, xây dựng đạo đức cho
cán bộ, đảng viên đã được nhiều cá nhân và tập thể tác giả đề cập ở nhiều góc
4
độ khác nhau, nhưng vấn đề nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng
viên nói chung và ở Hải Phòng nói riêng hiện nay là vấn đề đòi hỏi được tiếp
tục đi sâu nghiên cứu. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: "Vấn đề đạo đức của
cán bộ, đảng viên trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Hải Phòng hiện nay" để viết luận văn thạc sĩ Triết học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Phân tích thực trạng đạo đức cán bộ, đảng viên trong điều kiện KTTT
định hướng XHCN ở Hải Phòng, từ đó đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm
xây dựng và nâng cao đạo đức cách mạng cho họ ở Hải Phòng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ tầm quan trọng của đạo đức người cán bộ, đảng viên trong
điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ yêu cầu về đạo đức cán bộ, đảng viên ở Hải Phòng hiện nay.
- Phân tích thực trạng đạo đức cán bộ, đảng viên ở Hải Phòng hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và nâng cao phẩm
chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong điều kiện KTTT ở Hải
Phòng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay, thông thường cán bộ là đảng viên. Tuy nhiên, có cán bộ không là đảng
viên. Ngược lại, không phải đảng viên nào cũng là cán bộ. Do vậy, đối tượng
nghiên cứu của luận văn là đạo đức của người cán bộ là đảng viên và đạo đức
của người đảng viên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
5
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng
viên trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Hải Phòng hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm triết học và đạo đức học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời luận
văn kế thừa các thành tựu của một số công trình khoa học đã được công bố có
liên quan đến nội dung mà đề tài luận văn đề cập.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp lịch sử và lôgíc;
phân tích và tổng hợp; phương pháp điều tra xã hội học... đã được sử dụng để
thực hiện mục đích và nhiệm vụ đề tài đặt ra.
6. Cái mới và ý nghĩa của luận văn
6.1. Cái mới của luận văn
Làm rõ thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên ở Hải Phòng hiện
nay; qua đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao phẩm chất đạo
đức cho cán bộ, đảng viên ở Hải Phòng trong điều kiện KTTT hiện nay.
6.2. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và
giảng dạy môn Đạo đức học, môn Xây dựng Đảng... trong các trường đại học
và các trường chính trị tỉnh, thành phố.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để đề ra kế hoạch, giải pháp
nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên ở thành phố Hải
Phòng.
6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
7
Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG VÀ YÊU CẦU CỦA ĐẠO ĐỨC
NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY
1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
1.1.1. Đạo đức và đạo đức cách mạng; quan hệ kinh tế và đạo đức
1.1.1.1. Đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức - xã hội, là tổng hợp những nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm hướng dẫn con người tiến tới cái thiện, cái
chân, cái mỹ... chống lại cái ác, cái giả, cái xấu... Đạo đức luôn là một động
lực tinh thần to lớn đối với sự phát triển, tiến bộ của xã hội. Vì vậy, trong mỗi
thời đại lịch sử, để phù hợp với sự tiến bộ của xã hội, giai cấp thống trị đều
đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức và điều chỉnh các hành vi, cách ứng xử
của con người sao cho phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội.
Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, quan niệm về đạo đức đã để lại
không ít những giá trị to lớn. Nhưng do những hạn chế về thế giới quan,
phương pháp luận và những thiên kiến giai cấp, nên tất cả các quan niệm về
đạo đức trước C.Mác đều thiếu luận cứ khoa học. Hầu hết các quan niệm đó
đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo. Đạo đức học trước C.Mác bằng cách
này hay cách khác đã trở thành một trong những công cụ tinh thần của giai
cấp thống trị dùng để duy trì trạng thái ổn định tạm thời của các chế độ xã hội
cũ, bảo vệ địa vị thống trị của các giai cấp thống trị.
Trên cơ sở của những tiến bộ trong đời sống vật chất, phương thức sản
xuất và những thành quả của sự phát triển khoa học, các nhà kinh điển của
8
chủ nghĩa Mác - Lênin dùng thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng, đồng thời kế thừa một cách có phê phán những giá trị đạo đức đạt
được trong lịch sử lâu dài của nhân loại, làm một cuộc cách mạng có tính chất
bước ngoặt về đạo đức. Quan điểm mác-xít cho rằng: Đạo đức nảy sinh do nhu
cầu của đời sống xã hội, là sản phẩm của lịch sử xã hội, do cơ sở kinh tế - xã
hội sinh ra và quyết định; quan hệ đạo đức là biểu hiện của quan hệ vật chất
xã hội và biến đổi theo đời sống vật chất xã hội. Nghĩa là, theo quá trình phát
triển của xã hội, trên cơ sở phát triển của sản xuất vật chất mà đạo đức được
hoàn thiện dần dần. Đạo đức phát triển từ thấp đến cao cùng với sự phát triển
của các hình thái kinh tế - xã hội, thông qua sự đấu tranh, lọc bỏ, kế thừa để
tiến bộ không ngừng.
