LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Phương ngữ là một trong những hiện tượng đặc biệt của ngôn ngữ Tiếng Việt. Ở
mỗi vùng, mỗi miền trên đất nước ta đều có những phương ngữ riêng của mình,
và nếu bạn không tìm hiểu rõ về phương ngữ thì chắc rằng bạn sẽ khó hiểu được
hết tất cả những tiếng nói của người dân địa phương của mỗi vùng. Những nếu
các bạn muốn tìm hiểu kĩ về phương ngữ thì điều đầu tiên các bạn phải có được
những kiến thức cơ bản về phương ngữ. Chính vì điều này mà nhóm chúng tôi đã
quyết định chọn đề tài: “Những vấn đề chung về phương ngữ”, nhằm để tăng thêm
vốn hiểu biết của mình và cũng để giúp các bạn hiểu thêm về những nét cơ bản
của phương ngữ Việt Nam.
I.
Khái niệm:
1. Phương ngữ là gì?
- Giải thích theo từ thì: “Phương” là địa phương, “ Ngữ” là lời nói. Vậy “Phương
ngữ” là lời nói của địa phương.
- Nói theo một cách khái quát thì: phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ
sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở mỗi địa phương cụ thể với những nét khác
biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác.
2. Phương ngữ học là gì?
- Phương ngữ học là một bộ môn của ngôn ngữ học để nghiên cứu một hay nhiều
phương ngữ ( dialect).
II.
Tính lịch sử của phương ngữ:
1. Quá trình hình thành phương ngữ:
- Câu hỏi đặt ra là: vì sao một dân tộc cùng nói một thứ tiếng lại có vùng này phát
âm khác vùng kia, có lớp từ vựng ở vùng này so với vùng kia có những khác biệt
nhất định? Và Phương ngữ được hình thành từ khi nào?
- Ta thấy rằng quá trình hình thành phương ngữ gắn liền với quá trình phát triển
xã hội.
1
• Thời kì Thị tộc: Đây là tổ chức xã hội đầu tiên và chung cho tất cả loài người. Ở
thời giai đoạn này mọi thứ đều thống nhất với nhau cho nên chưa hề xuất hiện
phương ngữ mà chỉ có một ngôn ngữ thống nhất và duy nhất cho cả thị tộc.
• Thời kì Bộ lạc: Khi mà dân số trong Thị tộc phát triển, thì bắt buộc Thị tộc phải
mở rộng phạm vi lãnh thổ để sinh sống, do đó họ tách ra thành nhiều bộ lạc, có
những bộ lạc sẽ ở cách xa nhau, nhiều khi không còn tiếp xúc với nhau nữa. Kết
quả là những thay đổi khác nhau trong tiếng nói của từng bộ lạc đã đụng chạm tới
một vài khía cạnh của cái mã chung, rồi được củng cố qua nhiều thế hệ mà trở
thành những phương ngữ khác nhau. Và khi đó phương ngữ đã bắt đầu được hình
thành.
• Nguyên nhân hình thành phương ngữ: Ngôn ngữ luôn luôn biến động, tiến hóa
nhưng không phải mọi vùng, mọi nơi của ngôn ngữ đó đều có những điều kiện
thay đổi, tiến hóa như nhau. Chính vì thế hình thành sự khác biệt ngôn ngữ giữa
các vùng. Đó là nguyên nhân chính dẫ đến sự ra đời của phương ngữ, nhưng ngoài
nguyên nhân trên thì nó còn có những nguyên nhân về vị trí địa lí. Bởi lẽ như đã
nói ở trên khi mà các bộ lạc sống ở xã nhau thì phương ngữ được hình thành, ở
trong giai đoạn thị tộc, do có sự tiếp xúc thường xuyên giữa các thành viên, cho
nên dù có xảy ra những biến đổi thì những biến đổi đó cũng nhanh chóng được
phổ biến cho toàn thị tộc, và kết quả là không thể có phương ngữ. Nhưng sang
giai đoạn bộ lạc phát triển, do sự xa cách về địa lí ở các bộ lạc làm cho những thay
đổi chỉ phổ biến ở trong cái vùng của bộ lạc này mà không lan ra vùng của bộ lạc
khác, kết quả làm nảy sinh những sự khác nhau trong mã, dẫn tới những phương
ngữ khác nhau.
• Khi tổ chức bộ lạc phát triển đến giai đoạn nhà nước ra đời: Sự ra đời của nhà nước
tạo nên một bước chuyển mới trong ngôn ngữ:
Khi nhà nước ra đời thì tồn tại sự tập trưng quyền lực, và lúc này đòi hỏi phải có
một công cụ giao tiếp chung cho cả nước, để tạo nên sự thống nhất cho cả nước.
