MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phân công lại lao động xã hội trong quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa nói chung và ở tỉnh
Tiền Giang nói riêng trong thời gian qua, nhất là khi đất nước chuyển sang
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có những kết quả bước
đầu, song còn nhiều bất cập: tỷ trọng lao động thuần nông, thuần lương
còn cao, nhịp độ phân công lại lao động xã hội trong các ngành, các vùng
và các thành phần kinh tế còn chậm, hiệu quả kinh tế - xã hội của phân
công lại lao động chưa tăng tương xứng với tiềm năng vốn có... Những bất
cập này có phần do điểm xuất phát thấp. Song về mặt chủ quan phải kể
đến do ảnh hưởng trong tư duy và cách làm của mô hình kinh tế chỉ huy
tập trung, quan liêu bao cấp, môi trường thể chế chưa đồng bộ, chậm bổ
sung để hoàn thiện; tổ chức thực tiễn chưa năng động kịp thời trên cả hai
tầm quản lý vĩ mô và vi mô.
Ngày nay, phân công lại lao động xã hội không ngừng diễn ra ngày
càng sâu rộng cùng với sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Vì vậy, việc nghiên cứu sự chuyển biến có tính
quy luật của phân công lao động xã hội để vận dụng phát triển kinh tế cả
nước nói chung và tỉnh Tiền Giang nói riêng là rất cần thiết, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn hiện nay. Vì lẽ đó, tác giả chọn đề tài: "Vấn đề phân
công lại lao động xã hội trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
tỉnh Tiền Giang” làm luận án tiến sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ này, khái niệm "Phân
công lại lao động xã hội" đã được Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam (khóa
1
III) đề cập đến trong Văn kiện và tiếp sau đó có nhiều công trình lý luận và
thực tiễn đã nêu lên vấn đề này. Nhưng sau đó, một thời gian dài bị lãng
quên ít được đề cập.
Đến nay, ở Việt Nam đã có hàng trăm công trình nghiên cứu và
viết về kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam như: Đậu Quý Hạ: "Suy
nghĩ về phân công lại lao động xã hội hiện nay", 1993; Phạm Văn Tần: "Về
phân công trên địa bàn huyện"; Luận án Thạc sĩ của Đỗ Gia Bột với đề tài:
"Một vài suy nghĩ về phân công lại lao động trên địa bàn Hưng Hà trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội" (đã bảo vệ năm 1995); Trần Đình
Hoan: "Phân công, phân bố lại và sử dụng nguồn lao động với vấn đề cơ
cấu kinh tế công - nông nghiệp trong chặng đường hiện nay"; ...
Tuy nhiên, việc nghiên cứu có tính hệ thống về lý luận và thực tiễn
về phân công lại lao động xã hội trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ở tỉnh Tiền Giang chưa có công trình nào đề cập đến..
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án:
Xác lập những căn cứ lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho việc đề
xuất những quan điểm, định hướng và giải pháp có tính khả thi nhằm đẩy
mạnh phát triển phân công lại lao động xã hội trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ở tỉnh Tiền Giang theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Nhiệm vụ của luận án:
Trình bày một cách có hệ thống cơ sở lý luận về phân công lao
động xã hội; nêu một số kinh nghiệm về phân công lao động xã hội trong
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một số nước trên thế giới
- Phân tích thực trạng phân công lao động xã hội và những nhân tố
ảnh hưởng đến phân công lại lao động xã hội ở Tiền Giang hiện nay.
2
- Đề xuất những quan điểm, phương hướng và giải pháp thực hiện
phân công lại lao động xã hội ở Tiền Giang trong những năm tới.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu của luận án
- Luận án tập trung nghiên cứu vấn đề phân công lại lao động xã
hội trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và giới hạn trong phạm vi tỉnh Tiền Giang từ 1990 đến nay.