Như vậy, đạo đức xét về bản chất là sự phản ánh tồn tại xã hội, là tồn
tại xã hội được nhận thức, bị quy định bởi tồn tại xã hội. Điều đó giải thích
một cách khoa học sự khác nhau, thậm chí đối lập nhau giữa đạo đức học
mác-xít với những hệ thống đạo đức khác nhau trong lịch sử.
Đạo đức thường được xét ở ba góc độ: nhận thức luận, chức năng, hệ
giá trị.
Dưới góc độ nhận thức luận: Đạo đức là một hiện tượng tinh thần,
một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, là tính thứ hai so với tồn tại xã hội.
Tính đặc biệt của nó thể hiện trong quá trình hình thành các quy tắc đạo đức,
là do sự thừa nhận của số đông trong xã hội hay sự thừa nhận của một giai
cấp nhất định.
Dưới góc độ chức năng: Chức năng cơ bản nhất của đạo đức là điều
chỉnh hành vi của con người bằng chuẩn mực và quy tắc theo yêu cầu của xã
hội, nhằm đảm bảo lợi ích chung của xã hội hay lợi ích cơ bản của giai cấp đề
ra chuẩn mực, quy tắc đạo đức ấy. Với chức năng nhận thức và chức năng
giáo dục, nó giúp con người hình thành những quan điểm, nguyên tắc, quy
9
tắc, chuẩn mực cơ bản để đánh giá hành vi đạo đức xã hội và những hành vi
đạo đức của bản thân.
Cách tiếp cận từ hai góc độ trên đây còn được bổ sung bằng cách thứ
ba, đó là xem xét đạo đức với tính cách là một hệ giá trị. Đạo đức là một trong
những hình thái ý thức xã hội, thường bao giờ cũng được khẳng định hoặc
phủ định một lợi ích, một quan niệm đương thời xác định. Vì vậy, đạo đức là
một hệ giá trị. Lợi ích là cơ sở khách quan của giá trị. Trong xã hội có giai
cấp đối kháng, do lợi ích căn bản khác nhau mà các giai cấp quan niệm về giá
trị đạo đức khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Như vậy, nội hàm của khái niệm
đạo đức không chỉ hạn định ở đặc trưng là một hình thái ý thức xã hội, là một
phương thức cơ bản điều chỉnh hành vi con người mà đạo đức còn là một hệ
giá trị bao gồm những giá trị chung và những giá trị riêng.
Cho đến nay đã có rất nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về đạo
đức, ở một mức độ khái quát nhất, chúng ta có thể hiểu:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử của con người trong quan hệ xã hội, chúng được
thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội [49, tr. 8].
Đạo đức bao gồm: Ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và thực tiễn đạo
đức.
Ý thức đạo đức là ý thức của con người về hệ thống những quy tắc,
chuẩn mực hành vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại. Ý
thức đạo đức bao hàm các yếu tố tạo thành là tri thức, tình cảm và ý chí đạo đức.
Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định giữa con người
và con người, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức. Nó là một bộ phận hợp
thành của quan hệ xã hội.
10
Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người do ảnh hưởng của niềm
tin, của ý thức đạo đức, là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức vào trong
đời sống của con người.
Ý thức đạo đức, thực tiễn đạo đức và quan hệ đạo đức là những yếu tố
tạo nên cấu trúc của đạo đức. Mỗi yếu tố không tồn tại độc lập mà liên hệ tác
động lẫn nhau, tạo nên sự vận động phát triển và chuyển hóa bên trong của hệ
thống đạo đức.
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, đạo đức không sinh ra đạo đức mà đạo
đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch
sử. Với tư cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế - xã hội. Ph. Ăngghen
nhận xét: "Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến
nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ" [55, tr.
137]. Sự phát triển của ý thức đạo đức của người nguyên thủy đến ý thức đạo
đức của xã hội văn minh là kết quả của sự phát triển từ thấp đến cao của hoạt
động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.
1.1.1.2. Đạo đức cách mạng
Đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản là thành quả phát triển cao
trong lịch sử tiến hóa lâu dài của đạo đức. Nó là kết quả của sự phủ định biện
chứng những giá trị đạo đức đã đạt được trong lịch sử. Nếu như đạo đức của
xã hội có đối kháng giai cấp được xây dựng trên sự bất bình đẳng, sự nô dịch
và sự áp bức bóc lột giữa người và người thì đạo đức cách mạng được xây
dựng trên cơ sở bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa người
với người. Nếu như đạo đức tư sản kích thích sự phát triển cá nhân một cách
cực đoan trở thành chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, kích thích những dục vọng thấp
hèn, những bản năng ở con người, vật hóa con người, thì đạo đức cách mạng
11
phát triển cá nhân trong sự hài hòa với cộng đồng xã hội, hạn chế những dục
vọng, bản năng thấp hèn ở con người. Đạo đức cách mạng kích thích phát
triển và giữ vai trò chỉ đạo mặt ý thức, mặt xã hội của con người, nâng con
người lên đúng tầm vị trí làm người.