Và lúc này lần đầu tiên quá trình hợp nhất các phương ngữ đã diễn ra để tạo nên
2
ngôn ngữ toàn dân. Ngôn ngữ chung này là dựa trên cơ sở phương ngữ của một bộ
lạc chiến thắng hay của bộ lạc đông hơn., có sự phát triển về văn hóa cao hơn,
kinh tế mạnh hơn.
Ngôn ngữ toàn dân được củng cố, có uy tín và ngày càng trở thành tài sản quý báu
của cả nước, góp phần hình thành nên ý thức dân tộc, và nhân dân có ý thức bảo
vệ ngôn ngữ này như một di sản vô giá của mình.Điều này giải thích hiện tượng:
Tại sao dân tộc Việt Nam bị đô hộ trong một thời gian dài trên một ngàn năm, thế
mà tiếng Việt vẫn tồn tại không bị đồng hóa bởi tiếng hán.
Thứ ba, quá trình xuất hiện nhà nước, ở nhiều nơi cũng trùng với quá trình xuất
hiện văn tự. Nghĩa là đến lúc này chữ viết cũng đã xuất hiện. Trong giai đoạn này
thì các ngôn ngữ lại có xu thế nhích lại gần ngôn ngữ toàn dân. Đây là một trong
những hiện tượng nổi bật của phương ngữ học Việt Nam hiện đại.
Đến giai đoạn cát cứ: nếu ở giai đoạn trên các ngôn ngữ có hiện tượng xích lại gần
nhau và sáp nhập vào nhau thì đến giai đoạn này lại xảy ra một tình trạng đi
ngược xu thế trên mà nó có xu hướng tách các phương ngữ, góp phần là củng cố
các ngôn ngữ.Bởi lẽ vào giai đoạn các cứ thì các ông vua trong từng công quốc
đều tìm cách bảo vệ quyền lợi của mình cho nên ủng hộ xu hướng phát triển tiếng
địa phương của mình chống lại xu hướng thống nhất ngôn ngữ.
Sang thời kì tư bản chủ nghĩ và xã hội chủ nghĩa: Lúc này xã hội bước vào thời kì
hội nhập. Giữa các vùng trong nước có điều kiện tiếp xuc với nhau nhiêu hơn nên
làm nảy sinh nhu cầu trao đổi vói nhau và mọi người thường sửa đổi phương ngữ
của mình sao cho phù hợp với nơi mà mìh đến. Được gọi là hiện tượng pha tiếng.
Đây là một nhu cầu thật sự cần thiết phải thực hiện để giao tiếp dễ dàng. Những
điều này tạo nên tiền đề cho các phương ngữ dần dần hòa làm một với ngôn ngữ
toàn dân, đồng thời ngôn ngữ toàn dân cũng nhờ đó mà phong phú thêm.
2. Phương ngữ là một phạm trù lịch sử:
- Phương ngữ không phải là một hiện tượng bất biến trong lịch sử. Nó hình thành,
phát triển và mất đi theo các thời kì lịch sử. Như đã nói ở trên về quá trình phát
triển của phương ngữ thì phương ngữ được hình thành vào thời kì bộ lạc, và trong
3
quá trỉnh hình thành nhà nước, khi xuất hiện bộ tộc thì nó trải qua một quá trình
độc đáo: ở chỗ này có xu hướng hợp nhất với ngôn ngữ toàn dân, ở chỗ kia lại có
xu hướng tách ra trong tình trạng phong kiến cát cứ. Sang thời kì dân tộc hiện đại
hình thành thì nó lùi dần, và hòa dân vào ngôn ngữ toàn dân. Trong xã hội hiện
đại với sự phát triển của giao thông, thương nghiệp kỹ thuật, thông tin và nhất là
xu hướng tập trung kinh tế, chính trị, các phương ngữ sẽ lùi dần chứ không phát
triển thêm nữa.
- Hiện nay có những yếu tố phương ngữ đang mất dần vì vậy chugs ta phải ghi chép
cho hết những yếu tố ấy. Đó là những dấu vết vô cùng quý báu để chúng ta hiểu
về lịch sử tiếng Việt. Khi tiến hành khảo sát các từ cũng như các cấu trúc của
tiếng Việt trong sự thể hiện các phương ngữ ta mới có được những ví dụ sinh
động để xây dựng lịch sử tiếng Việt.
- Nghiên cứu một ngôn ngữ không chỉ là nghiên cứu dưới dạng chữ viết của hình
thức ngôn ngữ văn học, mà còn là nghiên cứu về hình thức sống và hoạt động của
nó trong thực tế.
- Chúng ta phải nghiên cứu phương ngữ để phát hiện ra những điểm mạnh của từng
phương ngữ có thể góp phần vào ngôn ngữ toàn dân, cũng như để giúp cho các
phương ngữ xích lại gần ngôn ngữ toàn dân hơn, phù hợp với cấu trúc của từng
phương ngữ.
- Tóm lại phương ngữ là một phạm trù lịch sử nó phản ánh lên quá trình phát triển
của tiếng Việt, và quá trình phát triển của nó cũng gắn liền với quá trình phát triển
của lịch sử.