- Luận án đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng mácxít,
phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lôgíc kết hợp với lịch
sử, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, khảo
cứu trên cơ sở thu thập có kế thừa và khoa học những thông tin, báo cáo
của địa phương, sách báo và các công trình khoa học đã được nghiên cứu
trước đây; kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để phân tích, làm rõ những
vấn đề có liên quan đến chủ đề của luận án.
5. Đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hóa những nội dung lý luận cơ bản về phân công lại lao
động xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin, và một số lý thuyết khác làm rõ
tính độc lập tương đối và mối quan hệ giữa phân công lại lao động xã hội
với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
- Từ sự phân tích tình hình phân công lao động ở một số nước châu
Á và Việt Nam đã đưa ra những xu hướng phát triển của mô hình phân
công lao động xã hội ở các nước đó, rút ra những bài học kinh nghiệm có ý
nghĩa đối với cả nước nói chung và tỉnh Tiền Giang nói riêng.
- Đã phân tích làm rõ thực trạng phân công lao động xã hội ở tỉnh
Tiền Giang trong những năm vừa qua, đề xuất những phương hướng, giải
pháp cơ bản mang tính khả thi nhằm thúc đẩy việc phân công lại lao động
xã hội trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Tiền Giang trong những
3
năm tới.
6. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: mở đầu, 3 chương, 8 tiết, 23 biểu, 3 hình, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
4
Chương 1
PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG XÃ HỘI
VÀ PHÂN CÔNG LẠI LAO ĐỘNG XÃ HỘI
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong các
ngành, các vùng, các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội trong phạm vi xã
hội. Phân công lao động xã hội phản ánh trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất xã hội, đồng thời mỗi bước tiến của sự phân công lao động xã hội
lại có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển tạo ra phương
thức lao động mới gắn với năng suất lao động xã hội cao. Bởi vậy, năng
suất lao động xã hội cao vừa là tiền đề vừa là kết quả của sự phân công lao
động xã hội mới. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu đòi hỏi phải có sự phân công lại lao
động xã hội.
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÂN CÔNG LAO
ĐỘNG XÃ HỘI
Vấn đề phân công lao động xã hội đã được các nhà kinh điển mácxít
nghiên cứu, gắn với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Các ông cũng đã đề cập vấn đề phân công lại lao động xã hội dưới
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản như một dự đoán về tương lai.
1.1.1. Kinh tế học mácxít
Khác với các nhà kinh tế học phát triển, trong học thuyết về phân
công lao động xã hội, kinh tế học mácxít không những chỉ rõ bản chất các
điều kiện tiền đề cần thiết mà còn vạch ra khuôn khổ thể chế quyết định sự
thay đổi về chất của cuộc cách mạng công nghiệp, cơ sở của sự phát triển
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Những tiền đề ấy là:
- Sự tách rời giữa thành thị và nông thôn;
5
- Số lượng dân cư và mật độ dân số;
- Năng suất lao động trong nông nghiệp được nâng cao, đủ để cung
cấp sản phẩm “tất yếu” cho cả những người lao động trong nông nghiệp
lẫn những người lao động thuộc những ngành sản xuất khác.
- Cuối cùng là điều kiện thể chế có ý nghĩa quyết định cuộc cách
mạng công nghiệp trong tư bản chủ nghĩa là sản xuất hàng hóa, là kinh tế
thị trường.
Từ những tiền đề trên, có thể suy ra rằng việc thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động xã hội không thể có
kết quả nếu không tính tới độ chín muồi của những tiền đề này. Nó cũng
hàm ý rằng trong điều kiện cụ thể của mỗi nền kinh tế, độ chín muồi của
từng loại tiền để có thể không giống nhau và con đường để hoàn thiện hay
thay thế những tiền đề nói trên cũng sẽ không giống nhau.