Có thể nói, đạo đức cách mạng - đạo đức cộng sản chủ nghĩa không
những khác mà hoàn toàn đối lập với đạo đức của giai cấp bóc lột (đạo đức
chủ nô, phong kiến, tư sản). Đạo đức cộng sản là nền đạo đức có giá trị phổ
biến và nhân đạo. Theo V.I. Lênin, đạo đức mới là những gì "góp phần phá
hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao
động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những
người cộng sản..." [45, tr. 369]. Đạo đức cộng sản biểu hiện sự sáng tạo mang
tính quần chúng rộng rãi. Các giá trị đạo đức cộng sản chủ nghĩa mang đầy ý
nghĩa cao cả và vì con người. Những giá trị ấy nói lên bản chất sáng tạo của
trí tuệ, của ý thức danh dự, của lòng dũng cảm và những phẩm chất cao quý
của con người. Nền đạo đức ấy vừa là sản phẩm của nền sản xuất xã hội đầy
sáng tạo và nhân văn, vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Nhằm nhấn mạnh vai trò nhân tố tinh thần của đạo đức mới - đạo đức
cách mạng - đạo đức cộng sản chủ nghĩa trong việc góp phần vào thắng lợi
của cách mạng XHCN, và để phù hợp với thực tiễn cách mạng XHCN trong
giai đoạn hiện nay, trong luận văn này chủ yếu sử dụng khái niệm "Đạo đức
cách mạng" theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là: "Tuyệt đối trung thành với
nhân dân", "ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng", "làm đúng chính
sách và nghị quyết của Đảng"; "quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch"; "đặt
lợi ích của Đảng lên trên hết"; "luôn hòa mình với quần chúng" v.v... Ở Chủ
tịch Hồ Chí Minh, khái niệm đạo đức cách mạng được vận dụng một cách khá
linh hoạt, mềm dẻo - điều này phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể. Ở mức
độ khái quát nhất, theo Người, đạo đức cách mạng là:
12
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó
là điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực
hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên
trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong
mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự
phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của
mình và cùng đồng chí mình tiến bộ [61, tr. 285].
Đạo đức cách mạng Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với
thực tiễn cách mạng Việt Nam, là sự phản ánh quá trình đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp tiến bộ khác nhằm giành
độc lập dân tộc và đi lên xây dựng CNXH. Đạo đức cách mạng xét dưới góc
độ nhận thức, là kết quả của sự phản ánh tồn tại xã hội, là tính thứ hai so với
tồn tại xã hội. Nhưng với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, luân
lý đạo đức phản ánh cái bản chất của tồn tại xã hội. Cho nên đạo đức cách
mạng kế thừa những đặc điểm của hệ thống lý luận đạo đức trong lịch sử;
phản ánh quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong xã
hội.
Sự khác nhau căn bản giữa đạo đức cách mạng với các hệ thống đạo
đức khác là ở tính cách mạng và khoa học của nó. Đạo đức cách mạng là đạo
đức phản ánh lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và các giai cấp, tầng lớp
nhân dân lao động khác, nó mang bản chất giai cấp công nhân.
13
Giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam
giành lại độc lập dân tộc và xây dựng thành công CNXH. Mục tiêu lý tưởng đó
phù hợp với quy luật vận động tất yếu của lịch sử xã hội và quy luật tiến bộ của
đạo đức nhân loại; vì nó hướng tới mục tiêu giải phóng triệt để con người
khỏi khổ đau, áp bức bóc lột, bất công trong xã hội hiện thực. Mục tiêu này,
theo cách nói của C.Mác: "Phải lật đổ tất cả những quan hệ biến con người
thành một sinh vật bị làm nhục, bị nô dịch, bị bỏ rơi, bị khinh rẻ..." [51, tr.
581].
Tính cách mạng, khoa học trong lý luận đạo đức cách mạng của Hồ
Chí Minh không chỉ phản ánh sự sáng tạo qua thực tiễn cách mạng Việt Nam
với tư cách là nguồn gốc chủ yếu của nó, mà còn thể hiện sự phê phán, kế
thừa, chọn lọc tinh hoa truyền thống đạo đức dân tộc và đạo đức nhân loại trong
quá trình hình thành và phát triển đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng:
Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức
cá nhân.
Tôn giáo Giê su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó
phù hợp với điều kiện nước ta...
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện
chứng...
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy... [68, tr. 92].