III. Tính phức tạp của phương ngữ:
1. Phân biệt phương ngữ với ngôn ngữ thân thuộc:
Cần phân biệt phương ngữ với các ngôn ngữ thân thuộc – còn được gọi là các tộc
ngữ.
Khái niệm ngôn ngữ thân thuộc: Các ngôn ngữ thân thuộc là các ngôn ngữ thuộc
cùng một ngữ tộc, có cùng một mã chung nào đó, nhưng vẫn có mã riêng biệt của
mình. Ví dụ như tiếng Việt và tiếng Mường được coi là ngôn ngữ thân thuộc vì
4
chúng thuộc chung một cội nguồn, cùng một ngữ tộc là tiếng Việt – Mường,
nhưng vẫn là hai ngôn ngữ khác nhau, mỗi ngôn ngữ đều có một mã riêng.
Các ngữ tộc được phân loại theo cội nguồn hoặc hình thức.
1.1 Phân biệt phương ngữ với ngôn ngữ:
Theo cách hiểu thông thường của phương ngữ: Nếu hai người nói tiếng mẹ đẻ của
mình mà hiểu được nhau thì đó là hai phương ngữ, còn khi hai người không hiểu
được nhau thì đó là hai ngôn ngữ.
a. Khi những phương ngữ ở trong phạm vi một quốc gia:
- Dù khi nói hai người đó không hiểu nhau vẫn không xem đó là hai ngôn ngữ. Sở dĩ
nói như vậy vì nếu không kể một số biến đổi về ngữ âm thì cấu trúc từ vựng và
cấu trúc ngữ pháp vẫn là một.
Ví dụ: Người Bắc Kinh nói với người Quảng Đông, hay người Phúc Kiến nói với
người Thiểm Tây thì tiếng nói của họ vẫn được xem là phương ngữ vì nó có cấu
trúc ngữ pháp và từ vựng giống nhau và cùng là tiếng Hán.
- Cũng có trường hợp hai kết cấu phương ngữ khác nhau nhưng hai người nói hai
phương ngữ vẫn hiểu nhau.
Ví dụ: Phương ngữ Chăm ở Nam Bộ vẫn còn giữ cấu trúc của một ngôn ngữ đa
tiết, trong khi đó phương ngữ Chăm ở Ninh Thuận đang chuyển sang cấu trúc của
một ngôn ngữ đơn tiết, nhưng hai người ở hai nơi vẫn hiểu được nhau.
b. Khi hai phương ngữ đã trở thành ngôn ngữ quốc gia thì không gọi là phương
ngữ nữa:
Ví dụ: Tiếng Hà Lan và tiếng Flamang, tiếng Mã Lai và tiếng Indonexia, tiếng
Lào và tiếng Thái Lan là những trường hợp như vậy. Người Thái và người Tày
Nùng ở Việt Nam vẫn hiểu phần nào tiếng nói của người phát thanh Thái Lan mặc
dù cấu trúc tiếng Thái của Thái Lan đã khác cấu trúc tiếng Tày Nùng nhưng ta
không thể nào nói tiếng nới của người Thái ở Thái Lan và tiếng của người Thái và
5
người Tày Nùng ở Việt Nam là hai phương ngữ, vì chúng không ở cùng một quốc
gia nên đây là hai ngôn ngữ. Hoặc như đồng bào Chăm , Êđê nghe hiểu lõm bõm
đài truyền hình bằng tiếng Indonexia cũng giống như trường hợp trên.
- Sự chuyển từ phương ngữ sang ngôn ngữ không đột ngột trừ khi có những
nguyên nhân lịch sử khiến hai tộc người tách hẳn nhau ra trong một thời gian dài.
Tiếng Việt và tiếng Mường khác nhau rõ ràng. Nhưng khi xét ở cấp độ phương
ngữ, so sánh phương ngữ Mường với phương ngữ Việt thì ta sẽ ngạc nhiên không
biết tiếng Mường chuyển sang tiếng Việt từ lúc nào. Khi chúng ta đi sâu vào
nghiên cứu thì chúng ta sẽ khó vạch ra những biên giới của các phương ngữ.
Nhưng chúng ta không phải vì thế mà phủ nhận đi sự tồn tại của phương ngữ.
- Hiện nay người ta dùng biện pháp định lượng để phân biệt phương ngữ với ngôn
ngữ. Ví dụ như khi nghiên cứu các ngôn ngữ trong nhóm Mã Lai- Đa Đảo, Dyen
đã đưa ra một tiêu chuẩn định lượng để phân biệt phương ngữ và ngôn ngữ.
c. Để tránh khỏi những điều rắc rối trên, ta biết rằng trong vấn đề nhận diện
một phương ngữ có 2 mặt: mặt ngôn ngữ học và mặt xã hội – chính trị (Ngôn
ngữ học cung cấp cơ sở, nhưng sự giải quyết là thuộc phạm vi xã hôi – chính trị)
- Ngôn ngữ học, cụ thể là phương ngữ học , có nhiệm vụ khảo sát cách biểu hiện
của ngôn ngữ toàn dân dưới hình thức biến thể địa phương của nó. Nó xác định
xem sự khác nhau này đụng chạm tới cái mã ngôn ngữ đến mức nào. Từ đó vẽ ra
những bản đồ phưưong ngữ dựa vào các vùng cùng có chung một số hiện tượng
ngữ âm, từ vựng.
