TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - KĨ THUẬT BÌNH DƯƠNG
KHOA KĨ THUẬT - CÔNG NGHỆ
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
HAI MƯƠI NĂM QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ
GIẢNG VIÊN: DOÃN THỊ HUỆ
LỚP: D14DO3A
NHÓM: 1
Bình Dương, ngày 13 tháng 10 năm 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - KĨ THUẬT BÌNH DƯƠNG
KHOA KĨ THUẬT - CÔNG NGHỆ
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
HAI MƯƠI NĂM QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ
GIẢNG VIÊN: DOÃN THỊ HUỆ
LỚP: D14DO3A
NHÓM: 1
Bình Dương, ngày 13 tháng 10 năm 2015
MỞ ĐẦU
Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ không
khởi đầu từ 20 năm trước, khi hai
nhà nước thiết lập quan hệ ngoại
giao, mà đã bắt nguồn từ trước đó
rất lâu.
Tổng thống Thomas Jefferson là
người Mỹ đầu tiên quan tâm đến
nước Việt Nam. Sau đó hơn
thế kỷ rưỡi, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã mở đầu bài diễn văn khai sinh
ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa bằng một câu nổi tiếng: "Mọi
người sinh ra đều có quyền bình
đẳng...", đó cũng là lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776,
và tác giả không phải ai khác ngoài Thomas Jefferson. Bắt đầu từ số báo này,
chúng ta sẽ điểm lại một số cột mốc đáng nhớ trong mối quan hệ giữa hai quốc
gia.
Tàu Peacock từng đến Việt Nam vào thế kỷ 19
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
MỤC LỤC
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
CHƯƠNG 1: QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT-MĨ TRONG LỊCH SỬ
1.1. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRƯỚC NĂM 1954
1.1.1 "Cha đẻ" của nước Mĩ tìm giống lúa xứ Đàng Trong
Trong cuốn US - Vietnam 1787 - 1941, tác giả Hopkins Miller viết rằng sau khi tuyên bố độc
lập (1776), Chính phủ Hoa Kỳ lần đầu tiên đã biết đến xứ "Cochinchina" tức là "Đàng Trong".
Tháng 7.1787, Công sứ Hoa Kỳ tại Pháp lúc bấy giờ là Thomas Jefferson đang ở Paris tham gia
các cuộc đàm phán thương mại đã ngỏ ý muốn mua giống gạo của xứ Đàng Trong. Ông đã viết
một lá thư cho bạn ở Mỹ: "Ông Poivre người thầu thuế vùng Ile-de - France, đang đi thăm
nhiều nước châu Á, Ông cho biết là ở Đàng Trong trồng nhiều giống lúa, có ba giống cần nước,
có ba giống mọc ở vùng cao". Ý định của Jefferson lúc đó rất rõ ràng: "Lúa cạn Đàng Trong nổi
tiếng là trắng thơm và phát triển tốt, tôi sẽ cố cho đem về ít lúa Đàng Trong". Và vị tổng thống
tương lai của Hoa Kỳ lúc đó đã liên hệ với con trai của Nguyễn Ánh là Hoàng tử Cảnh để tìm
giống lúa. 8Do không đi tới kết quả nên 4 tháng trước khi cách mạng Pháp bùng nổ (1789)
Jefferson tiếp tục viết thư cho Malesherbes - chính khách Pháp và cũng là nhà nghiên cứu thực
vật học - với nội dung: "Nếu ngài có thể bận tâm kiếm cho tôi ít giống lúa Đàng Trong thì thật
quả là ông có công lớn đối với đồng hương của tôi". Nhưng cuối cùng Malesherbes đã không
giúp được Jefferson.
1.1.2. Bản hiệp định thương mại dở dang
Năm 1829, khi Tổng thống Andrew Jackson lên nhậm chức, một phái bộ do Edmund
Roberts được đích thân tổng thống cử sang đem theo dự thảo hiệp định thương mại để có thể
thay mặt Chính phủ Mỹ ký với triều đình nhà Nguyễn. Đầu tháng 1.1832 chiến hạm Peacock chở
phái bộ đến Vũng Lấm (nay thuộc Khánh Hòa) vì cách xa thủ đô Huế. Vua Minh Mạng lệnh cho
Viện ngoại lang Nguyễn Tri Phương và Tư vụ Lý Văn Phức mở tiệc khoan đãi long trọng. Vua
chuẩn bị cho lần sau đậu thuyền tại vịnh Trà Sơn (Tức Cửa Hàng)
Năm 1836 lần thứ hai phái bộ Mỹ vẫn do Edmund Roberts làm trưởng đoàn, cập bến vịnh
Trà Sơn để xin được yết kiến trình quốc thư. Ngay trong bức thư đầu tiên này, Tổng thống
Andrew Jackson đã nói rõ ý định giao hảo của Chính phủ Hoa Kỳ "thư này sẽ được trình Bệ hạ
bởi ngài Edmund Roberts, một công dân khả kính của Hoa Kỳ, được cử làm đặc sứ mang trọng
trách chuyển tới Bệ hạ những việc hệ trọng của bản quốc. Tôi xin Bệ hạ bảo hộ cho ông ta
trong khi phụng mệnh và đối đãi với ông ta một cách bao dung và tin cậy, xin hãy hoàn toàn
tin tưởng vào những gì mà ông ta nhân danh nhắc lại lời cam đoan về tình hữu hảo và thiện
chí đối với Bệ hạ". Tuy nhiên, chuyến đi mở đường này tiếc thay lại chỉ dừng lại ở một bữa tiệc
chiêu đãi và không giải quyết được vấn đề cụ thể. Nguyên nhân là do Edmund Roberts bị bệnh
và mất đột ngột tại Ma Cao, không hoàn thành được nhiệm vụ và cũng bỏ lỡ cơ hội bang giao
giữa hai nước.
1.1.3 "Đại sứ đặc mệnh toàn quyền" Bùi Viện
Có thể xem nhà cải cách Bùi Viện như là một "đại sứ đặc mệnh toàn quyền" đầu tiên của
Việt Nam đi sang Mỹ. Một vị đại sứ đặc mệnh mà điểm đặc biệt là ra đi chỉ một mình, không
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 5
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
quốc thư, không có tùy tùng chính thức. Một vị đại sứ được quyền tùy ý lựa chọn nước mình
đến, và toàn quyền quyết định vấn đề trao đổi thảo luận.
Nửa cuối thế kỷ XIX, trong lúc Thiên Hoàng Minh Trị đang đưa nước Nhật Bản tiến mạnh
mẽ vào con đường duy tân thì tình hình nước Việt Nam ngày càng có nguy cơ mất nốt Trung Kỳ,
Bắc Kỳ. Vua Tự Đức nhu nhược trước âm mưu mở rộng xâm lược của thực dân Pháp, bác bỏ đề
nghị cách tân của Nguyễn Trường Tộ và nhiều nhà cách tân tâm huyết khác. Tuy vậy, ông vẫn
muốn nắm tình hình phương Tây để liệu điều chỉnh chính sách nên Vua Tự Đức cử Bùi Viện, một
nhà nho thức thời và năng động, đi ra nước ngoài.
Tháng 7.1873 Bùi Viện vượt biển ra đi, sau hai mươi ngày lênh đênh trên biển ông đến
được Hồng Kông. Đầu tiên Bùi Viện đến Lãnh sự Mỹ tại Hồng Kông. Tại đây ông kết giao với một
sứ giả Mỹ và được ông này giúp đỡ để tiếp kiến Tổng thống Mỹ. Sau đó ông rời Hồng Kông sang
Nhật Bản và đến cảng Yokohamaxuống tàu đi Mỹ. Bùi Viện đến San Francisco rồi đến thủ
đô Washington. Ở đây ông được Tổng thống Mỹ Ulysses Grant tiếp và hứa sẽ giúp Việt Nam bảo
vệ đất nước. Nhưng Bùi Viện không có quốc thư ủy nhiệm nào để có ký kết hiệp ước liên kết.
Thất vọng, Bùi Viện đành xuống tàu quay về nước.
Chuyến đi Mỹ lần thứ hai của Bùi Viện là vào năm 1875. Có trong mình quốc thư của Vua
Tự Đức, ông hy vọng sẽ đạt những điều mong muốn. Tuy nhiên, bối cảnh trên thế giới lúc này
các nước đế quốc đã thỏa thuận xong việc phân chia phạm vi thế lực lần thứ nhất. Pháp cũng đã
đứng vững ở Việt Nam. Còn Mỹ thì có bao nhiêu việc cần ổn định trong nước sau nội chiến, tình
hình quốc tế cũng chưa có lợi cho họ. Bùi Viện lại ôm mối thất vọng trở về.
Nếu trước đây Edmund Roberts hai lần tới Việt Nam mà đại sự không thành thì Bùi Viện
cũng hai lần sang Mỹ mà cũng trở về tay không, hai nước vẫn chưa thiết lập được quan hệ ngoại
giao. Khi nước Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, Mỹ đặt lãnh sự quán tại Sài Gòn và Hà
Nội trong lúc đó họ cai trị Philippin sau khi đánh bại Tây Ban Nha.
1.1.4 Trong chiến tranh Đông Dương (1945-1954)
Cả hai cuộc tiếp cận lịch sử đều thất bại và từ đó Hoa Kỳ từ bờ Thái Bình Dương đứng nhìn
quá trình chủ nghĩa thực dân Pháp bóc lột nhân dân Việt Nam cho tới khi nó bị gót sắt của chủ
nghĩa quân phiệt Nhật Bản đè bẹp trong chiến tranh thế giới thứ II.
Nằm dưới sự đô hộ, cai trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã không
ngừng đấu tranh để giành lại độc lập tự do và khi cách mạng Tháng 8 - 1945 thắnglợi hoàn toàn,
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời đã chấm dứt hơn 80 năm chế độ Pháp thuộc. Nhưng
ngay sau khi giành được độc lập, theo qui định của Hiệp ước Postdam, Đông Dương chia làm 2
khu vực để giải giáp quân Nhật: khu vực phía Bắc từ vĩ tuyết 16 trở lên, khu vực phía Nam từ vĩ
tuyến 16 trở xuống. Quân Tưởng Giới Thạch kéo vào miền Bắc Việt Nam, quân Anh kéo vào
miền Nam Việt Nam đại diện cho lực lượng đồng minh giải giáp quân Nhật.