Hồ Chí Minh đã thể hiện rất rõ tư tưởng, thái độ đối với di sản đạo
đức của nhân loại. Nắm vững phương pháp biện chứng duy vật của C.Mác, dựa
trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người đã có thái độ khoa học và
cách mạng trong việc kế thừa những yếu tố hợp lý của các hình thái ý thức
14
đạo đức trước đó để góp phần hình thành nên lý luận về đạo đức cách mạng ở
Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng nước ta cũng đã chứng tỏ những giá trị đạo đức
cách mạng là hệ giá trị hàng đầu trong hệ thống những giá trị đạo đức của xã
hội Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua. Tính cách mạng và khoa học của đạo đức
cách mạng thể hiện trong hệ thống những nguyên tắc cơ bản, nó không mang
tính cố định, giáo điều, mà đòi hỏi phải được bổ sung, phát triển cho phù hợp
với yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Ở các giai đoạn khác nhau của cách
mạng, trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của đạo đức cách mạng, Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã bổ sung và phát triển những nội dung đạo đức cách mạng
cụ thể. Ví dụ: Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945, Đảng yêu cầu cán bộ phải "am hiểu con đường chính
trị..." [3, tr. 528] và Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến niềm tin cộng sản: "Giữ chủ
nghĩa cho vững", ý thức giữ "bí mật", trách nhiệm tuyên truyền chủ nghĩa
cộng sản và cổ động quần chúng theo Đảng... nhằm chuẩn bị tinh thần và lực
lượng cho Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Sau thắng lợi Chiến dịch Đông Xuân
năm 1947, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chuyển sang thời kỳ mới thời kỳ cầm cự, khó khăn gian khổ, quyết liệt hơn. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ vừa đẩy mạnh kháng chiến vừa thực hiện kiến quốc, xây dựng và củng cố
chính quyền cách mạng, khi viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Hồ Chí
Minh đặc biệt đề cao tinh thần học tập, nhất là học tập lý luận Mác - Lênin; đề
cao chuẩn mực đạo đức "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư"; nhấn mạnh
lề lối, tác phong làm việc khoa học... nhằm khắc phục tình trạng đội ngũ cán
bộ còn yếu kém về lý luận, tác phong công tác, đạo đức lối sống. Khi miền
Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào khôi phục kinh tế, chuẩn bị tiền đề cho
CNXH, tạo hậu phương vững chắc để giải phóng miền Nam, trước yêu cầu
mới của thực tiễn xây dựng CNXH, trong nhiều tác phẩm, đặc biệt là tác
phẩm "Đạo đức cách mạng", Người đề cập nhiều đến chủ nghĩa tập thể, đấu
15
tranh loại trừ chủ nghĩa cá nhân, nhất là các biểu hiện quan liêu, đặc quyền,
đặc lợi... ở cán bộ có chức, có quyền.
Như vậy, lý luận đạo đức cách mạng đã luôn được Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta bổ sung và phát triển theo yêu cầu thực tiễn cách mạng nước
ta. Từ "Tư cách người cách mệnh" đến "Đạo đức cách mạng", đến "Di chúc"
được coi là những mốc đánh dấu sự phát triển về nội dung đạo đức cách mạng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ những phân tích trên, cho phép tác giả luận văn đưa ra quan niệm
về đạo đức cách mạng như sau:
Đạo đức cách mạng là đạo đức phản ánh thực tiễn cách mạng của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động; là sự thống nhất hữu cơ giữa những
phẩm chất đạo đức tạo nên nền tảng nhân cách của người cách mạng; là
động lực thúc đẩy người cách mạng trong quá trình hoạt động cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Đạo đức cách mạng được hiểu với nội dung là tổng hòa các phẩm chất
đạo đức của người cách mạng. Đó là lòng trung thành vô hạn với mục tiêu, lý
tưởng cách mạng, chủ nghĩa tập thể, lao động tự giác, sáng tạo, chủ nghĩa yêu
nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và những
phẩm chất đạo đức cá nhân như tính trung thực, tính nguyên tắc, tính khiêm
tốn, tinh thần dũng cảm... Những phẩm chất đạo đức cách mạng trên thống
nhất hữu cơ trong nhân cách của người cách mạng. Đạo đức cách mạng không
ngừng được củng cố và phát triển cùng với sự thắng lợi ngày càng to lớn của
cách mạng XHCN, của phương thức sản xuất XHCN, trở thành nền đạo đức
chung của loài người. Tuy nó chưa phải là nền đạo đức tuyệt đối chân chính
cuối cùng, nhưng như Ph.Ăngghen nói: hiện nay nó "đang tiêu biểu cho sự lật
đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của tương lai... là thứ đạo đức có một số
lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài" [55, tr. 136].
16
1.1.1.3. Quan hệ giữa kinh tế với đạo đức
Quan hệ giữa kinh tế với đạo đức là mối quan hệ biện chứng, trong
đó, suy cho cùng yếu tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với đạo đức. Sự
tác động của kinh tế đối với đạo đức tuân theo quy luật chung về mối quan hệ
biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc
thượng tầng. Theo C.Mác, phương thức sản xuất vật chất quyết định các quá
trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung; không phải ý thức của
con người quyết định tồn tại của họ, trái lại tồn tại xã hội của họ quyết định ý
thức của họ. V.I.Lênin cũng nhấn mạnh: "Chủ nghĩa duy vật lịch sử thừa nhận
rằng tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của loài người. Trong
hai trường hợp đó ý thức chỉ là phản ánh của tồn tại, nhiều lắm thì cũng chỉ là
một sự phản ánh gần đúng, không khớp, chính xác một cách lý tưởng" [48, tr.
404]. Từ đó suy ra là phải lấy sự tồn tại của con người để giải thích ý thức của
con người, chứ không phải ngược lại. Phần lớn các nguyên nhân thay đổi ý
thức xã hội nằm trong phương thức sản xuất, chứ không phải trong đầu óc của
người ta, không phải trong triết học mà là trong kinh tế.