- Việc quy định nhóm người nói phương ngữ này đã có thể xem là một dân tộc
hay không là thuộc phạm vi của dân tộc học. Dân tộc học kết hợp mặt ngôn ngữ
với nhiều mặt khác như phong tục, lịch sử, văn hóa và chính trị để quyết định. Bởi
6
vì quy định một tộc người thuộc dân tộc nào, tuy có sử dụng những cơ sở của
ngôn ngữ học nhưng không phải chỉ sử dụng đơn thuần cơ sở ngôn ngữ học.
Ví dụ: Tiếng Tày – Nùng là hai phương ngữ chứ không phải là hai ngôn ngữ. Vì
những người nói phương ngữ này có thể không phải cùng một tộc người về nguồn
gốc, nhưng trong quá trình cộng cư, ở xen lẫn với nhau đã trở thành một dân tộc
và ngôn ngữ của họ vốn đã là cùng một gốc, bây giờ lại cùng nhích lại gần nhau,
nhất là càng bị ảnh hưởng tiếng Kinh sâu đậm.
2. Phân biệt phương ngữ với thổ ngữ:
- Thế nào là thổ ngữ: Thổ ngữ là một phương ngữ đã bị thoái hóa, đã bị thu hẹp
trong một làng, một xã, một địa phương nhỏ, dân cư ít. Hơn nữa, các từ ngữ trong
thổ ngữ còn bị hạn chế do những nhu cầu đời sống hàng ngày của một cộng đồng
trong một vùng nông thôn nào đó mà thôi. Tiếng nói trong một thổ ngữ thường hết
sức đặc biệt, ngay cả so với phương ngữ quanh đó.
- Nguyên nhân hình thành phương ngữ:
+ Một làng, một xã nào đó sống quá khép kín, không chịu giao tiếp với xung
quanh, nên không bị ảnh hưởng bởi những biến đổi của bên ngoài.
+ Hoặc do cơ tầng ngôn ngữ của những người nói thổ ngữ đó khác với ngôn ngữ
mà hiện nay họ đang dùng. Nghĩa là trước đây những người này nói một thứ tiếng,
nhưng vì một lí do nào đó, họ từ bỏ ngôn ngữ cũ để dùng một ngôn ngữ mới có
mã, khác về bản chất với mã của ngôn ngữ cũ.
3. Sự xuất hiện và lan truyền những biến thể trong phương ngữ.
Hầu hết những sự biến đổi về hình thức trong phương ngữ đều xuất phát từ sự
biến đổi ngữ âm học và âm vị học.
a. Biến đổi ngữ âm là sự biến đổi xảy ra đồng loạt trong mọi từ có âm ấy
không trừ một ngoại lệ nào.
7
Ví dụ: theo người Thanh Hóa thì họ cho rằng [êi ] là biến thể của [i:] nên họ có thể
nói “ chị” là “chậy”. Còn người Hà Nội thì cho rằng “chị” và “chậy” là hai từ khác
nhau chứ không phải là hai biến thể.
Những biến thể ngữ âm thường là những âm tố nằm giữa giới hạn của hai âm vị
hay là hai âm vị kể nhau trong hệ thống âm vị của một ngôn ngữ.
Ví dụ: ê
i
ư
; ô
u
ư
Ở Thanh Hóa:
i
êi : chị
u
ôu : chục
chệi
chộu c
Ở Nam Bộ:
i
ư: bình bịch
bừn bựt
u
ư : um tùm
ưm từm.
Các biến thể ngữ âm có thể xuất hiện trong những bối cảnh ngữ âm phân bố bổ
túc.
Ví dụ: trong phương ngữ Bắc Bộ, ta gặp cặp phụ âm cuối: [ nh – ch] sau những
nguyên âm dòng trước, cặp phụ âm cuối: [ ng – k] sau những nguyên âm dòng
giữa và cặp phụ âm cuối: [ ngm – kp] sau những nguyên âm dòng sau tròn môi.
[inh ich]
[ưng ưk]
[ungm ukp]
[ênh ếch]
[âng âk]
[ôngm ôkp]
8
[enh ech]
[ang ak]
[ongm okp]
[ăng ăk]
Có những trường hợp các biến thể xuất hiện nhưng không ở thế phân bố bổ túc.
Ví dụ: trường hợp lẫn lộn l/n ở đồng bằng Bắc Bộ, s -> x, r -> z, tr -> ch ở hầu
khắp Bắc Bộ.