Ngay trong thời kỳ này, giữa Việt Nam và Mỹ cũng bắt đầu có quan hệ bang giao thông qua
hợp tác tích cực chống quân đội Phát xít. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, khi nước Mỹ tham
gia đồng minh, đang trong hàng ngũ lực lượng dân chủ toàn thế giới chống phe trục: Đức - Ý Nhật, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động đặt quan hệ với Mỹ. Trong suốt thời gian lưu lại Trung
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 6
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Quốc, sau khi được chính quyền Tưởng Giới Thạch trả tự do (1943-1944), Hồ Chí Minh đã làm
quen với một số sỹ quan Mỹ đang hoạt động ở Trung Quốc. Trong chuyến đi Côn Minh, Trung uý
Mỹ Charles Fenn gặp Hồ Chí Minh ngày 17/3 rồi lại gặp ngày 20/3 Fenn ngỏ ý mong muốn được
Việt Minh giúp đỡ. Hồ Chí Minh nhận lời nhưng nói không có phương tiện thông tin. Do sự sắp
xếp của Fenn, Hồ Chí Minh gặp tướng Claire I.Chennault, tư lệnh quân đoàn không quân 14 của
Mỹ. Ngày 27/4 Hồ Chí Minh trên đường về nước gặp thiếu tá Archimeder L.A.Patti thuộc tổ chức
OSS tại một làng nhỏ gần Tĩnh Tây (Trung Quốc). Cùng đi với Người là 2 người Mỹ: Franckie Tan,
gốc Hoa và Maxim.
Ngày 16/7, thiếu tá Thomas cùng một số người Mỹ nhảy dù xuống làng Kimlung và được
bố trí ở Tân Trào (Tuyên Quang). Số người Mỹ này làm việc liên lạc với cơ quan Mỹ ở Côn Minh
và huấn luyện kỹ thuật cho một số cán bộ quân sự của quân giải phóng. Người Mỹ cũng đã cung
cấp cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men bằng cách thả dù xuống khu căn cứ Việt Bắc hoặc
đưa đến Nam Ninh (Trung Quốc) để Việt Minh chuyển về nước. Đến tháng 8 thì nhóm Thomas
theo quân du kích của Hồ Chí Minh xuôi về Hà Nội, trở thành nhân chứng của một trong những
sự tích thần kỳ nhất trong lịch sử Việt Nam - ngày Việt Nam tuyên bố độc lập.
Với cương vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, lại trực tiếp phục trách công tác
ngoại giao, Hồ Chí Minh đã thảo bản tuyên bố về chính sách ngoại giao trong đó khẳng định chủ
trương quan hệ hoà bình hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới, trên cơ sở bình đẳng, tôn
trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước. Với Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì những quan hệ đã
có trong chiến tranh. Nhân dân Chính phủ Việt Nam, Người đã gửi hàng chục bức thư, điện,
công hàm tới Tổng thống Truman, Chính phủ và Bộ Ngoại giao Mỹ. Nội dung của các văn bản ấy
xoay quanh vấn đề yêu cầu Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, khẳng định sự hợp tác của
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Tháng 10/1945 Tổng thống Truman ra tuyên bố 12 điểm về chính sách đối ngoại của Mỹ,
Hồ Chí Minh đã bày tỏ thái độ hoan nghênh và mong muốn Chính phủ Mỹ sẽ thực hiện đúng
tinh thần của Bản tuyên bố, ủng hộ chủ quyền của các dân tộc nhược tiểu. Song lúc này Chính
phủ Mỹ đã ngả hẳng sang chủ trương ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương. Những cố gắng trong
quan hệ ngoại giao chính thức với Mỹ đã không đạt kết quả. Tuy vậy, Việt Nam vẫn luôn chú ý
đến việc giữ tôn trọng của Chính phủ mình đối với vai trò của Mỹ trong đồng minh, sự có mặt
của đại diện phái bộ Mỹ trong các buổi lễ ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 cũng như trong các
văn bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Chính phủ Mỹ đã nói lên điều đó.
Trong thời gian này, tuy quan hệ ngoại giao chính thức không thành công nhưng quan hệ
của Việt Nam với Chính phủ Mỹ vẫn có dấu hiệu khả quan thông qua hình thức ngoại giao nhân
dân mà điển hình là Hội hữu nghị Việt - Mỹ.
Ngày 2/9/1947, trong thư gửi Việt - Mỹ ái hữu hội, Hồ Chủ Tịch đã viết: "Chúng ta không
bao giờ quên sự hợp tác giúp đỡ thân ái của các bạn người Mỹ hồi chúng ta du kích chống
Nhật và chúng ta mong rằng sự hợp tác đó được tiếp tục trong cuộc tranh đấu của chúng ta
chống thực dân phản động Pháp giành thống nhất và độc lập. Chúng ta mong rằng Hoa Kỳ,
nước đầu tiên đã tranh đấu cho nền độc lập và dân chủ của quốc gia,... sẽ giúp chúng ta trong
công cuộc đấu tranh giải phóng hiện nay và trong công cuọc kiến thiết xây dựng sau này".
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 7
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trong chiến tranh Đông Dương (1945-1954), Mỹ đã giúp Pháp trong cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam và tái chiếm thuộc địa của họ. Đến cuối chiến tranh, 80% chiến phí chủ yếu của
Pháp do Mỹ tài trợ, lên đến 1,5 tỷ USD. Trong trận Điện Biên Phủ, Mỹ trực tiếp chở khoảng 16
ngàn quân Pháp vào Điện Biên Phủ và hỗ trợ không quân cho quân đội Pháp. Nhờ điều đó
mà thực dân Pháp mới có thể duy trì được cuộc chiến.
1.2. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRONG CHIẾN TRANH CHỐNG MĨ ( 1954 – 1975)
Trong Chiến tranh Việt Nam (1954-1975), sau khi Pháp thua, Mỹ đã thế chân Pháp can
thiệp trực tiếp vào Việt Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diêm đã chứng tỏ rõ ràng ý
đồ của Mỹ. Ngày 23/10/1954, khi Eisenhour gửi bức thư cho Ngô Đình Diệm cam kết Mỹ ủng hộ
hoàn toàn và sẽ viện trợ đối với chế độ của ông ta. chính phủ Mỹ hậu thuẫn Việt Nam Cộng
hòa chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rồi cả Mặt trận Giải phóng miền Nam.
Mỹ có tham gia Hội nghị Geneve năm 1954 với một phái đoàn do Bedell Smith làm trưởng
đoàn nhưng cũng như phái đoàn Quốc gia Việt Nam, không ký bản hiệp định. Khi chính phủ Đệ
nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm từ chối tổng tuyển cử, Hoa Kỳ cũng ủng
hộ lập trường đó. Dựa trên thuyết Domino trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh Hoa Kỳ tăng viện trợ
cho Việt Nam Cộng Hòa. Đến năm 1963 có hơn 16.000 cố vấn quân sự Hoa Kỳ và đến đầu
năm 1965 thì Tổng thống Lyndon B. Johnson cho đổ bộ lực lượng Thủy quân lục chiến, chính
thức tham chiến. Đến năm 1973, đã có trên 600.000 binh lính Mỹ và đồng minh chiến đấu trên
chiến trường miền Nam Việt Nam.
Năm 1967 ta mở mặt trận ngoại giao phối hợp với mặt trận quân sự và mặt trận chính trị
cùng đánh Mỹ. Ta tăng cường đoàn kết với Liên Xô và Trung Quốc cùng các nước xã hội chủ
nghĩa khác, củng cố và phát triển mặt trận nhân dân Đông Dương, đoàn kết với phong trào phản
chiến ở Mỹ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Tuy nhiên, Nhà nước Việt Nam luôn luôn phân biệt rõ bạn - thù, phân biệt rõ nhân dân Mỹ
với những nhà cầm quyền của Mỹ theo đuổi chính sách chiến tranh. Mục đích của nhân dân
Việt Nam là đấu tranh để giành độc lập tự do, đem lại hạnh phúc cho dân tộc và chung sống hoà
bình với cộng đồng thế giới trên cơ sở bình đẳng, hữu nghị. Vì vậy Chính phủ và nhân dân Việt
Nam sẵn sàng đàm phán với điều kiện là quân Mỹ phải rút khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam. Với
mục đích đó, ta chủ trương buộc địch xuống thang từng bước, giành thắng lợi từng phần. Sau
thắng lợi tết Mậu Thân (1968), Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, mở cho ta cục diện vừa
đánh vừa đàm, kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao, tạo điều kiện cho thắng lợi sau này.
Sau bốn năm kiên trì đấu tranh, thương lượng, vào năm 1973, Mỹ phải ký Hiệp định Paris,
với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và rút quân chính quy ra khỏi chiến trường miền Nam Việt
Nam.
Trong cuộc chiến này, quân đội Hoa Kỳ đã gây ra nhiều tội ác đối với dân thường Việt Nam,
mà nghiêm trọng nhất là chất độc màu da cam (chất độc DIOSIN) gây ra hậu quả đến ngày nay.
1.3. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ GIAI ĐOẠN (1976-1995)
Khoảng tháng 6 năm 1975, Việt Nam có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp
không chính thức: "Lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tán thành có quan hệ tốt với Mỹ
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 8
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Trên tinh thần đó, phía Việt Nam đã tự kiềm chế trong khi giải
phóng, hytạo cơ hội cho người Mỹ không bị cản trở trong việc tiến hành di tản nhân viên của
họ. Phía Việt Nam đã cố gắng làm mọi sự cần thiết để không làm xấu đi quan hệ với Mỹ trong
tương lai. Không có sự thù địch với Mỹ ở Việt Nam và Việt Nam cũng không muốn thấy như
vậy ở phía Mỹ". Tiếp theo đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trước Quốc hội: "Việt Nam mời
gọi Hoa Kỳ bình thường hóa và yêu cầu chính quyền Mỹ chi tiền tái thiết như đã hứa".
Ngày 7 tháng 5 năm 1976, Tổng thống Gerald R. Ford đề nghị Quốc hội Hoa Kỳ tạm ngưng
cấm vận Việt Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện cho việc đối thoại giữa hai nước. Ngày 8
tháng 5 năm 1976, Bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger gửi công hàm cho Quốc Vụ khanh Bộ
Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận vấn đề bình thường hóa quan hệ hai nước
Ngày 6 tháng 1 năm 1977, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra lộ trình ba bước bình thường hóa
quan hệ với Việt Nam. Và phía Hoa Kỳ cũng đưa ra điều kiện để nối lại bang giao là Việt Nam
phải làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ mất tích (MIA), trao trả hài cốt lính Mỹ. Phía Việt Nam cũng
đòi Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh, trong khi đó Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Hiệp
định Paris nên không thể bàn đến khoản tiền bồi thường.
Trong 2 năm 1975-1976, Mỹ 3 lần phủ quyết việc Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc Ngân
hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). Mỹ làm ngơ
trước thiện chí mà Chính phủ ta đã nhiều lần bày tỏ để tạo điều kiện cho 2 bên có thể gặp nhau,
nhằm giải quyết vấn đề còn lại giữa 2 bên.
Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đã nỗ lực đẩy mạnh việc bình
thường hóa quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ. Tháng 3 năm 1977, Carter gửi một phái đoàn sang Hà nội
do ông L.Woodcook dẫn đầu để bàn về việc nối lại bang giao. Ngày 17 tháng 3 năm 1977, tại Hà
Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã tiếp Leonard Woodcock. Ngày 4 tháng 5 năm 1977,
chính quyền Carter đồng ý để Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc.