Quá trình phát triển sản xuất là quá trình không ngừng giải phóng con
người cả về lĩnh vực vật chất lẫn tinh thần (trong đó có đạo đức). Xã hội càng
phát triển, kinh tế càng phát triển, thì con người càng có điều kiện hoàn thiện
mình. Tuy nhiên, sự tác động của kinh tế đến đạo đức không phải bao giờ
cũng theo chiều thuận mà còn có cả chiều nghịch. Thực tế chứng minh, có khi
kinh tế phát triển cao, nhưng đạo đức có sự tha hóa, thụt lùi hoặc có sự tiến bộ
cục bộ và sự tha hóa cục bộ. Nước Mỹ kinh tế rất phát triển, nhưng quan hệ
xã hội, quan hệ đạo đức không phát triển lành mạnh hay chí ít cũng không có
sự tăng tiến tương ứng với kinh tế. Thái Lan có một thời kỳ tăng trưởng kinh
tế rất nhanh, song nền đạo đức cũng xuống cấp và hiện nay là nơi có tỷ lệ
người nhiễm HIV hàng năm cao trên thế giới. Điều đó nói lên rằng, điều kiện
kinh tế là quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với chế độ chính trị và đạo
17
đức xã hội, nhưng nhân tố chủ quan cũng chiếm một vị trí quan trọng. Theo
Nhà tương lai học A.Toffler, trong lịch sử nhân loại, nhiều nước kém phát
triển chỉ là kinh tế thôi, còn văn hóa không phải là kém phát triển.
Ở một góc độ khác, đạo đức là nhân tố, động lực của sự phát triển
kinh tế. Trong KTTT, lợi nhuận và hiệu quả là mối quan tâm lớn của người
sản xuất. Bởi vậy, có người cho rằng, các nhân tố đạo đức can thiệp vào kinh
tế sẽ cản trở sự tăng trưởng kinh tế. Đây là cách hiểu không đúng, họ đã cố
tình gạt bỏ mọi quy phạm đạo đức ra khỏi các hoạt động kinh tế; là cách hiểu
cực đoan mang tính thực dụng và ngày càng tỏ ra không thể đứng vững trước
yêu cầu phát triển của nền KTTT.
Thực tế cho thấy, không phải mọi chính sách mang lại hiệu quả kinh
tế cao đều có ý nghĩa tích cực cho sự phát triển đạo đức và ngược lại những gì
không có hiệu quả kinh tế đều vô đạo lý. Giải quyết mâu thuẫn này trong các
trường hợp cụ thể và ưu tiên cao nhất phải dành cho mục tiêu xã hội. Tính
toán lỗ lãi không nằm ngoài tư duy kinh tế, nhưng đó không phải là mục đích
cuối cùng. Trong CNXH, ý nghĩa nhân bản của chính sách kinh tế là ở chỗ
vừa đáp ứng nhu cầu vật chất của con người, vừa tạo điều kiện vật chất cho sự
phát triển đạo đức, nhân cách của con người. Chính sách kinh tế mà bất chấp
yêu cầu xã hội, không mang trong nó nhân tố xã hội, mục tiêu xã hội, thì trật
tự kỷ cương của kinh tế sẽ bị phá vỡ, khả năng tha hóa của con người vẫn
diễn ra. Nhận thức một cách sâu sắc mối quan hệ biện chứng này, tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng ta khẳng định: "Tăng trưởng kinh tế phải
gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt
quá trình phát triển" [26, tr. 113]. Còn tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Đảng ta xác định: "Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội" [30, tr. 89].
18
Mặt khác, trong cạnh tranh mọi gian dối tầm thường dần dần bị lọc bỏ
và cuối cùng thắng lợi chủ yếu là công nghệ, phương pháp quản lý mới. Xã
hội tồn tại và phát triển không phải bằng lừa dối, đầu cơ, buôn lậu, hàng giả...
mà bằng trình độ và sức sáng tạo của con người. Sáng tạo không chỉ là điều
kiện kinh tế, tất yếu kinh tế, mà còn là hành động của lý trí, của lương tri.
Đạo đức được nảy sinh từ các hoạt động kinh tế, nhưng nó tác động
trở lại với kinh tế và có vai trò nhất định trong đời sống xã hội. Sự tác động
của đạo đức đến kinh tế thể hiện thông qua các chức năng sau:
+ Chức năng điều chỉnh hành vi.
+ Chức năng giáo dục.
+ Chức năng nhận thức (chức năng phản ánh).
Tuy nhiên, sự tác động của đạo đức đến các lĩnh vực hoạt động kinh tế
nhiều hay ít còn phụ thuộc vào những yếu tố sau:
Thứ nhất: Phụ thuộc vào bản thân ý thức đạo đức tiến bộ hay lạc hậu.
Nếu đạo đức tiến bộ thì sự tác động của nó đối với các hoạt động kinh tế sẽ
phát triển theo chiều hướng tích cực, còn ngược lại, đạo đức lạc hậu sẽ kìm
hãm sự phát triển kinh tế.
Thứ hai: Phụ thuộc vào ý thức đạo đức thâm nhập vào quần chúng
nhiều hay ít. Ý thức đạo đức thâm nhập vào quần chúng càng sâu rộng thì sự
tác động tích cực của đạo đức đến đời sống kinh tế - xã hội càng có hiệu quả.