Hai loại biến thể này do xảy ra do quy luật ngữ âm có tính chất đều
đặn tức là nó bắt gặp ở toàn bộ các từ mang âm vị này không loại trừ
một từ nào hết.
b. Biến đổi âm vị học là âm vị mới đến thay thế cho âm vị cũ lần lượt hết từ
này sang từ khác, tức là bằng con đương thâm nhập từ vựng.
Ví dụ: tương ứng với những âm ă, người ta sẽ gặp â trong phương ngữ Bắc Bộ ở
các từ như: tằm – tầm, rằm – rầm, màu – mầu, thày – thầy, bảy – bẩy…
Ngoài những từ này, hai âm ă – â trong những từ khác lại có giá trị phân biệt ý
nghĩa.
Ví dụ: cau – câu , sau – sâu , tay – tây ….
Sự thay thế âm vị học có thể xảy ra đối với nguyên âm cũng như đối với phụ âm
Ví dụ: b – v ở một số từ như bui – vui, bo – vo,….(ở Bắc Trung Bộ).
Sự biến đổi âm vị học là sự tranh chấp giữa hai âm vị cũ và mới trong từng từ
một:(bảng 1)
9
Bắc Trung Bộ
Nam Trung Bộ - Nam Bộ
Trời
Trăng
Trầu
Tranh
Trai
……
Trựa
Tra
Trời
trăng
Trầu
Tranh
Trai
……
Giữa
Già
Bắc Bộ
Giời
Giăng
Giầu
Gianh
Giai
……
Giữa
Già
Phương ngữ Nam Trung Bộ - Nam Bộ phản ánh sự tranh chấp giữa hai biến thể tr
và gi.
Trong bảng trên cho thấy ở phương ngữ Bắc Bộ có thể dùng cả hai biến thế như
trời và giời, trăng và giăng, trầu và giầu,…nhưng trong ngôn ngữ nói hằn ngày ở
cả Trung Bộ và Nam Bộ thì chỉ tồn tại một biến thể: trời, trăng, trầu,…Việc dùng
song song cả hai biến thể trong một địa phương như ở Bắc Bộ cũng là bằng chứng
của sự tranh chấp.
IV. Vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ:
1. Khái niệm về “chuẩn” và “chuẩn hóa”:
- Trong ngôn ngữ văn hóa, do có sự khác biệt giữa các phương ngữ ( phương ngữ
Bắc, phương ngữ Trung, phương ngữ Nam) và có những yêu cầu khác nhau của
các phong cách (Phong cách ngôn ngữ trong văn học, sinh hoạt, nhà trường…) mà
xuất hiện tình trạng “lưỡng khả”.
10
Lưỡng khả: Khi có hai, ba (đôi khi nhiều hơn) mẫu khác nhau cho cùng một yêu
cầu diễn đạt, thì đó là trường hợp gọi là lưỡng khả.
- Ví dụ: cùng chỉ về một con vật mà người Bắc gọi là “ lợn”, người Nam gọi là
“Heo”. Hoặc cùng chỉ một loại trái cây thì người Bắc gọi “ xoài”, người Nan gọi “
xài”..v.v..
Khi có hiện tượng lưỡng khả xảy ra trong một dân tộc thì để thuận tiện cho việc
giao tiếp xã hội thì đòi hỏi cần phải có “chuẩn” của ngôn ngữ.
“Chuẩn”của ngôn ngữ là một phạm trù ngôn ngữ - xã hội, là kết quả của sự đánh
giá, lựa chọn của xã hội đối với các mẫu mà ngôn ngữ cung cấp. Sự đánh giá, lựa
chọn này không dễ có được sự nhất trí hoàn toàn, nó lại có thể thay đổi tuỳ theo
nhận thức và tâm lí của xã hội. Tính chất bắt buộc cũng như tính ổn định của
chuẩn chỉ là tương đối
Con người có thể tác động trực tiếp đến sự hình thành và sự thay đổi của chuẩn
ngôn ngữ, quá trình tác động này gọi là quá trình “chuẩn hóa ngôn ngữ”. Nói
một cách nôm na, chuẩn hóa là quá trình chuyển hóa ngôn ngữ theo cái chuẩn.
Tác động chuẩn hoá này là một tác động thường xuyên. Chính qua tác động chuẩn
hoá mà con người có thể tác động đến mẫu ngôn ngữ và, trong những điều kiện
nhất định, đến cả cấu trúc ngôn ngữ. Khi tác động chuẩn hoá trở thành một hoạt
động có ý thức rõ rệt, thì đó là “công tác chuẩn hoá”. Đối tượng của công tác
chuẩn hoá chỉ là ngôn ngữ văn hoá, và phạm vi của chuẩn hoá chỉ là những trường
hợp lưỡng khả mà chuẩn chưa được xác định rõ ràng.