Vì vậy, về mặt phương pháp lôgic và lịch sử, đã đặt ra cho chúng ta
trước khi nghiên cứu khái niệm, nội dung của phân công lao động xã hội
và phân công lại lao động xã hội cần nghiên cứu lược sử ba lần đại phân
công lao động xã hội trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Lược sử ba lần đại phân công lao động xã hội đánh dấu sự phát
triển của xã hội loài người
- Ở giai đoạn đầu, các bộ lạc và thị tộc dân cư sống hết sức thưa
thớt, sự phân công lao động xã hội hoàn toàn có tính chất tự nhiên, nó chỉ
được thực hiện giữa nam và nữ. Đàn ông thì săn bắn, đánh cá; đàn bà
chăm sóc việc nhà, chế biến thức ăn và lo may vá. Trong quá trình săn
bắn, việc phát hiện những động vật có thể thuần dưỡng được và sinh sôi
nảy nở thành bầy đàn, cung cấp cả thịt và sữa... Dần dần việc chăn nuôi và
coi giữ gia súc đã trở thành ngành lao động chủ yếu của một số bộ lạc và
việc tách các bộ lạc chăn nuôi ra khỏi các bộ lạc lớn - Đó là sự phân công
lao động xã hội lớn lần đầu tiên - Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt.
6
Những bộ lạc này, sản xuất ra nhiều sản phẩm làm từ thịt, sữa và
còn có cả da thú, len, sợi dệt ngày càng nhiều. Vì vậy, mà lần đầu tiên đã
có sự trao đổi đều đặn giữa các bộ lạc khác nhau. Điều đó đã thúc đẩy và
nâng cao mạnh mẽ năng suất lao động tạo tiền đề vật chất cho sự ra đời
của chế độ tư hữu và hình thành hai giai cấp: giai cấp bóc lột và giai cấp
bị bóc lột.
- Của cải tăng lên nhanh chóng cùng với chế độ tư hữu: nghề dệt,
nghề chế tạo đồ kim loại và các nghề thủ công khác càng tách ra, làm cho
sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú và trình độ sản xuất ngày càng
được hoàn hảo. Sự hoạt động đa dạng nhiều vẻ như vậy không thể chỉ có
cá nhân đơn lẻ tiến hành được - Sự phân công lao động xã hội lớn thứ hai
đã diễn ra: tiểu thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Điều đó thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển không ngừng và năng suất lao động ngày
càng được nâng cao đã làm cho giá trị sức lao động của con người càng
được nâng cao hơn.
- Sự xuất hiện và phát triển của phân công lao động xã hội giữa
nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, đã trực tiếp sản xuất ra nhiều sản
phẩm có giá trị trao đổi giữa những người sản xuất cá thể đã trở thành
một việc tất yếu sống còn của xã hội. Sản xuất hàng hóa thị trường, từ đó
được hình thành, cơ sở trao đổi phát triển và thị trường mở rộng đã làm
xuất hiện sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ ba - thương nghiệp
tách khỏi sản xuất.
Phân công lao động xã hội lớn lần thứ ba có ý nghĩa quyết định: vì
sự phân công lao động xã hội mới lần này đã nảy sinh ra một tầng lớp
không tham gia sản xuất trực tiếp mà chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm
- đó là tầng lớp thương nhân. Cùng với sự tách nghề tiểu thủ công khỏi
nông nghiệp, sự phân công lao động xã hội đã tạo sự đối lập giữa thành thị
và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay; tạo ra sự phân
7
chia những người sản xuất thành những người điều khiển và những người
thừa hành, phân chia những người sản xuất có quy mô lớn và quy mô nhỏ.
Trong các hình thái xã hội có giai cấp, sự đối lập nói trên càng sâu sắc và
có tính chất đối kháng.
Trải qua ba lần đại phân công lao động xã hội trong lịch sử, cho
thấy mỗi lần phân công lao động xã hội cũ bị hạn chế trong từng bộ phận
hay tách rời thành những ngành mới - cũng là quá trình hình thành
phương thức lao động mới, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng
cao năng suất lao động xã hội - Vấn đề đặt ra tất yếu phải thay thế sự phân
công lao động xã hội cũ bằng sự phân công lao động xã hội mới - cũng có
nghĩa là tiến hành phân công lại lao động xã hội.