Ngược lại, nếu ý thức đạo đức mà thâm nhập ít, nó không thể tạo ra được
phong trào quần chúng thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Thứ ba: Phụ thuộc vào khả năng của giai cấp cầm quyền hiện thực
hóa tư tưởng, đường lối lãnh đạo và ý thức đạo đức của mình đối với xã hội,
đất nước đến đâu. Nếu giai cấp cầm quyền có tư tưởng, ý thức đạo đức tiến
bộ, đường lối đúng đắn thì giai cấp đó hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của
19
mình, thúc đẩy, lãnh đạo nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước. Ngược lại, nếu là hệ tư tưởng, ý thức đạo đức phản tiến bộ,
đường lối lãnh đạo không đáp ứng với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nó
sẽ tạo ra một lực cản lớn trên con đường đi lên của xã hội.
Sự tác động của kinh tế đến đạo đức được thực hiện thông qua nhiều
"khâu trung gian" như: Chế độ chính trị, chính sách kinh tế - xã hội, pháp
luật... Bởi vì:
Một là, kinh tế và đạo đức là hai yếu tố của quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Xét đến cùng, đạo đức là sự phản ánh
của các quan hệ kinh tế. Song tình hình kinh tế không tác động một cách tự
động đối với đạo đức. Vai trò quyết định của kinh tế được thực hiện, như
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: thường thường là một cách gián tiếp thông qua các mắt
khâu quan trọng đó là chính sách kinh tế - xã hội được thể hiện trong thực tế
đời sống.
Hai là, các chính sách kinh tế - xã hội tác động đến các nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức xã hội và các giá trị đạo đức xã hội. Các nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức xã hội là khuôn mẫu ứng xử của xã hội đòi hỏi các cá
nhân trong xã hội phải tuân theo, đồng thời nó là thước đo đánh giá, điều
chỉnh hành vi của cá nhân cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội. Sức
mạnh của dư luận, niềm tin cá nhân, tập quán, truyền thống xã hội sẽ là điều
kiện đảm bảo cho các nguyên tắc, chuẩn mực đó có hiệu lực trong việc uốn
nắn, điều chỉnh, đánh giá hành vi đạo đức của cá nhân, làm thay đổi tình cảm
đạo đức của cá nhân. Mặt khác, giá trị đạo đức là cái được con người lựa chọn
và đánh giá như một việc làm có ý nghĩa tích cực được lương tâm đồng tình
và dư luận biểu dương. Ở đây, lợi ích xã hội là tiêu chuẩn khách quan của các
giá trị đạo đức. Do đó, chỉ khi nào những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
20
điều chỉnh hành vi phù hợp với lợi ích xã hội, được dư luận đồng tình ủng hộ
thì mới có giá trị.
Như vậy, giá trị đạo đức được xác định bởi mức độ phù hợp của
chúng đối với yêu cầu của tiến bộ xã hội. Điều đó khẳng định vai trò của
chính sách kinh tế xã hội đối với những nguyên tắc và các giá trị đạo đức xã
hội.
Ba là, các chính sách kinh tế - xã hội tác động đến dư luận, tập quán,
truyền thống xã hội góp phần điều chỉnh hành vi của các cá nhân. Thông qua
chính sách kinh tế - xã hội tạo nên dư luận, tập quán, truyền thống xã hội. Nó
ca ngợi, khuyến khích cái thiện, cái tốt; phê phán, lên án cái ác, cái xấu. Dư
luận xã hội một khi được củng cố, phát triển bởi các chính sách kinh tế - xã
hội sẽ phát huy sức mạnh to lớn trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức. Nó
giáo dục ý thức đạo đức cho các cá nhân, tuyên truyền những tư tưởng, những
chuẩn mực đạo đức xã hội, biến nó thành thước đo, đánh giá, điều chỉnh hành
vi của mỗi cá nhân nhằm đạt tới sự phù hợp giữa hành vi đạo đức cá nhân và
đạo đức xã hội.
Bốn là, chính sách kinh tế - xã hội còn góp phần nâng cao nhận thức
đạo đức cho các cá nhân. Sự nhận thức đạo đức bao gồm hai trình độ tình cảm
và tư tưởng đạo đức, kinh nghiệm và lý luận đạo đức.
Tóm lại, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội ra đời từ rất sớm trong
lịch sử nhân loại. Nó là sự phản ánh và thể hiện kinh nghiệm chung sống và
kinh nghiệm lịch sử - thực tiễn của con người. Nó có vai trò vô cùng quan
trọng đối với sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Đạo đức cộng
sản là thành quả phát triển cao trong lịch sử phát triển lâu dài của đạo đức. Nó
là kết quả của sự phủ định biện chứng những giá trị đạo đức đã đạt được trong
lịch sử. C.Mác, Ph.Ăngghen là những người đặt nền móng và V.I.Lênin là
người kế thừa và phát triển. Đạo đức cách mạng ở Việt Nam do Chủ tịch Hồ
21
Chí Minh khởi xướng và cùng Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng, bồi dưỡng
cho các thế hệ cách mạng ở nước ta thực hiện mục đích cuối cùng là giải
phóng triệt để con người, trước hết là giai cấp công nhân và các giai cấp, tầng
lớp nhân dân lao động khác thoát khỏi áp bức, bất công xã hội.