2. Mục đích của chuẩn hóa trong phương ngữ:
- Hiên nay trên nước ta được phân làm 3 vùng phương ngữ chính: phương ngữ Bắc
bộ, phương ngữ Nam bộ và phương ngữ Trung bộ. Giữa các phương ngữ có sự
khác nhau về mặt ngữ pháp, từ vựng và ngữ nghĩa.
Ví dụ: về mặt ngữ pháp
Hệ thống đại từ xưng hô:
11
PNB
PNT
PNN
tôi
tui
Tui
tao
Tau
Tao, qua
Chúng tôi
Bầy tui
Tụi tui
Chúng tao
Bầy choa
Tui tao
mày
mi
Mầy
Chúng mày
Bây, bọn bây
Tụi mày
nó
Hắn, nghỉ
Nó
Chúng nó
Bọn hắn
Tụi nó
Ông ấy
Ông nớ
ổng
Bà ấy
Mệ, nớ, mụ
Bả
Cô ấy
O nớ
Cổ
Chị ấy
ả nớ
Chỉ
Anh ấy
Eng nớ
ảnh
PNB
PNT
PNN
Quả dứa
Trấy thơm
Trái gai
Quả roi
Trấy đào
Trái mận
bát
Đọi
chén
ngã
Bổ
té
(dao)cùn
đùi
Lụt, lục
Ngồi xổm
Ngồ chò hõ
Ngồi chồm hỗm
cù
Chọc léc
Thọc cu léc
Ăn vụng
Ăn phúng
Ăn chùng
Thuyền
Nôốc
ghe
Nến
Đèn sáp
Bạch lạp
Quả bóng
Trái ban
Trái banh
Sự khác biệt về từ vựng
12
Mì chính
Vị tinh
Bột ngọt
Cá quả
Cá tràu
Cá lóc
Nhặng
Ruồi lằn
Ruồi xanh
- Vì những sự khác biệt trên cho nên chúng ta phải chuẩn hóa ngôn ngữ để tạo nên
sự thống nhất và đa dạng trong ngôn ngữ tiếng Việt.
3. Nội dung chuẩn hóa từ vựng của phương ngữ: gồm 3 mặt:
- Mặt ý nghĩa của từ ngữ
- Mặt ngữ âm của từ ngữ
- Mặt chữ viết của từ ngữ
3.1. Về mặt ngữ nghĩa:
- Khái niệm: Một đơn vị từ vựng hợp chuẩn là đơn vị có khả năng diễn đạt chính xác
nhất nội dung cần diễn đạt, tự thân nó lại ngắn gọn, không gây hiểu lầm.
Ví dụ: Trước đây, có người đã dùng từ "mẹo" để diễn đạt khái niệm "ngữ pháp".
Mặc dù từ "mẹo" ngắn gọn, lại rất Việt Nam nhưng không chính xác, dễ gây hiểu
lầm nên không thể coi là từ hợp chuẩn. Khi dùng từ này, người ta dễ liên tưởng
đến nghĩa gốc của nó là "chỉ cách khôn ngoan, thông minh được nghĩ ra trong một
hoàn cảnh nhất định để giải quyết việc khó", trong khi ngữ pháp lại là quy luật
khách quan, không phải con người tự nghĩ ra. Mặt khác, khi cần diễn đạt khái
niệm "ý nghĩa ngữ pháp" thì nếu nói "ý nghĩa mẹo" thì thật khó mà hiểu được.
3.2. Về mặt ngữ âm:
- Hệ thống ngữ âm của tiếng Việt được hình thành dần dần trên cơ sở phương ngữ
Bắc Bộ với sự bổ sung thêm một số yếu tố của các phương ngữ khác. Vì thế, đứng
trước những biến thể địa phương, cần lựa chọn biến thể nào phù hợp với hệ thống
ngữ âm chuẩn của tiếng Việt. Chẳng hạn, giữa các biến thể “dô” và “vô”, “nhâng
dâng” và “nhân dân”, “dĩa và đĩa”, “gáo và gạo”,... thì vô, nhân dân, đĩa, gạo,...
là chuẩn. Khi các địa phương dùng các từ khác nhau để chỉ cùng một sự vật, hiện
tượng thì từ của phương ngữ Bắc Bộ được coi là chuẩn. Chẳng hạn, giữa các từ
mô và đâu, nỏ và không, chộ và thấy.. ,. thì các từ đâu, không, thấy là chuẩn.
13
Cần lưu ý là các tiêu chuẩn của cái gọi là chuẩn chỉ tồn tại ở giá trị xã hội của nó
chứ không động chạm đến bản thân hệ thống cấu trúc của nó. Vì thế, những hình
thức ngôn ngữ khác với chuẩn không phải là những hình thức "dưới chuẩn" hoặc
"không chuẩn". Trong những hoàn cảnh giao tiếp nhất định vẫn có thể dùng nó.