Đến chủ nghĩa tư bản, việc thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự phân công
lao động xã hội. Sản xuất cơ khí ra đời thay cho sản xuất bằng công cụ thủ
công làm cho công nghiệp hoàn toàn tách khỏi nông nghiệp và quyết định
sự phân công hơn nữa trong nội bộ những ngành ấy. Trong nội bộ công
nghiệp cũng chia nhiều ngành khác nhau và số lượng ngày càng tăng lên.
Quá trình đó đồng thời là quá trình phát triển lực lượng sản xuất, mở rộng
sự phân công và hợp tác lao động và tăng thêm tính chất xã hội hóa của
sản xuất.
Trong các hình thái xã hội dựa trên cơ sở người bóc lột người, phân
công lao động xã hội mang tính chất đối kháng giai cấp. Dưới chế độ Tư
bản Chủ nghĩa việc chuyên môn hóa sản xuất gắn liền với những mâu
thuẫn đối kháng và phục vụ cho mục đích thu lợi nhuận. Thuộc tính vốn
có của chủ nghĩa tư bản, là sự phát triển không đều trong sự phát triển của
các ngành, điều đó gây ra sự mất cân đối thường xuyên và nạn lãng phí lao
động xã hội. Tính chất xã hội hóa của quá trình sản xuất do phân công lao
động xã hội sinh ra mâu thuẫn với chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Tính
chất xã hội hóa của quá trình sản xuất tăng lên tạo tiền đề vật chất cho nền
8
kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Đến chủ nghĩa xã hội, cơ sở kinh tế và cơ sở vật chất kỹ thuật mới
ra đời và phát triển, sẽ không còn cơ sở cho phương thức sản xuất cũ và
tính chất của sự phân công lao động xã hội cũ tồn tại và thay vào đó sự
phân công lao động xã hội mới trên cơ sở phát huy mọi năng lực của người
lao động. Và như thế, sự đối lập giữa thành thị và nông thôn; sự tách rời
giữa lao động trí óc và lao động chân tay dần dần sẽ bị xóa bỏ. Cùng với
sự tác động như vũ bão của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và công nghệ
trong điều kiện toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế, đòi hỏi phải có sự
phân công lại lao động xã hội cho phù hợp với xu thế mới.
Để nhận thức một cách có hệ thống, vấn đề phân công lao động xã
hội và phân công lại lao động xã hội. Về phương diện lý luận cần nghiên
cứu một số khái niệm có liên quan như sau:
Khái niệm phân công lao động xã hội, phân công lại lao động xã
hội và một số khái niệm có liên quan
- Phân công lao động là sự phân chia lao động vào các ngành, các
khu vực, các công đoạn khác nhau của quá trình sản xuất, các hoạt động
kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn đầu của lịch sử, sự phân công lao động còn mang
tính chất tự nhiên:
- Phân công theo tuổi tác, giới tính....; "Và phân công lao động chỉ
trở thành phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện sự phân chia thành
lao động vật chất và lao động tinh thần" [37, 45]. Sự phân công đó bao
hàm cả sự phân phối lao động và sản phẩm của lao động, mà hình thái đầu
tiên bắt nguồn từ trong gia đình.
Phân công lao động tạo ra khả năng tách rời giữa lợi ích cá nhân cá
biệt hoặc của gia đình cá biệt với lợi ích chung của các cá nhân có liên quan
9
với nhau trong quá trình tham gia vào phân công lao động. Vì ngay khi lao
động bắt đầu được phân công thì mỗi người có một lĩnh vực hoạt động đặc
thù nhất định và gắn chặt với nó. mỗi cá nhân hoàn toàn bị sự phân công
lao động chi phối và do đó mọi người đều phụ thuộc lẫn nhau. Ngay từ đầu
sự phân công lao động đã bao hàm sự phân chia những điều kiện lao động,
công cụ và tư liệu lao động. Do đó, bao hàm cả sự tích lũy tài sản giữa những
người có sở hữu khác nhau, và sự chia cắt giữa tài sản, tư liệu sản xuất và lao
động cũng như giữa những hình thức khác nhau của bản thân chế độ sở hữu.