Ngày 3 tháng 5 năm 1977, phiên đàm phán đầu tiên giữa hai phái đoàn Việt Nam - Hoa Kỳ
đã diễn ra tại Paris. Phía Việt Nam khăng khăng đòi Mỹ phải chi 3,25 tỷ đô-la bồi thường chiến
tranh. Phía Hoa Kỳ đề nghị bình thường hóa trước, viện trợ sau. Trưởng đoàn đàm phán Phan
Hiền báo cáo với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng không được.
Trong khi các cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chưa có một chút biến chuyển gì thì
tình hình quốc tế có nhiều thay đổi. Khi Biên giới Tây Nam được đặt trong tình trạng chiến tranh
và Trung Quốc đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là kẻ thù,
Việt Nam bắt đầu nhận thấy vai trò quan trọng của việc bình thường hóa với Hoa Kỳ, một siêu
cường trên thế giới. Đầu năm 1978, tại Tokyo, ông Phan Hiền thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam
tuyên bố: "Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa vô điều kiện với Hoa Kỳ". Nhưng lúc này Mỹ và
Trung Quốc bắt đầu có sự hợp tác để đi đến bình thường hoá quan hệ, Mỹ đã bàn với Trung
Quốc để xây dựng mối quan hệ chiến lược lâu dài giữa 2 nước trong đó có cả việc phối hợp để
chống Liên Xô. Cuối 1978, Trung Quốc và Mỹ xúc tiến đàm phán để bình thướng hoá quan hệ.
Đối với Việt Nam, Tổng thống Mỹ J.Carter đã quyết định xếp lại kế hoạch đàm phán. Vậy là cơ
hội thiết lập quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ một lần nữa lại tuột khỏi tầm tay và bị bỏ lỡ.
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 9
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trong một nỗ lực cuối cùng, tháng 10 năm 1978, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các nhà đàm
phán Hoa Kỳ ký thỏa thuận bình thường hóa. Nhưng Hoa Kỳ đã từ chối khéo: "Mỹ không thay
đổi lập trường bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ ba
vấn đề: sự thù địch của Việt Nam với Campuchia; Hiệp ước Việt-Xô và tình trạng gia tăng
thuyền nhân Việt Nam". Tuy nhiên theo ông Trần Quang Cơ viết trong hồi ký "Hồi ức và suy
nghĩ" thì: "Tôi nghĩ, thực ra Mỹ đã quyết định dứt bỏ quá trình đàm phán bình thường hoá
quan hệ với Việt Nam từ khi Việt Nam tham gia khối Comecon, tháng 6-1978, và sau đó, ký
hiệp ước với Liên Xô". Sau đó thì việc bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ bị gián đoạn bởi các
cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam và Chiến tranh biên giới Việt - Trung.
Trong thập niên tám mươi chính quyền của Tổng thống Reagan (1980-1988) phản đối việc
bình thường hóa cho đến khi có sự xác nhận Việt Nam đã rút hết quân ở Campuchia và có sự
hợp tác đầy đủ của Việt Nam trong việc tìm kiếm những người Mỹ mất tích.
Ngày 20/1/1988 Tổng thống Regan tuyên bố: Trong khung cảnh một giải pháp cho vấn đề
Campuchia bao gồm Việt Nam rút hoàn toàn quân đội ra khỏi Campuchia, Mỹ sẵn sàng đi vào
bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên cơ sở tiến bộ trong vấn đề MIA trở lại trại cải tạo.
Năm 1989, Tổng thống Bush đắc cử và đã quyết định thay đổi chính sách đối với Việt Nam,
mở ra một thời kỳ mới với nhiều hy vọng.
Ngày 26/9/1989, Việt Nam hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia.
Ngày 6/8/1990 đối thoại Việt - Mỹ vòng 1 giữa đại sứ Trịnh Xuân Lãng và Phó trợ lý Bộ
trưởng Ngoại giao K.Quyn về quan hệ Việt - Mỹ.
Từ ngày 29 đến 30/9/1990 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gặp Bộ trưởng Ngoại
giao Giêm UBây - Cơ tại Niu Joóc.
Ngày 9/4/1991, phía Mỹ đưa ra lộ trình (Roadmaping) bốn bước bình thường hoá quan hệ
với Việt Nam lần đầu tiên đưa ra công khai, chính thức chính sách đối với Việt Nam.
Ngày 20/4/1991, Tướng Vétxi vào Việt Nam lần 2, bàn về vấn đề lập văn phòng MIA tại Hà
Nội.
Ngày 25/4/1991 phía Mỹ tuyên bố lần đầu tiên viện trợ 1 triệu USD giúp Việt Nam về lĩnh
vực chân tay giả.
Ngày 23/10/1991 Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Giêm
Bây - Cơ tại Pari nhân dịp ký Hiệp định Pari về Campuchia.
Từ 31/1/1992 đến 1/2/1992 đặc phái viên tướng G. Vét - xi vào Việt Nam lần thứ tư bàn về
các biện pháp thúc đẩy vấn đề MIA và các vấn đề khác trong quan hệ Việt - Mỹ.
Ngày 8/10/1992 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp ngoại trưởng Mỹ
Eagleburger và Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chenry lần đầu tiên tại Bộ ngoại giao Mỹ trao đổi về
quan hệ giữa hai nước.
Ngày 23/10/1992, Tổng thống Bush tuyên bố rằng Mỹ sẽ nhanh chóng tiến tới bình thướng
hoá, kể cả bãi bỏ cấm vận, nếu những tấm ảnh và bằng chứng mà Việt Nam trao có thể bổ xung
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 10
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
cho việc giải quyết số phận các quân nhân Mỹ bị mất tích, những người mà Mỹ tin rằng Việt
Nam có những tin tức cuối cùng.
Năm 1993, Bill Clinton đắc cử Tổng thống Mỹ. Chính quyền của Clintơn cũng kế thừa chính
sách "lộ trình" của chính quyền G.Bush, trong đó cốt lõi của quá trình bình thường hoá quan hệ
vẫn là "tốc độ và qui mô" của quá trình bình thường hoá bị tác động bởi sự hợp tác của Việt
Nam về vấn đề POW/MIA. Tuy rằng lộ trình 4 giai đoạn cho quá trình bình thường hoá quan hệ
với Việt Nam do chính quyền Mỹ công bố tháng 4/1991 không chính thức được coi là bản chỉ
dẫn tuyệt đối cho việc cải thiện quan hệ 2 nước nhưng trên thực tế nhiều bước đi đã diễn ra
theo đúng lịch trình này. Ở giai đoạn 3, có 2 điều kiện Việt Nam phải thực hiện là:
Một là tiếp tục ủng hộ và khuyến khích sự ủng hộ của Chính phủ Phnôm Pênh với Hiệp
định hoà bình Campuchia, rút hết các cố vấn, lực lượng quân sự Việt Nam ra khỏi Camuchia.
Hai là Giải quyết các trường hợp POW/MIA không trùng khớp thông tin. Trên thực tế, điều
một Việt Nam đã hoàn thành và điều hai cũng được giải quyết tích cực với sự giúp đỡ to lớn của
Việt Nam. Phía Mỹ đã thực hiện đầy đủ các điều ghi trong khoản 3: Huỷ bỏ hoàn toàn lệnh cấm
vận kinh tế đối với Việt Nam ngày 3/2/1994, mở văn phòng liên lạc và ngoại giao tại Hà Nội và
mời Việt Nam lập văn phòng tại Washingtơn cũng như ủng hộ các cơ quan hành chính quốc tế
viện trợ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người ở Việt Nam.
Ở giai đoạn 4, không có đòi hỏi bổ xung yêu cầu Việt Nam thực hiện trong giai đoạn này,
Mỹ sẽ lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ với Việt Nam, xem xét việc giành chế độ tối huệ quốc
cho buôn bán với Việt Nam của Mỹ.
Ngày 28/1/1995, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Mỹ chính thức thông báo mở cơ quan
liên lạc ở thủ đô 2 nước.
Với nỗ lực và thiện trí của cả hai bên, 7/1995 chính thức bình thường hoá quan hệ
ngoại giao. Đây là một bước đi quan trọng đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước,
phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của tình hình quốc tế, đồng thời góp phần vào sự
nghiệp hoà bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam Á.
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT MĨ TỪ NĂM 1995 ĐẾN
NAY
2.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
Sau khi trật tự hai cực tan rã, tình hình thế giới đã có nhiều diễn biến thay đổi với những
nét nổi bật là :
Một là, thế giới phát triển nhanh chóng theo hướng đa cực, tuy vậy cục diện đa cực chưa
hẳn đã hình thành mà đang trải qua thời kỳ quá độ từ Trật tự cũ để tiến tới một Trật tự mới. Có
người dự đoán thời kỳ quá độ này phải kéo dài trong nhiều năm, có thể từ 30 đến 50 năm, bởi
sự chuyển đổi cục diện thế giới lần này mang đặc điểm mới, quan trọng nhất là không trải qua
chiến tranh như các cục diện trước kia. Thế giới hiện đang trong tình hình "một siêu cường,
nhiều cường quốc", đó là các nước Mỹ, Tây Âu (EU) Nhật Bản, Nga và Trung Quốc.
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 11
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Hai là, sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mỹ một lợi thế tạm thời. Là cực duy nhất còn lại,
Mỹ ra sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trò chi phối bá chủ thế giới. Nhưng mặt
khác, tuy là cực duy nhất còn lại, nhưng tình hình thế giới lại không phải là thế giới một cực. Mỹ
đã bị suy yếu tương đối, mâu thuẫn lớn nhất của Mỹ là giữa tham vọng bá chủ và khả năng thực
hiện của nó. Rõ ràng là Mỹ không muốn sự phát triển của thế giới theo chiều hướng đa cực, ra
sức điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại, tăng cường năng lực cạnh tranh, xây dựng Trật
tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo, làm cho sự thay đổi của thế giới đi theo quỹ đạo có lợi cho Mỹ.
Ba là, hòa bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi rõ rệt, nhưng
hòa bình ở nhiều khu vực bị đe dọa, thậm chí ở nhiều nơi xung đột quân sự, nội chiến diễn ra ác
liệt. Đó là các mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ... vốn bị che đậy dưới thời
chiến tranh lạnh nay bộc lộ thành xung đột gay gắt. Phần lớn những mâu thuẫn, tranh chấp này
đều có căn nguyên lịch sử, nên việc giải quyết không thể nhanh chóng và dễ dàng.