Thực tế, chuẩn ngữ âm hình thành dần dần, không thể đòi hỏi các địa phương
trong cả nước phát âm các từ thống nhất ngay được. Tuy nhiên, không thể coi nhẹ
vấn đề chính âm. Vai trò của nhà trường và các phương tiện thông tin đại chúng là
vô cùng quan trọng trong vấn đề này.
3.3 Về mặt chữ viết:
- Chữ quốc ngữ là cơ sở tốt để thống nhất chính tả giữa các vùng. Ngôn ngữ trước
hết là để nói, nhưng trong thực tế giao lưu văn hoá và xã hội ngày nay, chữ viết có
một tác dụng quyết định đối với cuộc sống. Vì thế, chuẩn chính tả là cơ sở để bảo
đảm và củng cố tính thống nhất của ngôn ngữ. Người miền Nam có thể nói coong
cháo, nhâng dâng, dô,... nhưng khi viết thì phải viết con cháu, nhân dân, vô,...
Người miền Bắc có thể phát âm lẫn lộn châu với trâu, lồi với nồi, xung với sung,...
nhưng khi viết thì phải viết con trâu, châu báu, xung đột, bổ sung, lồi lõm, cái
nồi,...
4. Hướng chuẩn hóa trong phương ngữ:
- Quá trình chuẩn hoá tự nhiên đã kết thúc với phần lớn từ, cho thấy một xu hướng
khá rõ: trên cơ sở phương ngữ miền Bắc. Có bổ sung và tận dụng tất cả những
yếu tố từ vựng ít nhiều có tác dụng tích cực của các phương ngữ khác. Công tác
chuẩn hoá đối với phần còn lại của từng địa phương cũng phải theo phương hướng
đó, đẩy mạnh và hoàn thành một quá trình chuẩn hoá đã diễn ra trong khách quan.
- Cần chú ý là với danh từ cụ thể, do ranh giới nghĩa của từ thường không rõ ràng,
14
hiện tượng đồng nghĩa hoàn toàn ít có tác dụng tích cực, nên chuẩn hoá thường là
chọn một từ, thu hẹp phạm vi sử dụng, thậm chí loại bỏ từ kia, trước hết là trong
một số phong cách. Còn với tính từ, động từ, phó từ (và cả danh từ trừu tượng), do
ranh giới nghĩa thường rõ ràng, hiện tượng đồng nghĩa tạo nên sự phong phú của
một ngôn ngữ, nên chuẩn hoá thường không loại trừ bớt từ địa phương, mà tận
dụng, khai thác khả năng diễn đạt của các từ địa phương.
- Do đặc điểm của từ vựng (hệ thống mở, gồm một số lượng đơn vị vô cùng lớn,
lại luôn luôn có biến đổi), chuẩn từ vựng là phức tạp nhất. Ranh giới giữa chuẩn không chuẩn không phải lúc nào cũng rõ ràng, lại luôn luôn có những di động, từ
chuẩn trở thành không chuẩn và ngược lại.
- Phương ngữ tiếng Việt là một trong những hiện tượng đặc sắc. Nó tạo ra tính
đa dạng, phong phú cho tiếng Việt. Vì vậy khi tiến hành chuẩn hóa phương ngữ ta
cần phải: Tiến hành công tác chuẩn hoá thường xuyên, tích cực, mặt khác lại đòi
hỏi nên tránh những quy định quá chặt chẽ, cứng nhắc, máy móc, thường là kết
quả của sự tư biện hoặc của những nghiên cứu vội vàng. Nói như L. Shcherba):
“Chuẩn hoá quá đáng là tai hại, nó làm cho ngôn ngữ mất linh hoạt, do đó mất hết
sinh khí”.
5. Kết luận vấn đề chuẩn hóa trong phương ngữ:
- Một chuẩn ngôn ngữ cuối cùng có hình thành và thực tế có tồn tại được hay
không, là do số đông có thật sự chấp nhận và vận dụng nó hay không trong thực
tiễn ngôn ngữ của mình. Cho nên cần có sự nhạy cảm đối với những ý kiến, tán
thành hay phản đối, của số đông, để tránh cái khuyết điểm cần tránh nhất trong
công tác chuẩn hoá: mâu thuẫn giữa chuẩn quy định trong sách vở, trên báo chí,
với chuẩn tồn tại khách quan trong thực tiễn ngôn ngữ hằng ngày của số đông.
V. Cách tiếp cận và nghiên cứu phương ngữ học:
15
Hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới đều có biến dạng địa phương và được biểu
hiện dưới dạng ngôn ngữ địa phương đó. Phương ngữ là phương tiện diễn đạt và
giao tiếp của một địa phương ( khu vực) dân cư. Bởi thế phương ngữ học là một
khoa học liên ngành, những tri thức, hiểu biết về các ngành khoa học khác cũng
giúp ích rất nhiều cho các nhà phương ngữ học.