- Trong phân công lao động cần phân biệt ba cấp độ: phân công
lao động chung, phân công lao động đặc thù và phân công lao động cá biệt.
- Phân công lao động chung bao gồm sự phân chia lao động xã
hội vào những ngành lớn như: Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Phân
công lao động chung là khái niệm để chỉ sự phân chia lao động của toàn xã
hội thành nhiều loại và cố định lao động trong những hoạt động cụ thể
khác nhau của những ngành, những lĩnh vực của quá trình sản xuất xã hội.
Về hình thức, sự phân công lao động này là sự tách rời giữa các ngành sản
xuất, các vùng sản xuất thành những ngành sản xuất chuyên môn hóa tạo
cơ sở cho sự trao đổi sản phẩm.
- Phân công lao động đặc thù là sự phân chia lao động trong nội
bộ những ngành sản xuất thành loại và thứ theo hướng chuyên môn hóa
sản xuất, quá trình đó "làm cho các hình thức chế biến sản phẩm tách rời
nhau và không ngừng tạo thêm những ngành công nghiệp mới"; ở trong
nông nghiệp là quá trình "làm nảy sinh phân ngành chuyên môn hóa và
những hệ thống kinh tế" như: hệ thống trồng trọt, hệ thống chăn nuôi,...
Quá trình đó tạo ra sự trao đổi không ngừng và đến lượt mình sự chuyên
môn hóa trở thành cơ sở tất yếu của trao đổi sản phẩm lao động, giữa sản
phẩm nông nghiệp với sản phẩm công nghiệp và giữa những sản phẩm
nông nghiệp khác nhau [30, 29-31].
10
- Phân công lao động cá biệt tức là sự phân công lao động trong
nội bộ xí nghiệp. Phân công lao động cá biệt là một phạm trù gắn liền với
tất yếu kỹ thuật của sản xuất; gắn liền với sản phẩm mang tính giai đoạn,
chưa trở thành một hàng hóa hoàn chỉnh có thể đem bán được.
C. Mác giải thích sự phân công lao động trong xã hội: "Toàn bộ
những giá trị sử dụng hay vật thể hàng hóa khác thể hiện toàn bộ những
lao động có ích, cũng nhiều hình, nhiều vẻ, cũng chia ra bấy nhiêu loại,
giống, họ, nhánh và biến chủng khác nhau. Nói tóm lại là thể hiện sự phân
công lao động xã hội, sự phân công lao động xã hội này là điều kiện tồn tại
của nền sản xuất hàng hóa, mặc dầu ngược lại, sản xuất hàng hóa không
phải là điều kiện tồn tại của sự phân công lao động xã hội" [37, 72].
Theo C.Mác và Lênin, cơ cấu của phân công lao động xã hội bao
gồm:
- Phân công lao động chung - theo các ngành lớn.
- Phân công lao động đặc thù - theo nội bộ ngành.
- Phân công lao động theo vùng kinh tế.
Để hiểu đầy đủ hơn khái niệm phân công lao động xã hội, cần làm
rõ những điểm giống nhau chủ yếu giữa sự phân công lao động cá biệt hay
phân công trong nội bộ xí nghiệp và sự phân công lao động xã hội:
Cả hai loại phân công đều biểu hiện sự chuyên môn hóa và hợp tác
hóa trong lao động, điều nói đến sự phát triển của lực lượng sản xuất và
thúc đẩy sự phát triển đó, đương nhiên là với phạm vi và tác dụng khác nhau.
Cả hai loại phân công đều có nguồn gốc tương tự: phân công lao
động xã hội ra đời trên cơ sở hợp nhất nhiều công xã khác nhau trong cùng
một hệ thống kinh tế, hoặc làm tan rã các công xã, biến các thành viên
công xã thành những người sản xuất và trao đổi hàng hóa độc lập; phân
công lao động cá biệt cũng ra đời trên cơ sở hợp nhất hoặc tách các nghề
thủ công trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản.