Từ những thay đổi của tình hình thế giới, tuy Trật tự quốc tế mới chưa hình thành, nhưng
trong gần một thập kỷ sau chiến tranh lạnh, có thể thấy những xu thế mới phát triển nổi bật
trên thế giới là :
2.1.1. Xu thế phát triển lấy kinh tế trọng điểm
Bài học của thời kỳ chiến tranh lạnh đã chứng tỏ phương pháp quan hệ quốc tế lấy đối đầu
chính trị - quân sự là chủ yếu không còn phù hợp, phải chịu nhiều tổn thất hoặc thất bại như hai
nước Mỹ - Xô và "một bị thương một bị mất". Trong khi đó, phương thức lấy hợp tác và cạnh
tranh về kinh tế - chính trị là chính lại thu được nhiều tiến bộ, kết quả như các nước Đức, Nhật
và NIC. Sự hưng thịnh hay suy vong của một quốc gia được quyết định bởi sức mạnh tổng hợp
của quốc gia đó, mà chủ yếu là thực lực kinh tế và khoa học - kỹ thuật.
Vì vậy, sau chiến tranh lạnh, tất cả các quốc gia đều đang ra sức điều chỉnh chiến lược phát
triển và tập trung mọi sức lực vào ưu tiên phát triển kinh tế. Trong thời điểm hiện nay, kinh tế
trở thành trọng điểm trong quan hệ quốc tế, cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia thay thế
cho chạy đua vũ trang đã trở thành hình thức chủ yếu trong đọ sức giữa các cường quốc.
Những cân nhắc về địa - kinh tế trên mức độ nào đó đã vượt quá tính toán về địa - chính trị.
Các nước ngày càng nhận thức sâu sắc rằng, sức mạnh của mỗi quốc gia là một nền sản
xuất phồn vinh, một nền tài chính lành mạnh và một nền công nghệ có trình độ cao và đó mới là
cơ sở để xây dựng sức mạnh thật sự của mỗi quốc gia.
Trong tác phẩm "Sự hưng thịnh và suy vong của các cường quốc" xuất bản năm 1988,
Paul Kennedy nhà sử học Mỹ đã nghiên cứu nguyên nhân quy luật hưng thịnh và suy vong của
các nước lớn trên thế giới trong 500 năm gần đây. Tác giả nhấn mạnh, các nguồn lực kinh tế, sự
phát triển khoa học - kỹ thuật, sức mạnh quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước,
quyết định vị trí quyền lực của đất nước trong cục diện thế giới. Sự phát triển hay suy thoái của
các yếu tố này tạo nên sự hưng thịnh và suy vong không chỉ của các cường quốc mà cả các quốc
gia khác trong một thế giới phức tạp đan xen và phụ thuộc nhau.
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 12
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
2.1.2. Các nước lớn điều chỉnh quan hệ với nhau theo chiều hướng xây dựng quan hệ
bạn bè chiến lược ổn định và cân bằng hướng về lâu dài.
Đây là đặc điểm chủ yếu và nổi bật của quan hệ giữa các nước lớn trong thời kỳ sau chiến
tranh lạnh. Sự điều chỉnh ấy là to lớn và sâu sắc. Xuất phát từ lợi ích chiến lược căn bản của
mình, các cường quốc tiến hành điều chỉnh lại chính sách đối ngoại để tìm chỗ đứng tốt nhất,
xây dựng khuôn khổ quan hệ mới ổn định lâu dài, xác lập các điều kiện quốc tế có lợi hơn, mở
rộng hệ thống an ninh quốc gia, tạo ra không khí quốc tế để xây dựng kinh tế nước mình như
mục tiêu chủ yếu trong quá trình điều chỉnh
Tháng 7/1997, Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto đề ra ba nguyên tắc đối với Nga là "Tin cậy
lẫn nhau, cùng có lợi, hướng về lâu dài". Với quan hệ Nhật - Trung, ông đưa ra bốn nguyên tắc :
"Hiểu biết lẫn nhau, tăng cường đối thoại, mở rộng hợp tác, hình thành trật tự chung"
(9/1997). Về phía Trung Quốc, đầu tháng 11/1997, khi sang thăm Nhật Bản, Thủ tướng Lý Bằng
lại đưa ra năm nguyên tắc trong quan hệ với nước này là :"Tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau; tìm kiếm điểm chung, gác lại bất đồng, giải quyết thỏa đáng
những vấn đề bất đồng; tăng cường đối thoại, tăng thêm hiểu biết lẫn nhau; tạo thuận lợi và
cùng có lợi, phát triển sự hợp tác kinh tế; hướng tới tương lai, đời đời hữu nghị". Cuối tháng
10/1997, khi sang thăm Mỹ, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Giang Trạch Dân đã đổi bốn câu
trong cuộc gặp cấp cao đầu tiên vào năm 1993 "Tăng thêm tín nhiệm, giảm bớt phiền phức,
phát triển hợp tác, không đối đầu" thành "Tăng cường hiểu biết, mở rộng nhận thức chung,
phát triển hợp tác, cùng tạo ra tương lai". Giữa hai nước Liên bang Nga và Trung Quốc đã có
nhiều cuộc gặp gỡ cao cấp. Trong bản tuyên bố thứ 5, hai nước chủ trương xây dựng quan hệ
đối tác chiến lược, thực hiện chính sách láng giềng hữu nghị. Tổng thống Pháp Jacques Chirac
chủ trương xây dựng "Quan hệ đối tác toàn diện" giữa Pháp và Trung Quốc. Ông cũng kiến nghị
với châu Âu thiết lập "Quan hệ đối tác đặc biệt với Nga...".
2.1.3. Sự phát triển nhanh chóng của nền thương mại thế giới.
Thương mại thế giới đã tăng 5 lần trong 23 năm (1948-1971), trong khi chỉ tăng 10 lần
trong 100 năm trước đó (1850-1948). Thương mại thế giới tăng nhanh hơn sự tăng trưởng của
kinh tế thế giới. Từ những năm 50 đến những năm 70, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới là
5,9%, nhưng tốc độ phát triển của thương mại thế giới từ 1948 đến 1971 là 7,3%. Thương mại
quốc tế tăng có nghĩa là nền kinh tế của các nước trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc
lẫn nhau, tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới tăng lên.
Ngoại thương đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước trên thế
giới. Những nước xuất khẩu nhiều nhất thì cũng là những nước có nền kinh tế phát triển nhất.
24 nước công nghiệp phát triển của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) chỉ chiếm
14,5% dân số thế giới, nhưng sản xuất ra 71,4% tổng sản phẩm thế giới và nắm 60% xuất khẩu
thế giới. Ngoại thương chiếm từ 40-60% tổng sản phẩm của các nước Tây Âu.
Cuộc cách mạng về liên lạc viễn thông với những máy tính, vệ tinh viễn thông, sợi quang
học và việc vận chuyển cực nhanh của điện tử đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa nền
kinh tế thế giới. Đã hình thành một hệ thống liên lạc toàn cầu. Tốc độ thông tin toàn cầu được
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 13
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
tăng lên hàng triệu lần. Không có hệ thống này thì không thể ra đời những công ty xuyên quốc
gia và không thể có cuộc cách mạng về tài chính trên thế giới.
2.1.4. Tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới được tăng cường mạnh mẽ do quá
trình quốc tế hóa rất nhanh của nền tài chính thế giới.
Việc chấm dứt tình trạng chia cắt thế giới thành hai hệ thống xã hội đối lập nhau càng thúc
đẩy nền kinh tế thế giới trở thành toàn cầu hóa
Ngày nay hầu như ở khắp các lục địa, khu vực đều có các tổ chức liên minh kinh tế với
những quy mô lớn, nhỏ khác nhau. ở châu Âu, lớn nhất là Thị trường chung châu Âu hình thành
từ 1975. Tháng 12/1992 Hiệp định Mastricht thành lập Liên minh châu Âu (EU), thành lập liên
minh kinh tế và quyết định thống nhất về tiền tệ và phát hành đồng tiền chung EURO vào tháng
1/1999. 24 nước công nghiệp phát triển thành lập Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD
vào tháng 12/1960 và nay bao gồm 29 nước. ở châu Mỹ, năm 1994 thành lập Thị trường tự do
thương mại Bắc Mỹ (Mỹ, Canađa, Mêhicô) và đang mở rộng cả châu Mỹ thành một thị trường
tự do. Trước đó, năm 1975 các nước Mỹ La tinh thành lập Tổ chức hệ thống kinh tế Mỹ La tinh
(SELA) với 26 nước thành viên nhằm phối hợp các kế hoạch phát triển, tạo điều kiện cho những
quá trình liên kết và trao đổi thông tin giữa các nước. ở Đông Nam Á, tổ chức ASEAN được
thành lập năm 1967, đã trở thành ASEAN - 10 và hình thành một khu vực thương mại tự do
(ASEAN-AFTA) trong vòng 15 năm. Năm 1985, bảy nước ở Nam Á và Ấn Độ, Pakixtan, Băngla
Đét, Nêpan, Sri Lanca, Butan và Cộng hòa Manđivơ thành lập Hội hợp tác khu vực Nam Á
(SAARC) với mục tiêu là góp phần phát triển kinh tế và văn hóa, tiến bộ xã hội ở Nam Á thông
qua sự hợp tác nhiều bên
Tuy nhiên, trong quá trình hợp tác và hội nhập vào nền kinh tế thế giới có khoảng cách
giữa các nước giàu và nước nghèo là rất lớn dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các
nước. Những nước nghèo và kém phát triển sẽ bị cạnh tranh trong tình trạng bất bình đẳng bởi
các nước giàu có vốn, khoa học kỹ thuật cao sẽ luôn đặt ra những điều kiện khắt khe khi hợp tác
kinh tế mà với khả năng của mình các nước nghèo chưa thể đáp ứng được. Do vậy vấn đề đặt ra
là các nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta phải làm thế nào để vượt qua những
thách thức mà lại tận dụng được các mặt lợi của quá trình hội nhập và những thành tựu mới
của khoa học công nghệ để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thành công.
Đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh đã khiến toàn
thế giới coi trọng, đó là sự phát triển năng động của nền kinh tế khu vực này với tốc độ tăng
trưởng cao nhất thế giới. Điều đó không phải là vấn đề mới mà nó đã có ngay từ những năm khi
chiến tranh lạnh ở đỉnh cao nhất. Bắt đầu là "sự thần kỳ" của Nhật Bản vào cuối thập niên 60 và
sự xuất hiện của 4 con rồng Châu Á vào cuối thập niên 70, sau đó là Thái Lan, Malaysia,...
Năm 1989, ở châu Á - Thái Bình Dương cũng đã hình thành khu vực hợp tác kinh tế APEC
gồm 21 nước (thuộc Đông Bắc Á, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Nam Thái Bình Dương và ASEAN). Tháng
3/1996 Hội nghị cấp cao châu Âu và châu Á (ASEM) gồm 25 nước ở châu Âu và châu Á cộng
thêm Uỷ viên Ban châu Âu (EU) lần đầu tiên nhóm họp nhằm liên kết kinh tế hai khu vực lớn
trên thế giới .