Đạo đức và kinh tế có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn
nhau, trong đó yếu tố kinh tế suy cho cùng đóng vai trò quyết định. Tuy
nhiên, đạo đức cũng là động lực cho sự phát triển kinh tế. Trong điều kiện của
nền KTTT định hướng XHCN hiện nay của Việt Nam, mối quan hệ giữa kinh
tế với đạo đức càng đặc biệt được quan tâm.
1.1.2. Tầm quan trọng của đạo đức người cán bộ, đảng viên trong
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
1.1.2.1. Khái niệm cán bộ và đảng viên
Cán bộ - theo Từ điển tiếng Việt - có hai nghĩa cơ bản sau:
Thứ nhất, là khái niệm chỉ "người làm công tác có nghiệp vụ chuyên
môn trong nhà nước" [70, tr. 121] như: cán bộ nhà nước; cán bộ khoa học;
cán bộ chính trị v.v...
Thứ hai, là khái niệm chỉ "người làm công tác có chức vụ trong một cơ
quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ" [70,
tr.121].
Trong khuôn khổ đề cập của luận văn này chúng ta hiểu cán bộ theo
cả hai nghĩa như trên.
Đảng viên - theo Từ điển tiếng Việt - có hai nghĩa sau:
Thứ nhất, "người ở trong tổ chức của một chính đảng" [70, tr.291].
Thứ hai, "đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (nói tắt)" [70, tr.291].
Trong khuôn khổ của luận văn này chúng ta hiểu đảng viên theo nghĩa
thứ hai.
22
Hiện nay ở nước ta, khái niệm cán bộ thường kèm theo từ công chức
hoặc viên chức, được dùng để chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà
nước, thuộc diện biên chế nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, người
cán bộ thường là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nên có thêm cụm từ
ghép cán bộ, đảng viên. Như vậy, ở một góc độ nhất định, khái niệm cán bộ
công chức và cán bộ, đảng viên có nghĩa gần giống nhau. Vừa là cán bộ công
chức vừa là đảng viên cộng sản.
* Một số đặc điểm hoạt động của người cán bộ, đảng viên:
Khi đi sâu vào xem xét, phân tích cho thấy, hoạt động của cán bộ,
đảng viên có những đặc điểm sau:
- Phạm vi tác động của người cán bộ, đảng viên là rất rộng, bởi vì,
mọi lĩnh vực, tất cả các vùng miền, đơn vị sản xuất, kinh doanh, lực lượng vũ
trang; nghiên cứu khoa học, văn hóa nghệ thuật... của đất nước đều được đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng và đều cần có sự hiện diện, tác động của người
cán bộ, đảng viên. Bất kỳ ở đâu, từ đồng bằng, thành thị, cho đến hải đảo,
vùng núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, nếu có con người lao động sản xuất,
học tập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì tại đấy có tổ chức cơ sở đảng, và có
những cán bộ, đảng viên đứng mũi chịu sào, tổ chức, lãnh đạo và hướng dẫn
nhân dân thực hiện nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Tóm lại, phạm vi hoạt động và tác động của người cán bộ,
đảng viên là rộng lớn, bao gồm tất cả các vùng, miền, khu vực và địa hạt hoạt
động của người dân trên toàn quốc.
- Đối tượng tác động của người cán bộ, đảng viên bao gồm tất cả các
tầng lớp nhân dân ở mọi lĩnh vực trong xã hội, từ người lao động trí óc, đến
những người lao động chân tay có trình độ văn hóa, nhận thức, điều kiện,
hoàn cảnh, tâm sinh lý khác nhau trong các tầng lớp dân cư. Để thu được kết
quả tốt đẹp trong công tác, người cán bộ, đảng viên phải biết hòa mình với
quần chúng, được quần chúng tin yêu, ủng hộ; đồng thời, phải "xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân" [62, tr. 498].
23
- Phương thức hoạt động của người cán bộ, đảng viên rất phong phú,
đa dạng. Người cán bộ, đảng viên trước hết phải luôn gương mẫu đi đầu trong
công việc, đồng thời phải biết vận động, tập hợp, đoàn kết quần chúng để thực
hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động quần chúng là những công
việc cần thiết đối với bất kỳ người cán bộ, đảng viên nào. Ở đây, đòi hỏi
người cán bộ, đảng viên phải khổ công học tập, đúc rút kinh nghiệm, phải nói
và làm nhiều điều để làm gương cho quần chúng học tập, tin theo.
Như vậy, đối tượng, phạm vi tác động và phương thức tác động của
người cán bộ, đảng viên trong công việc rất đa dạng trên phạm vi cả nước, có
liên quan trực tiếp đến quần chúng nhằm thực hiện, hoàn thành nhiều mục
tiêu ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc điểm này là dấu hiệu đặc
thù trong hoạt động của người cán bộ, đảng viên, đòi hỏi công tác cán bộ cần
quán triệt và có những kế hoạch cụ thể trong bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán
bộ, đảng viên cho từng giai đoạn cách mạng.