11
Cả hai loại phân công đều đòi hỏi, phải có những tiền đề vật chất
tương tự. Tiền đề của sự phân công lại lao động xã hội là số lượng nhân
khẩu và mật độ dân số phải phát triển đến một trình độ nhất định. Tiền đề
của sự phân công trong nội bộ xí nghiệp là số lượng công nhân do chủ tư
bản trong xí nghiệp sử dụng cùng một lúc phải tập trung đến một mức độ
thích hợp.
Phân công lao động trong xí nghiệp chỉ có thể thực hiện ở nơi nào
mà phân công lao động xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định.
Mặt khác sự phát triển của phân công lao động trong xí nghiệp lại làm cho
sự phân công xã hội phát triển hơn. Nhưng giữa phân công trong xí nghiệp
và phân công lao động xã hội có những điểm khác nhau như sau:
Trong phân công lao động xã hội, những người lao động độc lập có
mối quan hệ với nhau thông qua trao đổi hàng hóa. Nhưng phân công lao
động trong nội bộ xí nghiệp, từng người lao động bộ phận không thể làm
ra sản phẩm hàng hóa, chỉ có lao động tập thể của xí nghiệp mới tạo ra sản
phẩm hàng hóa. Những người lao động bộ phận trong xí nghiệp là những
người bán sức lao động cho cùng một nhà tư bản để họ sử dụng như là sức
lao động tập thể. Mối quan hệ giữa những người lao động trong xí nghiệp
được thực hiện trong sản xuất bằng mệnh lệnh của một nhà tư bản.
Tiền đề của sự phân công lao động trong xí nghiệp là sự tước đoạt
tư liệu sản xuất của người sản xuất trực tiếp và tập trung vào tay một nhà
tư bản, còn tiền đề của sự phân công lao động xã hội là tư liệu sản xuất
phân tán vào tay những người sản xuất hàng hóa độc lập và thuộc về
những người sản xuất hàng hóa ấy.
Trong xí nghiệp sự phân công lao động thực hiện một cách có ý
thức, theo những tỷ lệ nhất định và được phân bố một cách chặt chẽ, còn
trong phân công lao động xã hội thì tỷ lệ lao động phân bố giữa các ngành
sản xuất khác nhau được thể hiện một cách tự phát, vô tổ chức, nhưng lại
12
là một sự tất yếu không sao tránh khỏi và chỉ thấy rõ thông qua sự trao đổi
trên thị trường, tuy rằng chủ nghĩa tư bản ngày nay có khả năng điều chỉnh
kinh tế bằng các kế hoạch hướng dẫn.
C. Mác đánh giá sự khác nhau nói trên như sau: "...mặc dù có rất
nhiều sự giống nhau và những mối liên hệ giữa sự phân công lao động xã hội
và sự phân công trong xưởng thợ. Nhưng hai loại phân công đó không những
khác nhau về mức độ mà còn khác nhau về căn bản nữa" [37, 514]. Từ những
điểm giống nhau và khác nhau giữa sự phân công lao động xã hội và sự phân
công lao động trong xí nghiệp, C.Mác đã đi đến kết luận: "Trong sự phân
công lao động trong toàn thể xã hội - không kể là nó có được trao đổi hàng
hóa làm môi giới hay không - vẫn thuộc về những hình thái kinh tế-xã hội rất
khác nhau thì sự phân công lao động trong công xưởng là vật sáng tạo hoàn
toàn có tính chất đặc biệt của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa" [37,
521].
Phân công lao động xã hội theo V.I. Lênin là sự phân chia, sự tách
rời nhau giữa các ngành sản xuất trong nền kinh tế. Trong mỗi ngành đó
lại chia ra nhiều ngành nhỏ. Phân công lao động xã hội là nét đặc trưng
của nền sản xuất hàng hóa, phân biệt nền kinh tế hàng hóa với nền kinh tế
tự cấp tự túc.