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 14
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Điều mới cần nói ở đây là sau chiến tranh lạnh, kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương vẫn giữ
được đà phát triển ngoạn mục đó không chỉ với các nước đi theo nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa mà cả đối với những nước trước đây vốn có nền kinh tế tập trung bao cấp và nay
chuyển sang kinh tế thị trường nhưng vẫn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá vai trò của Châu Á - Thái Bình Dương và giúp cho các
nước có cơ sở khách quan trong việc hoạch định chiến lược phát triển của mình trong những
thập kỷ tới.
2.2. LỢI ÍCH CỦA HAI BÊN KHI THIẾT LẬP QUAN HỆ NGOẠI GIAO
Việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ đã có những bước tiến dài khác xa so với trước
nhờ một phần sự tác động của đặc điểm, xu thế của thế giới, một phần cũng là do lợi ích chiến
lược của mỗi nước cùng với sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ kết hợp với đường lối đổi mới,
chính sách mở cửa của Việt Nam. Đây là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho việc bình
thường hoá quan hệ ngoại giao giữa hai nước được khai thông.
2.2.1. Lợi ích của Mỹ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Với một siêu cường như Mỹ muốn nắm giữ vai trò "Người lãnh đạo thế giới" thì cần phải
có sự điều chỉnh chiến lược và sách lược của mình cho phù hợp với tình hình thế giới.
Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, người có tham vọng
để lại dấu ấn trong lịch sử nước Mỹ bằng một chiến lược mới thay cho chiến lược "ngăn chặn"
của thời kỳ chiến tranh lạnh, đó là chiến lược "mở rộng dân chủ" của Bill Clintơn. Ngày
27/19/1993 trong diễn đàn đầu tiên đọc trước Đại hội đồng Liên hợp quốc nói rõ: "Trong chiến
tranh lạnh chúng ta tìm cách ngăn mối đe doạ đối với sự sống còn của các thể chế tự do,... giờ
đây chúng ta tìm cách mở rộng tập hợp các quốc gia sống dưới các thể chế tự do đó".
Đưa ra chiến lược này, nhưng mức độ áp dụng vào từng khu vực như thế nào là còn tuỳ
thuộc vào tầm quan trọng của khu vực đó đối với Mỹ. Với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương,
Mỹ cho rằng đây là khu vực sẽ đem lại lợi ích cho nước Mỹ và Mỹ đã đặt khu vực này vào vị trí
ưu tiên ngang hàng với Châu Âu. Bởi lẽ, Châu Á Thái Bình Dương là một trong những khu vực có
nền kinh tế phát triển năng động của thế giới. "Trong thập kỷ này, hơn 60% của sự phát triển
kinh tế thế giới là từ Châu Á, khu vực chiếm hơn 1/2 dân số thế giới". Với tổng số 13.400 tỷ
USD, Châu Á - Thái Bình Dương chiếm 54% GDP của thế giới, và do vậy, khu vực này có vị trí
ngày càng quan trọng đối với các nước lớn trong đó có Mỹ. Đặc biệt đây cũng là khu vực bao
gồm hầu hết các nước lớn mà Mỹ phải quan tâm và kiêng nể như Nga, Nhật Bản, Trung Quốc.
Với Nga, trước đây là đối thủ của Mỹ trong chiến tranh lạnh, hai nước từng tranh giành vị
trí, ảnh hưởng với nhau. Giờ đây, khi Liên Xô mất đi thì vị thế của Nga thay vào đó không còn
nguyên vẹn như xưa nhưng tiềm lực về quân sự của Nga vẫn là điều mà Mỹ đáng quan tâm.
Với Trung Quốc, là một nước có dân số đông nhất thế giới, là thị trường tiêu thụ hàng hoá
đầy tiềm năng. Thêm vào đó, Trung Quốc lại đang hiện đại hoá quân đội, phổ biến vũ khí hạt
nhân tăng ngân sách quốc phòng, đây là điều mà Mỹ lo ngại và Mỹ đã điều chỉnh lại chính sách
đối với Trung Quốc. Từ chỗ xem Trung Quốc là "là con bài" là "đồng minh thực tế" trong việc
ngăn chặn và kìm chế Liên Xô sang thành một đối thủ. Đã diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 15
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ về hoạch định một chính sách mới đối với Trung Quốc trong
thời kỳ sau chiến tranh lạnh này. Nhưng thực tế thì Mỹ đã thi hành chiến lược kép đối với Trung
Quốc. Tức là vừa dính líu vừa kìm chế, Trung Quốc luôn bị coi là vật cản trong bước đường tiến
đến chủ nghĩa bá quyền của Mỹ. Hơn nữa, mối lo ngại tiềm ẩn của Mỹ về việc Trung Quốc hợp
nhất với Đài Loan, Ma Cao thì Trung Quốc sẽ là một Đại Trung Hoa, điều đó sẽ thách thức đối
với vai trò vị thế của Mỹ ở khu vực. Do vậy, Mỹ cố gắng củng cố vị trí của mình ở khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương nhằm ngăn chặn bất cứ cường quốc nào nổi lên thách thức vai trò vị trí ảnh
hưởng ấy, thực hiện "diễn biến hoà bình" với các nước XHCN còn lại.
Đối với các nước Đông Dương, chính sách của Mỹ chuyển từ gây căng thẳng, chia rẽ các
quốc gia sang lôi kéo, thu hút tăng cường ảnh hưởng của Mỹ với các quốc gia ở khu vực này.
Qua phân tích chính sách của Mỹ với các nước lớn trong khu vực ta thấy mục tiêu của Mỹ
khi quan hệ với Việt Nam không nằm ngoài mục tiêu chung trong chiến lược toàn cầu hay chính
sách với Đông Nam Á của siêu cường này. Một trong những mục tiêu Mỹ hướng tới khi quyết
định bình thường hoá quan hệ với Việt Nam là muốn thu hút, lôi kéo Việt Nam lại gần Mỹ và
tách Việt Nam ra khỏi các đối tác truyền thống. Tuy nhiên, để đi đến bình thường hoá quan hệ
với Việt Nam, trong Quốc hội Mỹ còn có nhiều tranh luận gay gắt và nó đã chi phối phần lớn
chính sách của Mỹ trong suốt 20 năm qua.
Việc Mỹ thiết lập quan hệ với Việt Nam còn để làm nguôi ngoai nỗi đau của người dân
Mỹ và trong tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam Tổng thống Bill Clintơn đã nói
"Bước đi này sẽ giúp đất nước chúng ta tiến lên phía trước về một vấn đề chia rẽ người
Mỹ với nhau quá lâu rồi. Chúng ta hãy hướng về tương lai, chúng ta có quá nhiều việc
phải làm ở phía trước. Đây là lúc tạo cho chúng ta cơ hội để hàn gắn các vết thương của
chúng ta. Những vết thương này đã không chịu lành quá lâu rồi. Giờ đây chúng ta có thể
tiến tới một cơ sở chung, bất kể những gì đã chia rẽ chúng ta trước đây, chúng ta hãy xếp
vào quá khứ, hãy để giây phút này, theo từ của kinh thánh là một thời điểm để kiến tạo" .
Mỹ mong muốn sự hợp tác với Việt Nam để giải quyết vấn đề POW-MIA, vấn đề về tù binh
chiến tranh và quân nhân Mỹ mất tích. Đây là điều kiện Mỹ đặt hàng đầu để quan hệ với Việt
Nam cũng là để giải quyết "Hội chứng Việt Nam" trong lòng dân Mỹ. Thêm vào đó, những
người quan tâm đến Việt Nam đánh giá Việt Nam có vai trò quan trọng ở Đông Dương và Đông
Nam Á vì nếu xét về diện tích là nhỏ nhưng vị trí lại rất quan trọng. Việt Nam nằm án ngữ con
đường biển huyết mạch từ Bắc Á xuống Đông Nam Á và Ấn Độ Dương. Việt Nam còn có cảng
Cam Ranh là căn cứ quân sự chiến lược trong khu vực. Việt Nam tuy diện tích nhỏ nhưng có
tiềm năng lớn, dân số đông, có trình độ dân trí cao, tài nguyên thiên nhiên phong phú, hứa hẹn
nhiều khả năng hợp tác và đầu tư. Cộng thêm chiến lược "mở rộng dân chủ" nhằm làm thay đổi
chế độ - chính trị xã hội của Việt Nam, Mỹ cho rằng, việc xoá bỏ cấm vận giúp Việt Nam phát
triển kinh tế là nhằm đưa Việt Nam vào vòng ảnh hưởng chi phối của Mỹ, xoá bỏ thù hận của
người dân Việt Nam đối với Mỹ từ đó thực hiện dễ dàng diễn biến hoà bình ở Việt Nam.
2.2.2. Lợi ích của Việt Nam khi quan hệ với Mỹ
Năm 1991, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra đường lối: "Việt Nam muốn là
bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 16
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
triển". Sự điều chỉnh chính sách và đường lối đối ngoại đã đem lại cho Việt Nam những thành
tựu to lớn về kinh tế và mở rộng quan hệ với nhiều nước, thu hút được nhiều nhà đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam. Việc phát triển quan hệ với các nước lớn đã được đưa ra trong
đường lối chiến lược phát triển của Việt Nam, trong đó có Hoa Kỳ là nhân tố quan trọng trong
chính sách đối ngoại của mình, từng bước có sự điều chỉnh chiến lược để làm thay đổi thái độ,
lập trường của Mỹ với Việt Nam. Với phương châm: "Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai".
Việt Nam đã làm hết sức mình để khép lại quá khứ của cuộc chiến tranh tàn khốc để cùng Mỹ
hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn trong quan hệ.
Bằng sự cố gắng của mình, Việt Nam đã tích cực giải quyết vấn đề POW-MIA về những
quân nhân Mỹ bị mất tích và chết trong chiến tranh Việt Nam và thành công trong việc tìm ra
giải pháp cho vấn đề Campuchia mà kết quả là Hiệp định Paris về vấn đề Campuchia ra đời ngày
23/10/1991 đã gỡ bỏ dần những áp đặt được đưa ra trong lộ trình bốn giai đoạn của Mỹ.
Những cố gắng của Việt Nam cùng sự ủng hộ của Mỹ đã làm xoay chuyển được cục diện quan
hệ Việt Nam và Mỹ theo chiều hướng tốt đẹp. Vì chính Mỹ cũng hiểu rằng: nếu tiếp tục đối đầu
sẽ không có lợi mà Việt Nam và Mỹ phải tìm cách cải thiện quan hệ thì các quan hệ khác mới
được thúc đẩy và đem lại lợi ích cho cả 2 nước. Về phía Việt Nam, mục tiêu chiến lược của Việt
Nam đề ra trong quan hệ với Mỹ là đạt được những vấn đề sau:
Bình thường hoá quan hệ với Mỹ, Việt Nam có điều kiện hối thúc Mỹ giúp đỡ để giải quyết
những hậu quả chiến tranh do Mỹ để lại. Bên cạnh đó, Việt Nam và Mỹ sẽ cùng hợp tác để giải
quyết dứt điểm những vấn đề còn tồn đọng trong công tác POW/MIA.