1.1.2.2. Tầm quan trọng của đạo đức người cán bộ, đảng viên trong
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên có một
tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa quyết định. Bởi vì, như Hồ Chí Minh đã
nói: "Cán bộ là sợi dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không
chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ, máy cũng bị tê liệt. Cán bộ là những
người đem chính sách của Chính phủ, các đoàn thể thi hành trong nhân dân,
nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được" [59, tr. 54].
Đảng ta cũng chỉ rõ: Xây dựng kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó công tác cán bộ là then chốt của vấn đề
then chốt. Trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, đạo đức
của người cán bộ, đảng viên có vai trò vô cùng to lớn. Khẳng định điều đó là do:
Thứ nhất: Đạo đức người cán bộ, đảng viên là nhân tố có ý nghĩa quyết
định thành công công cuộc đổi mới.
24
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, cần có một đội ngũ cán bộ, đảng viên
thích ứng với yêu cầu của thực tiễn cách mạng, không chỉ về năng lực,
chuyên môn, nghiệp vụ, mà còn trước hết và đặc biệt phải có phẩm chất đạo
đức cách mạng trong sáng. Hiện nay, sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đang
tiếp tục đi vào chiều sâu, hoàn thiện cơ chế thị trường theo định hướng
XHCN, thực hiện CNH, HĐH đất nước, mà trọng tâm là CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) của
Đảng. Với những thành tựu và những yếu kém, với những thuận lợi mới và
khó khăn mới đan xen vào nhau, khắc phục sự phát triển không đều, sự phân
cực giữa các khu vực, các địa phương... đòi hỏi phải xây dựng một đội ngũ
cán bộ, đảng viên mới ngang tầm với nhiệm vụ, yêu cầu của thực tiễn mới.
Đạo đức cách mạng giúp cho người cán bộ, đảng viên không sợ sệt,
rụt rè, lùi bước khi gặp khó khăn và thất bại, khi thành công không say sưa
kiêu ngạo, công thần, xa rời quần chúng. Từ thành công đến thoái hóa, thất
bại không xa. Cho nên khi thành công, thắng lợi, cán bộ, đảng viên càng phải
chú ý rèn luyện đạo đức cách mạng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
nói: "Có đạo đức cách mạng thì gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững
tinh thần gian khổ, chất phát, khiêm tốn "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ";
lo hoàn thành nhiệm vụ; không công thần, không quan liêu; không kiêu ngạo,
không hủ hóa, đó cũng là biểu hiện của đạo đức cách mạng" [61, tr. 284].
Người còn nhấn mạnh: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân" [59, tr. 252-253].
Nhìn nhận một cách khách quan, có thể khẳng định rằng, nền KTTT
bản thân nó không tự tạo ra sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, nhưng nó tác
động mạnh mẽ tới đời sống riêng tư của mỗi người, khiến người ta phải tính
25
toán đến những động cơ và dục vọng cá nhân. Một trong những đặc trưng của
thị trường là cạnh tranh, là tính toán được thua, lỗ lãi. Đặc trưng này có quan
hệ đến hành vi đạo đức và vô đạo đức trong kinh doanh. Song KTTT không
chỉ tác động đến đạo đức trong kinh doanh, mà còn tác động đến mọi mặt của
đời sống xã hội, trước hết là lợi ích của từng cá nhân. Từ đạo đức trong kinh
doanh dẫn đến đạo đức trong lối sống, đạo đức trong gia đình, đạo đức nghề
nghiệp, đạo đức quản lý và lãnh đạo... Vì vậy, làm thế nào để vừa phát triển
KTTT theo định hướng XHCN, vừa giữ gìn được phẩm chất đạo đức và lối
sống lành mạnh? Chưa làm được điều này thì chẳng những CNXH khó trở
thành hiện thực, mà sự tồn vong của đất nước cũng bị đe dọa.
Tất nhiên, việc thực hành đạo đức trong điều kiện phát triển KTTT
không chỉ là trách nhiệm của cán bộ quản lý nhà nước và cán bộ lãnh đạo của
Đảng, mà còn là trách nhiệm của toàn dân. Nhưng, như Bác Hồ thường căn
dặn, cán bộ bao giờ cũng có vai trò quyết định. Người viết: "Mọi việc thành
hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay
không [60, tr. 480]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương (khóa VIII) Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc cũng khẳng định: "Gương mẫu là một nội dung, một
phương thức trọng yếu trong công việc lãnh đạo của Đảng". Như vậy, Đảng ta
coi đạo đức của người cán bộ, đảng viên là "cái gốc" của sự phát triển.
Trong điều kiện KTTT định hướng XHCN, người cán bộ, đảng viên
ngoài việc phấn đấu để có tài năng và trí tuệ, còn phải trau dồi đạo đức cách
mạng cao hơn nữa, đặt lợi ích của dân tộc, của đất nước, của toàn dân lên trên
hết. Trong điều kiện này, làm giàu chính đáng cho mình và làm giàu cho đất
nước là đạo đức cách mạng, cần được khuyến khích, ngược lại, làm giàu bất
chính là phi đạo đức, cần phải chống.