Quá trình tái sản xuất xã hội như sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu
dùng thì phân công lao động xã hội thuộc phạm trù sản xuất (theo nghĩa
rộng). Vì theo khái niệm trên đã bao hàm sự phân chia lao động và các
điều kiện sản xuất khác nhau trong xã hội. Chính do sự phân công này mới
diễn ra quá trình sản xuất mới. Sản xuất là khởi điểm của quá trình tái sản
xuất. Nếu không có sản xuất thì các quá trình tiếp theo như phân phối, trao
đổi, tiêu dùng không thể có, phân công lao động xã hội thuộc phạm trù sản
xuất nên nó là phạm trù vĩnh viễn. Tuy nhiên, tính chất và hình thức biểu
13
hiện sẽ thay đổi theo những chế độ xã hội khác nhau. Trong chủ nghĩa cộng
sản hình thức phân công lao động xã hội sẽ biểu hiện khác với những xã
hội trước đó. C.Mác còn viết: "Một khi bắt đầu có phân công lao động thì
mỗi người điều có một phạm vi lao động nhất định và độc chuyên mà người
đó buộc phải nhận lấy và không thể thoát khỏi được: người đó là người đi
săn, người đánh cá hoặc người chăn nuôi hoặc là nhà phê phán có tính phê
phán và người đó vẫn cứ phải là như thế nếu như không muốn mất các tư liệu
của mình; còn trong xã hội cộng sản, trong đó không ai bị hạn chế trong một
phạm vi hoạt động, độc chuyên, mà mỗi người có thể tự hoàn thiện mình
trong bất kỳ lĩnh vực nào mà mình thích, thì xã hội điều tiết toàn bộ nền
sản xuất, thành thử tôi có khả năng hôm nay làm việc này, ngày mai làm
việc khác, buổi sáng đi săn, quá trưa đi đánh cá, buổi chiều chăn nuôi, sau
bữa cơm thì làm việc phê phán tùy, theo sở thích của tôi mà chẳng bao giờ
trở thành người đi săn, người đánh cá, người chăn nuôi hoặc nhà phê phán
cả" [35, 47].
Ngoài phần công lao động xã hội theo ngành và nội bộ ngành kinh
tế, phân công lao động xã hội còn được biểu hiện qua các hình thức:
- Phân công lao động xã hội theo vùng: là sự phân công lao động
gắn với việc tổ chức sản xuất theo vùng lãnh thổ, phân bố sản xuất trong
nội bộ vùng kinh tế một nước, là sự phân công lao động và sản xuất về mặt
không gian; sự phân công khu vực tạo ra những vùng sản xuất chuyên
môn hóa, làm cho mỗi vùng có một hay vài loại sản phẩm hàng hóa riêng
biệt với tỷ lệ hàng hóa lớn hoặc những đặc sản có giá trị kinh tế cao. Vùng
kinh tế là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Về bản chất
nền kinh tế là một hệ thống, nhưng không phải là một hệ thống kín mà là
một hệ thống mở: không chỉ có các mối liên hệ diễn ra trong nội bộ phạm
vi không gian một vùng, mà thường xuyên có những trao đổi vật chất và
thông tin với các vùng kinh tế khác. Cũng chính từ đó, khi phân công lại
14
lao động xã hội, phân bố lại lực lượng sản xuất của một vùng kinh tế
không thể không đặt trong mối liên hệ nội vùng và liên vùng kết hợp và bổ
sung thế mạnh trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế với nhau.
- Phân công lao động xã hội trong tỉnh: tức là phân công lao động
theo các ngành, các tiểu vùng chuyên môn hóa trong tỉnh. Đó là sự phân
công trong nội bộ của Tỉnh.
Việc tiến hành phân công lao động xã hội trong nội bộ Tỉnh là một
tất yếu khách quan, do đòi hỏi tất yếu về mặt kỹ thuật, kinh tế - xã hội
giữa các ngành, các vùng lãnh thổ trong quá trình phát triển kinh tế của
Tỉnh, góp phần đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cho Tỉnh nói riêng cho nền
kinh tế quốc dân nói chung.