Bình thường hoá quan hệ với Mỹ, Việt Nam sẽ củng cố và nâng cao vị thế của mình trên
trường quốc tế, tạo điều kiện cho việc cải thiện quan hệ với các nước khác và khai thông
quan hệ với các tổ chức, thể chế tài chính, kinh tế thương mại khu vực cũng như toàn cầu,
giúp Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới.
Bình thường hoá quan hệ với Mỹ sẽ tạo điều kiện cho ta khả năng tận dụng vốn, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý của Mỹ, các doanh nghiệp của Việt Nam có điều kiện học hỏi kinh
nghiệm ở một nước phát triển cao như Mỹ, tạo môi trường thuận lợi cho việc hợp tác, đầu tư,
trao đổi kinh tế, thương mại. Điều này hỗ trợ trực tiếp cho Việt Nam thoát khỏi nguy cơ tụt hậu
và giúp Việt Nam thành công trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Cuối cùng, việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa 2 nước sẽ mở đường cho Việt Nam được
hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) và quy chế đặc miễn dành cho một nước đang phát triển
(GSP). Theo đó Việt Nam sẽ được phép xuất khẩu sang Mỹ với chế độ thuế quan rất thấp, hoặc
không phải chịu thuế. Điều này sẽ giúp cho việc phát triển kinh tế của Việt Nam được thuận lợi.
2.3. QUÁ TRÌNH BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ
Sự chấm dứt chiến tranh Lạnh đã tạo ra khuôn khổ mới cho quan hệ quốc tế song phương
và đa phương, trong đó có quan hệ Việt – Mỹ. Từ nhu cầu bình thường hóa quan hệ giữa hai
nước, tháng 4 năm 1991, phía Mỹ đưa ra Bản lộ trình (Roadmap) bốn giai đoạn để hai bên thực
hiện. Nội dung của bản lộ trình này gắn liền với việc giải quyết “vấn đề Campuchia” và
POW/MIA (prisoner of war/missing in action) cũng như từng bước Mỹ nới lỏng việc bao vây
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 17
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
cấm vận Việt Nam. Tuy nhiên, đã đến lúc chính sách cấm vận Việt Nam của Mỹ trở nên lỗi thời
bởi sức ép của quốc tế cũng như của giới kinh doanh trong nước muốn làm ăn với Việt Nam;
đặc biệt, khi Nhật Bản – một đồng minh thân cận của Mỹ đã đơn phương nối lại viện trợ cho
Việt Nam từ đầu năm 1992 sau mười bốn năm gián đoạn bởi “vấn đề Campuchia”.
Tháng 1/1993, từ khi bước vào Nhà trắng, tổng thống Mỹ Bill Clinton đã thúc đẩy nhanh
hơn tiến trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ông lần lượt tuyên bố (vào
tháng 7/1993) rằng, Mỹ không còn phản đối việc các nước trong cộng đồng quốc tế hỗ trợ Việt
Nam trả nợ IMF (Qũy Tiền tệ Quốc tế) các khoản nợ quá hạn; Mỹ sẽ nới lỏng thêm lệnh cấm vận
thương mại đối với Việt Nam ( tháng 9/1993), chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại đối
với Việt Nam và đồng ý mở cơ quan liên lạc giữa hai nước (tháng 2/1994). Những động thái trên
đây của chính phủ Mỹ, kết cục phải dẫn đến việc xây dựng quan hệ bình thường, hợp tác giữa
hai nước sau chiến tranh.
Ngày 11/7/1995 tổng thống Bill Clinton đã tuyên bố Mỹ chính thức bình thường hóa quan
hệ với Việt Nam, và nâng cấp Văn phòng Liên lạc thành tòa đại sứ đặt tại Hà Nội. Việt Nam đặt
tòa đại sứ ở washington, một tòa tổng lãnh sự quán tại San Francisco (tiểu bang Califomia) một
tại Houston (tiểu bang Texas) và một tại thành phố New York (tiểu bang bang New York). Hoa kì
có một tòa tổng lãnh sự tại Thành phố Hồ Chí Minh và dự kiến mở thêm một tòa tổng lãnh sự ở
Đà Nẵng.
Phía Việt Nam cho rằng, quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Mĩ là một
quyết định quan trọng “phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của tình hình quốc tế, góp
phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam Á cũng như trên thế
giới”. Quyết định này cũng phản ánh nguyện vọng của đông đảo người dân Mỹ muốn quên đi
“hội chứng chiến tranh Việt Nam”, chấm dứt những bất đồng chia rẽ trong xã hội Mỹ.
Kể từ khi bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ. Ngoại giao Hoa Kỳ và Việt Nam đã trở nên
sâu và đa dạng hơn. Hai nước đã thường xuyên mở rộng trao đổi chính trị, đối thoại về nhân
quyền và an ninh khu vực. Họ ký kết Hiệp định Thương mại song phương vào tháng 7 năm 2002,
bắt đầu có hiệu lực từ tháng 12 năm 2001. Tháng 11, 2007, Hoa Kỳ chấp thuận Quy chế Quan
hệ thương mại Bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam.
Không chỉ trong lĩnh vực chính trị-ngoại giao, kinh tế-thương mại, hợp tác song phương
này được mở rộng cả trong lĩnh vực an ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục, khoa học công
nghệ…
2.4. NHỮNG NỖI BẬT SAU KHI BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ
2.4.1. Về chính trị - ngoại giao:
Kể từ khi bình thường hoá đến nay, 2 nước đã tăng cường trao đổi các đoàn quan chức
chính phủ, các nghị sĩ quốc hội, tận dụng cơ hội để tiếp xúc với nhau ở các diễn đàn, tổ chức
khu vực cũng như quốc tế. Bước đi tiếp theo của quá trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao
là chuyến viếng thăm Việt Nam của ngoại trưởng Mỹ W. Christopher từ ngày 5-7/8/1995; cho
thấy người Mỹ đã nghĩ về Việt Nam với tư cách là một đất nước chứ không phải một cuộc chiến
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 18
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
tranh. Sứ mệnh quan trọng của ông W. Christopher trong chuyến công du này là chủ trì lễ khai
trương tòa đại sứ Mỹ tại Hà nội và bàn bạc với phía Việt Nam vấn đề POW/MIA.
Trong thời gian nhiệm kỳ hai (1997 – 2001) của tổng thống B.Clinton, quan hệ chính trị –
ngoại giao đôi bên tiếp tục được cải thiện.
Ngày 10/4/1997 toàn thể Thượng nghị viện Mỹ đã nhất trí phê chuẩn việc cử ông
Peterson làm đại sứ tại Việt Nam
Về phía Việt Nam, đã cử ông Lê Văng Bàng làm đại sứ tại Hoa Kỳ.
Ngày 9/5/97 ông Lê Văn Bàng tới Oasinhton trong khi cùng ngày ông Peterson cũng đến Hà Nội.
Ngày 14/5/97 tại Nhà trắng ông Lê Văn Bàng đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, trình thư uỷ nhiệm lên Tổng thống Bill Clinton. Cùng ngày tại Phủ Chủ tịch
ông Douglas Peterson, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Hoa Kỳ, trình thư uỷ nhiệm lên Phó Chủ tịch
Nguyễn Thị Bình. Có thể nói, đây là kết quả quan trọng và cao nhất về mặt ngoại giao. Về cơ sở
vật chất của đại diện ngoại giao của 2 bên đã thiết lập với việc khai trương đi vào hoạt động và
việc mở lãnh sự quán của Việt Nam tại Sanphrangxitco, lãnh sự quán Hoa Kỳ tại TP. Hồ Chí Minh
cơ sở vật chất của đại diện ngoại giao hai bên đã được thiết lập.
Đại sứ là kênh chính để hai bên trao đổi thông tin về nhau giải quyết những vấn đề nảy
sinh trong quan hệ song phương, để các bên thâm nhập, trực tiếp tìm hiểu nhau. Nhờ có đại sứ
quán, lãnh sự quán mà việc đi lại, trao đổi các đoàn ở cấp Chính phủ cũng như phi Chính phủ
của 2 nước có nhiều thuận lợi và có cơ hội tăng cường. Điều này giúp cho ngoại giao nhân dân
được mở rộng, tạo điều kiện để các doanh nghiệp của 2 nước tìm hiểu, thâm nhập vào thị
trường, đầu tư kinh doanh buôn bán.
Tháng 7/1996, một phái đoàn quan chức cấp cao của Chính phủ Mỹ do cố vấn an ninh
quốc gia Mỹ Athony Lake dẫn đầu tới Việt Nam. Trong đoàn có các nhân vật quan trọng của
Chính phủ Mỹ như trợ lý ngoại trưởng chuyên trách khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, phó bí
thư báo chí Nhà trắng Đ.Giônxen,... Một trong những sứ mệnh chủ chốt của đoàn tới Việt Nam
lần này là phía Hoa Kỳ cùng Việt Nam kiểm điểm, đánh giá tình hình phát triển quan hệ 2 nước
một năm sau khi bình thường hoá.
Tháng 6/1997 sau chuyến thăm của ông A.Lake, tân ngoại trưởng Hoa Kỳ bà Albright đã
đến thăm Việt Nam. Chuyến viếng thăm của bà nhằm khảo sát và đánh giá quan hệ 2 nước sau
2 năm bình thường hoá. Đặc biệt, nhiệm vụ trọng tâm của bà Albright trong chuyến viếng thăm
này là nhằm hối thúc 2 phía tăng cường phát triển kinh tế thương mại. phía Mỹ đã khẳng định
quyết tâm “Vượt qua khác biệt trong quá khứ, cùng nhau tiến về phía trước, hướng đến
tương lai”, “thực thi các nỗ lực để thúc đẩy quan hệ thương mại song phương”. Đáp lại, tháng
10/1998, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã sang thăm Mỹ.
Ông phát biểu rằng, Mỹ là cường quốc có nhiều tiềm năng to lớn về kinh tế, khoa học, kỹ thuật,
công nghệ và vốn; rằng Việt Nam rất coi trọng việc xây dựng quan hệ hợp tác lâu dài, nhiều mặt
với Mỹ.
Chuyến thăm Việt Nam được xem là “lịch sử” của tổng thống Mỹ B.Clinton tháng 11/2000
đã đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ Việt Mỹ, theo chiều sâu.và ông được tháp tùng
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 19
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
bởi một đoàn các nhà doanh nghiệp lớn. Đoàn doanh nghiệp này đã đạt được mục đích của
mình và một loạt các công ty liên doanh đã được thành lập, trong đó có lễ ký kết bản ghi nhớ
giữa hãng Boeing và Hàng không Việt Nam về việc mua 3 máy bay Boeing 777 - 200ER thoả
thuận liên doanh sản xuất cáp quang được ký kết giữa Corining International và Tổng công ty
Bưu chính viễn thông Việt Nam,... Tổng thống Bill Clinton đã tặng thêm một khoản tín dụng 200
triệu USD cho những công ty muốn vào kinh doanh ở Việt Nam.