Vấn đề đặt ra đầu tiên là vạch ranh giới các phương ngữ. Đây là vấn đề phức tạp,
đòi hỏi phải xem xét các hiện tượng ngôn ngữ trên nhiều phương diện. Một trong
những việc quan trọng là lập các bản đồ phương ngữ.
Để tiến hành xây dựng các bản đồ phương ngữ, người ta dùng phương pháp lập
các phiếu điều tra thăm dò. Tữ năm 1876, nhà ngôn ngữ học người Đức George
Wenker đã gửi 40 câu đơn giản tới các giáo viên ở các trường phổ thong cơ sở ở
những nơi có trên 40 ngàn dân. Qua các câu trả lời, ông tiến hành lập bản đồ các
vùng phương ngữ Đức. Công việc này được F.Wrede và Th.Frings tiếp tục và
hoàn thiện, trên cơ sở các bản điều tra, nhưng mãi đến nawm1926 công trình này
mới được xuất bản. Công trình điều tra của J.Gillieron và E.Edmont được tiến
hành trong các năm 1897-1901 theo một danh sách các từ ngữ đã được phân loại
và gần một 100 câu đơn giản, từ đó lập ra 1920 bản đồ phương ngữ_ những bản
đồ của những vùng đồng ngữ. Chúng được tập hợp lại, kết hợp thành các đồng
ngữ tuyến giữa các phương ngữ. Phuong pháp của hai tác giả này trở thàng nền
tảng cho nhiều công trình phương ngữ tiếp theo sau này.
- Trong phương ngữ học, không chỉ có lập bản đồ phương ngữ. Người ta còn tiến
hành miêu tả từ vựng của các phương ngữ và xây dựng các từ điển phương ngữ.
Trong các loại từ điển này có thể miêu tả chi tiết các phương diện khác nhau trong
đời sống của cư dân một vùng nào đó. Chẳng hạn, A.O.Podvysotskij đã miêu tả từ
vựng và lời nói của người dân phương bắc, vùng Ác- khăng- ghen theo các
16
phương diện: đánh bắt cá- thuyền bè, công cụ săn bắn- hoa quả, giày dép- đồ ăn
thức uống- tín ngưỡng- phong tục- lễ nghi… Như thế, ít nhất đay cũng là một tập
từ vựng cung cấp tu liệu cho các nhà ngiên cứu dân tộc học và ngôn ngữ học. Cho
nên, để làm tốt công việc này cũng cần biết những tri thức tối thiểu về dân tộc học
và ngược lại.
- Trong nghiên cứu PNNB và PNBB các nhà nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương
pháp so sánh- đối chiếu để miêu tả các đặc điểm về từ vựng- ngữ nghĩa của 2
vùng phương ngữ này. Họ thu thập các cứ liệu cần thiết rồi dựa vào cảm nhận của
người bản địa mà phân tích, khảo sát. Sau đó, thực hiện các chuyến đi điền dã để
kiểm tra lại.
- Khi so sánh các đặc điểm của từ địa phương Nam Bộ với các từ địa phương Bắc
Bộ, các nhà nghiên cứu còn dùng các phương pháp phân tích từ vựng- ngữ
nghĩa, chẳng hạn, phương pháp phân tích thành tố khi khảo sát nhóm từ sông
nước trong PNNB và phương pháp thống kê khi khảo sát các từ láy trong PNBB.
VI. Ý nghĩa của việc nghiên cứu phương ngữ:
Nghiên cứu phương ngữ một mặt chỉ ra nhưng cái khác khác biệt, một mặt chỉ ra
được ra những cái giống nhau và khả năng tiếp nhận những yếu tố của ngôn ngữ
toàn dân vào phương ngữ, cũng như sự lan tỏa phương ngữ trong ngôn ngữ toàn
dân: các từ hết sẩy, lai rai, tùm lum, nhậu nhẹt,..của PNNB cũng được dùng
trong PNBB.
Nghiên cứu phương ngữ cũng có ý nghĩa quan trọng về mặt thực tiễn. Trước hết,
nó giúp cho việc giảng dạy và học tập Tiếng Việt trong nhà trường được tốt hơn,
vì học sinh lớn lên trong một cộng đồng phương ngữ, cần hiểu mối quan hệ giữa
phương ngữ và ngôn ngữ toàn dân hơn là chỉ được giảng dạy thuần Tiếng việt
toàn dân.
17
Điều đó cũng đòi hỏi các nhà nghiên cứu, các nhà sư phạm khi biên soạn sách
giáo khoa, biên soạn từ điển chú ý đúng mức việc giải thích các đặc điểm của
phương ngữ so với ngôn ngữ toàn dân.
Trong sáng tác văn học, nhà văn, nhà thơ có thể đưa từ địa phương vào tác phẩm
của mình, nhưng cần đưa vào như thế nào, mức độ sử dụng như thế nào để có
được sắc thái địa phương mà vẫn gây được hiệu quả cao về mặt thẩm mỹ và về
mặt cảm xúc.
18