Ngày 19/6/2005, Thủ tướng Phan Văn Khải là lãnh đạo chính phủ Việt Nam đầu tiên thăm
Mỹ sau khi hòa bình lập lại. Thủ tướng đã thảo luận với Tổng thống George Bush về sự ủng hộ
của Mỹ với nỗ lực tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam.
Giữa tháng 11/2006, Tổng thống George Bush thăm chính thức Việt Nam khi tham dự cuộc
họp APEC tổ chức ở Hà Nội.
Đến tháng 6/2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trở thành người đứng đầu nhà nước
đầu tiên của Việt Nam sang Mỹ sau giai đoạn chiến tranh.
Ngày 25/6/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đoàn đại biểu Việt Nam đã đến Nhà Trắng
để hội đàm với Tổng thống George Bush
Kể từ năm 2013, chính phủ hai nước đã nhanh chóng tăng cường nhịp độ các chuyến thăm
cấp cao; dự kiến có thêm nhiều chuyến thăm trong năm nay. Đối thoại của chúng ta đã trở nên
phong phú hơn và thẳng thắn hơn, và trong vài năm qua Việt Nam và Hoa Kỳ đã làm việc với
nhau hiệu quả hơn tại các diễn đàn khu vực.
Chuyến thăm Mỹ cuối tháng 7/2013 của Chủ tịch Trương Tấn Sang đánh dấu bước phát
triển mới trong quan hệ song phương. Sau cuộc hội đàm tại Nhà Trắng ngày 25/7/2013, Chủ tịch
Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama đã xác lập Quan hệ Đối tác Toàn diện giữa Việt
Nam và Mỹ.
Từ ngày 6/7/2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chính thức thăm Mỹ. Đây là lần đầu tiên
một Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đến Mỹ.
Trong buổi hội đàm ngày 7/7 với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Obama khẳng
định, Mỹ rất coi trọng quan hệ với Việt Nam và vai trò của Việt Nam ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương, đồng thời gọi Việt Nam là "đối tác xây dựng" trên nhiều lĩnh vực, bao gồm biến
đổi khí hậu và gìn giữ hòa bình toàn cầu.
Đáp lời Tổng thống Obama, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết: "Từ hai nước cựu thù,
chúng ta đã chuyển thành những người bạn, đối tác, và đối tác toàn diện. Quá khứ không thể
thay đổi nhưng tương lai thuộc về trách nhiệm của chúng ta", theo thông tấn xã Việt Nam.
Khi phát biểu tại Bộ Ngoại giao Mỹ, Tổng Bí thư nhấn mạnh tinh thần "gác lại quá khứ,
vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai" và thái độ đối thoại “chân
thành, thẳng thắn” làm nên sự khác biệt trong quan hệ Việt - Mỹ so với quan hệ với các nước
khác.
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 20
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Tổng Bí thư cũng dẫn câu nói của Tổng thống Theodore Roosevelt, "Có lòng tin là đã đi
được nửa đường", để bày tỏ lạc quan về tương lai Việt - Mỹ trong một bài nói chuyện ở trung
tâm CSIS.
Tổng Bí thư và Tổng thống Barack Obama đã đưa ra Tuyên bố Tầm nhìn Chung sau cuộc hội
đàm ngày 7/7. Ông Obama cũng nhận lời mời của Tổng Bí thư về chuyến thăm Việt Nam trong
tương lai gần.
Những chuyến viếng thăm lẫn nhau giữa hai nước kể trên và những kết quả đạt được là
những tín hiệu khả quan về quan hệ Việt - Mỹ.
2.4.2. Kinh tế và Thương mại
2.4.2.1. Tình hình Kinh tế thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn (1995
– 2000)
Hai nước bắt đầu có quan hệ thương mại từ năm 1992 tuy nhiên mới chỉ ở mức độ rất
khiêm tốn, thương mại hai chiều chỉ đạt khoảng 4,5 triệu USD. Mốc tính chính thức bắt đầu từ
năm 1994, một năm sau khi lệnh cấm vận được gỡ bỏ. Các năm tiếp theo thương mại hai chiều
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tăng đều và rất mạnh theo cả hai chiều xuất và nhập khẩu, đa dạng
dần về nhóm hàng và gia tăng về giá trị mỗi nhóm.
Theo số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, tổng kim ngạch mậu dịch Việt Nam - Hoa Kỳ năm
1994 đã tăng lên gần 224 triệu USD so với 6,2 triệu năm 1993 (tăng hơn 30 lần). Con số này năm
1995 đã lên đến 451,326 triệu USD (gấp hơn hai lần năm trước) và đạt trên 1 tỷ USD trong năm
1996 và năm 1996 tăng lên hơn 1039,5 triệu USD chiếm khoảng 1% trong tổng số hơn 100 tỷ
USD kim ngạch buôn bán hai chiều giữa ASEAN và Mỹ. Trong đó giá trị xuất khẩu của Việt Nam
tương ứng qua từng năm là (1994) 50,6 triệu USD, (1995) 198,9 triệu USD, (1996) 819,2 triệu
USD; và nhập khẩu lần lượt là (1994) 173,4 triệu USD, (1995) 252,9 triệu USD, (1996) 720,3 triệu
USD. Như vậy chỉ qua hai năm, tổng kim ngạch buôn bán Việt Nam - Hoa Kỳ đã tăng lên hơn 4
lần, vượt xa giá trị trao đổi thương mại của Việt Nam với các bạn hàng truyền thống tại Đông Âu
và Liên Xô cũ. Đây là điều chưa từng có trong quan hệ giữa hai nước khi mà các cản trở chưa
được giải toả.
Tuy vậy, những kết quả giao thương giữa hai nước trong năm này lại chững lại đạt con số
hết sức khiêm tốn, đạt 705,8 triệu USD, bằng 2/3 so với năm 1996. Hai năm tiếp theo, có lẽ do
tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nên tuy quan hệ thương mại Việt Nam
- Hoa Kỳ vẫn gia tăng nhưng chưa vượt qua được con số 1 tỷ USD của năm 1996, năm 1998 đạt
748 triệu USD và năm 1999 đạt 838,39 triệu USD, năm 2000 đạt 1.084,2 triệu USD.
Tiếp theo những tiến bộ đạt được trong năm 1999, như việc hai nước kí thoả thuận sơ bộ
về Hiệp định Thương mại và việc Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố ngừng áp dụng Tu chính án Jackso
Vanik đối với Việt Nam, đã khích lệ các nhà kinh doanh yên tâm và vững tin vào triển vọng bình
thường hoá quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ. Hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước ngay
từ đầu năm 2000 đã diễn ra hết sức sôi động. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ
ngay trong quý I năm 2000 đã tăng 240,41% so với Quý I/1999 trong khi nhập khẩu tăng
132,39%, đạt 228,64 triệu USD. Sau khi ký hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ (7 – 2000), kim
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 21
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước lần đầu tiên vượt mức 1 tỷ USD của năm 1996. Đây thực sự
là kết quả đáng khích lệ cho năm Việt Nam – Mỹ chính thức ký Hiệp định Thương mại. Và lẽ tất
nhiên đây cũng là kết quả của hàng loạt biện pháp kích thích xuất khẩu trong chính sách thương
mại hướng ngoại của Việt Nam.
Bảng 7: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hoa Kỳ
(Đơn vị: Triệu USD)
Năm
Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
Tổng
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
90,6
198,9
319,2
362,7
519,55
601,9
827,4
173,4
252,9
720,3
464
453,62
503,94
732,4
264
451,8
1039,5
826,7
973,17
1105,9
1559,8
Nguồn: Bộ Thương mại Việt Nam
Tóm lại, sau 5 năm bình thường hoá, quan hệ thương mại Việt Nam -Hoa Kỳ đã có bước
phát triển hết sức nhanh chóng. Năm 1999 tổng kim ngạch xuất khẩu giữa hai nước đã tăng gấp
đôi so với năm 1995 và năm 2000 tăng gấp 2,5 lần so với năm 1995.
Xét về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong thời kỳ 19941999 chủ yếu thuộc nhóm nông, lâm, thủy hải sản. Trong đó cà phê chiếm phần lớn với kim
ngạch đạt 108 triệu USD năm 1997. Đặc điểm nổi bật của nhóm hàng này là có sự chênh lệch
không đáng kể giữa mức thuế tối huệ quốc (MFN) và phi tối huệ quốc (non-MFN) và cầu về các
loại hàng này rất đa dạng. Hàng công nghiệp nhẹ bắt đầu xâm nhập và tăng trưởng nhanh
nhưng vẫn chỉ mang tính chất giới thiệu sản phẩm. Từ 1996, xuất khẩu những mặt hàng giày
dép, nguyên liệu khoáng sản tăng nhanh. Nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Hoa Kỳ chính là
các mặt hàng máy móc, thiết bị và phân bón. Điều này phù hợp với nhu cầu nhập khẩu của Việt
Nam cũng như đặc điểm cơ cấu xuất khẩu của Hoa Kỳ.
Nhìn chung năm 2000, thương mại giữa hai nước tăng trưởng ổn định trong hoàn cảnh
nền kinh tế toàn cầu đang diễn biến rất phức tạp. Xét về tổng kim ngạch song phương, Việt Nam
hiện đang đứng thứ 70/227 nước có quan hệ buôn bán với Hoa Kỳ, trên nhiều nước như
Bulgaria, Ukraina, Slovenia mặc dù hàng Việt Nam đang phải chịu thuế suất nhập khẩu cao hơn
so với các nước này (nếu tính về kim ngạch xuất khẩu thì Việt Nam đứng cao hơn, tức là khoảng
thứ 65/227 nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ). Tuy nhiên, so với ngay các nước trong khu vực ASEAN
như Thái Lan, Phillippines thì xuất khẩu của ta còn thua kém nhiều. Có nhiều lý do giải thích cho
sự việc này, nhưng lý do nổi bật nhất vẫn là thuế suất nhập khẩu quá cao mà hàng hóa xuất
khẩu của ta cho đến nay vẫn phải chịu khi nhập vào Hoa Kỳ. Hơn nữa, hệ thống thương mại tại
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 22
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Hoa Kỳ khá mới và phức tạp đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam nên đã làm cho quá trình thâm
nhập thị trường này trở nên không dễ dàng với đa số doanh nghiệp Việt Nam.
Năm 2000, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng mạnh lên tới 827,4 triệu USD so với
601,9 triệu USD, đạt mức tăng trưởng 37,63%. Đây là một trong những mức tăng cao trên thế
giới (trung bình xuất khẩu thế giới vào Hoa Kỳ tăng 19,73% trong 11 tháng đầu năm 2000; toàn
khu vực ASEAN xuất sang Hoa Kỳ tăng 13,56%). Mặc dù mức tăng trưởng này đạt được trên cơ
sở kim ngạch chưa cao nhưng đây là một tín hiệu tốt, thể hiện những phản ứng tích cực từ phía
các doanh nghiệp Việt Nam đối với các diễn biến trong quan hệ thương mại hai nước. Trong khi
đó cũng cần lưu ý rằng xuất khẩu của Hoa Kỳ sang Việt Nam cũng tăng khá mạnh trong cùng kỳ
năm 2000 (tăng 16,15% so với cùng kỳ năm 1999).
Nguyên nhân dẫn đến sự tăng trưởng nhanh chóng trong quan hệ thương mại giữa hai
nước chủ yếu là do tính bổ sung cao giữa hai nền kinh tế.
Việt Nam là nước đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, nhu cầu về công nghệ và trang
thiết bị hiện đại là hết sức lớn mà Hoa Kỳ lại chính là nguồn cung cấp thiết bị khoa học - công
nghệ và máy móc hiện đại hàng đầu thế giới. Mặt khác gia tăng đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam
cũng đã góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng thương mại giữa hai nước.
Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới với nhu cầu về các loại hàng hoá từ cao cấp
đến bình dân, từ sản phẩm công nghiệp kĩ thuật cao đến hàng nông sản, trong khi đó, hàng
nông - thuỷ sản chiếm đến 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đây chính là điều mà NICs,
Thái Lan, Malaisia và Trung Quốc đã tận dụng được trong tiến trình thúc đẩy công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của họ.
2.4.2.2. Tình hình Kinh tế thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 2000
đến nay
Ngày 13/7/2000, hai nước ký kết Hiệp định thương mại song phương (BTA), chính thức
mở ra chương mới trong lĩnh vực hợp tác kinh tế giữa 2 quốc gia.
Năm 2002, ngay sau khi BTA có hiệu lực, thương mại hai chiều đã tăng đột biến lên 2,89
tỷ USD, bằng 1,85 lần.
Đến nay, thương mại hai chiều đã bùng nổ lên hơn 35 tỷ USD vào cuối 2014. Hoa Kỳ đã
trở thành đối tác thương mại, nhà đầu tư hàng đầu của Việt Nam
Nhờ BTA, Việt Nam đã tăng xuất khẩu sang Hoa Kỳ lên 36 lần, từ 800 triệu USD vào năm
2000 lên gần 29 tỷ USD năm 2014. Sự tăng tốc đó đã giúp cho Việt Nam vượt qua Thái Lan,
Malaysia, Indonesia để trở thành nước xuất khẩu hàng hóa lớn nhất sang Hoa Kỳ trong
ASEAN.Hàng hóa của Việt Nam chiếm tỷ trọng cao nhất, 22% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn
khu vực này.
Ngoài xuất nhập khẩu, Việt Nam là đang là địa điểm đầu tư lý tưởng của các doanh
nghiệp Hoa Kỳ. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/3, Hoa
Kỳ có 735 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 23
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
đăng ký đạt khoảng 11,06 tỷ USD, xếp thứ 7 trong tổng số 101 quốc gia và vùng lãnh có dự án
đầu tư của Việt Nam.
Tính riêng trong quý 1/2015, Hoa Kỳ có 8 dự án FDI được cấp Giấy chứng nhận đầu tư
mới và 2 lượt dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm đạt gần 70 triệu USD.
Các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã đầu tư vào 17/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế
quốc dân với quy mô bình quân vốn đầu tư cho một dự án là 15 triệu USD, cao hơn so với quy
mô trung bình của một dự án FDI vào Việt Nam hiện nay là 14.3 triệu USD. tình hình đầu tư của
Việt Nam sang Hoa Kỳ, tính đến hết tháng 8/2014, Việt Nam đã có 124 dự án đầu tư, với tổng
vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng vốnlà 426,74 triệu USD.Hoa Kỳ hiện đứng thứ 9 trong số 63
quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư của Việt Nam. Ngoài xuất khẩu, đầu tư tăng trưởng mạnh
mẽ, lượng khách từ Hoa Kỳ đến Việt Nam ngày càng tăng. Trong năm 2014, lượng khách từ Hoa
Kỳ đạt gần 443.800 lượt người, đứng thứ 4 trong số các nước đến Việt Nam nhiều nhất (sáu
tháng 2015 đạt 255,9 nghìn lượt người).
2.4.3. Quốc phòng và An ninh
Việc ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có vai trò đặc biệt quan trọng, làm giảm đáng kể
khoảng cách đôi bên và làm gia tăng niềm tin chính trị giữa Washington và Hà Nội. Hiệp định
thương mại Việt – Mỹ ra đời đã tạo nên cú hích để đôi bên tiếp tục ký kết nhiều hiệp định quan
trọng khác; như Hiệp định hợp tác về khoa học và công nghệ (có hiệu lực từ ngày 26/3/2001),
Hiệp định dệt-may (có hiệu lực từ 1/5/2003), Hiệp định hàng không (có hiệu lực từ 14/1/2004);
Hiệp định khung hợp tác về kinh tế và kỹ thuật, Bản ghi nhớ hợp tác về nông nghiệp (ký tháng
6/2005). Tiến xa hơn, tháng 5/2006 hai nước đã ký Thoả thuận chính thức kết thúc đàm phán
song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ kinh tế thương mại đôi bên.
Sau chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Bill Clinton, hai nước tiếp tục trao đổi nhiều
chuyến thăm viếng cấp cao khác, đặc biệt là các cuộc trao đổi của các tướng lĩnh quân sự.
Có lẽ, ý tưởng hợp tác quân sự Việt – Mỹ xuất hiện ngay từ chuyến viếng thăm (tháng
7/1996) của tiến sỹ Althony Lake – cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Bill Clinton. Trong các
cuộc tiếp xúc và hội đàm với phía Việt Nam, ông đã nói rõ quan điểm của phía Mỹ là “Hoa Kỳ
muốn thấy một Việt Nam mạnh và ổn định, ngày càng hội nhập với các thể chế khu vực và
quốc tế, đồng thời Hoa Kỳ muốn thúc đẩy quan hệ với Việt Nam về những lợi ích chiến lược
lâu dài”. Ông cũng nhắc đến vấn đề hợp tác quân sự khởi đầu ở cấp tùy viên giữa hai bên.
Trong năm 1997, đô đốc J. Prueber – tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương đã đến thăm Việt
Nam; sau đó một phái đoàn các sỹ quan cao cấp Cục đối ngoại Bộ quốc phòng Việt Nam cũng
sang thăm Mỹ.Cũng nên nhớ rằng, trong những năm đầu sau bình thường hóa quan hệ Việt –
Mỹ, giới quân sự hai bên thường chia sẻ mối quan tâm giống nhau về tình hình an ninh khu vực,
mong muốn thúc đẩy các hợp tác quân sự song phương; trong khi nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam
lại cho rằng quan hệ Việt – Mỹ không nên chú trọng về quân sự , mà chủ yếu dựa trên các quan
hệ kinh tế – thương mại; vấn đề hợp tác quân sự chỉ có thể ở tương lai. Nhưng sự chuyển biến
của tình hình quốc tế, khu vực lúc bấy giờ đã như chất xúc tác giúp cho các hoạt động hợp tác
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 24
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
quân sự Việt – Mỹ tăng tốc. Tháng 3/2000, bộ trưởng quốc phòng Mỹ Cohen thăm Việt Nam.
Đáp lại, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam Phạm Văn Trà đã thăm Mỹ vào tháng 11 năm đó.
Tháng 6/2005, thủ tướng Phan Văn Khải đã có chuyến thăm chính thức tại Washington.
Trong chuyến viếng thăm này, hai bên đã ký kết một số hiệp định hợp tác trong lĩnh vực quân
sự và tình báo; sau đó phía Mỹ cũng tiến tới ký kết với Việt Nam một hiệp định về giáo dục và
huấn luyện quân sự quốc tế (IMET). Tháng 6/2006, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, D. Rumsfeld
thăm Việt Nam, phía Mỹ bắt đầu cho phép một số công ty Mỹ cung cấp thiết bị quân sự hạn chế
cho Việt Nam; tuy vậy, lệnh cấm bán vũ khí sát thương vẫn được duy trì cho đến khi tổng thống
George Bush tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm bán các trang thiết bị quân sự không sát thương cho Việt
Nam vào năm 2007.
Trong năm 2008, sau chuyến đi Mỹ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hai bên đã tiến hành
cuộc đối thoại song phương đầu tiên về chính trị – an ninh – quốc phòng (PSDD) cấp thứ trưởng
tại Hà nội.
Khoản tài trợ Chương trình giáo dục, huấn luyện quân sự quốc tế (IMET) của Mỹ cho Việt
Nam từ năm 2005-2012.
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Số tiền(nghìnUSD)
50
49
274
181
191
400
476
611
Nguồn: Security Cooperation Agency, U.S Department of Defense, “Foreign Military Sales,
Foreign Military Construction Sales and Other Security Cooperation Historical Facts: As of
September 30, 2012”
Năm 2010, cuộc đối thoại về chính sách quốc phòng Việt – Mỹ (Defense Policy Dialogue –
DPD) cấp thứ trưởng hàng năm, đầu tiên được tổ chức tại Washington. Năm sau (2011), hai bên
đã đã ký tại DPD lần thứ hai một Bản ghi nhớ tăng cường hợp tác quốc phòng song phương,
trong đó xác lập 5 khu vực hợp tác cụ thể: (1) đối thoại thường xuyên ở cấp cao, (2) vấn đề an
ninh hàng hải, (3) vấn đề tìm kiếm cứu hộ, (4) vấn đề hỗ trợ nhân đạo và ứng cứu thiên tai,vấn
đề gìn giữ hòa bình; hai bên cũng thống nhất cứ 3 năm một lần trao đổi các chuyến viếng thăm
của hai Bộ trưởng quốc phòng. Con đường hợp tác an ninh – quốc phòng đôi bên cơ bản đã
được khơi thông.
Năm 2012, Leon Panetta trở thành Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đầu tiên thăm Cam Ranh từ
sau Chiến tranh Việt Nam. Cùng năm, Việt Nam cử Quan sát viên tới dự Tập trận Hải quân lớn
nhất thế giới mang tên Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC 2012) do Mỹ khởi xướng.
Đầu tháng 10/2014, Mỹ đã tuyên bố dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho
Việt Nam. Tháng 3 vừa qua, phía Mỹ công bố trao 6 tàu tuần tra cao tốc, giúp đỡ Việt Nam vận
hành, bảo trì và xây dựng xưởng sửa chữa nhằm tối ưu hóa khả năng hoạt động của các thiết bị
này.
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Nam
Page 25