- Phân công lao động quốc tế: là sự chuyên môn hóa sản xuất một
số loại sản phẩm và dịch vụ của một quốc gia, dựa trên những lợi thế của
mình về điều kiện tự nhiên, khoa học, công nghệ, kinh tế-xã hội để đáp
ứng nhu cầu trong nước và quốc gia khác thông qua thương mại quốc tế.
Phân công lao động quốc tế có thể xem như phân công lao động xã
hội theo lãnh thổ dựa trên các ưu thế vốn có của mỗi nước để sử dụng có
hiệu quả các nguồn tài nguyên tự nhiên, nhân lực và tất cả các tiềm năng
sản xuất khác nhau ở đó. Xét về góc độ quan hệ sản xuất, phân công lao
động quốc tế là hình thức phân công lao động xã hội ở quy mô thế giới, trong
đó quan hệ người với người trong sản xuất không bó hẹp trong một nước
mà mở rộng ra nhiều quốc gia theo nhiều chế độ kinh tế - xã hội khác biệt.
C. Mác viết: "Phân công lao động, với tư cách là một tổng thể các hình thức
hoạt động sản xuất đặc thù, là trạng thái chung của lao động xã hội, xét về
mặt vật chất của nó với tư cách là lao động sản xuất ra giá trị sử dụng" [33,
21].
Trong thời đại ngày nay, việc chuyên môn hóa được phát triển theo
15
chiều sâu, chặt chẽ và thường xuyên hơn, nên việc hợp tác hóa giữa các
nước ngoài việc trao đổi thương mại còn diễn ra thông qua phân công và
hợp tác trong lĩnh vực sản xuất, khoa học - kỹ thuật và công nghệ... Từ
việc phân công theo ngành, theo sản phẩm đã tiến đến sự phân công theo
chi tiết sản phẩm và theo quy trình công nghệ. Sự phân công lao động
quốc tế càng phát triển càng làm xuất hiện và phát triển các hình thức hợp
tác đa dạng, làm tăng tính phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, khoa học, công
nghệ, môi trường... Nhờ đó mỗi nước có thể phát huy thế mạnh, khắc phục
thế yếu của mình. Quốc tế hóa sản xuất và đời sống còn thể hiện ở sự hình
thành kết cấu hạ tầng và chi phí sản xuất quốc tế.
Nhìn chung, xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế gắn liền với sự phân
công lao động quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu và trên quy mô rộng lớn.
Do đó, nền kinh tế các dân tộc có xu hướng ngày càng phụ thuộc vào nhau
và trở thành một bộ phận nằm trong sự phân công lao động quốc tế. Trong
bối cảnh đó, việc tiến hành phân công lại lao động xã hội trong nội bộ nền
kinh tế của mỗi nước trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một tất yếu khách quan.
Có thể hiểu phân công lại lao động xã hội là sự thay đổi trạng thái
phân công lao động xã hội cũ lạc hậu bất hợp lý, hình thành trạng thái
phân công lao động xã hội mới nhằm tạo ra một cơ cấu lao động xã hội
mới, tiến bộ và hợp lý hơn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phân công lao động xã hội và phân
công lại lao động xã hội diễn ra không ngừng gắn liền với sự phát triển và
tiến bộ không ngừng của lực lượng sản xuất và của sự chuyển đổi cơ cấu
kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tính quy luật tỷ
trọng lao động nông nghiệp giảm xuống; còn tỷ trọng lao động công nghiệp
và dịch vụ tăng lên, trong đó tỷ trọng lao động dịch vụ tăng nhanh hơn tỷ
trọng lao động công nghiệp. Sự phân công lại lao động xã hội trong điều
16
kiện cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thể hiện ở sự tăng nhanh tỷ
trọng lao động trí tuệ so với tỷ trọng lao động chân tay trong tổng lao động
xã hội và tăng hàm lượng chất xám kết tinh trong sản phẩm. Sự gia tăng tỷ
trọng và vai trò của lao động trí tuệ đã đánh dấu mối quan hệ mới về chất
giữa con người và máy móc. Trong các xã hội trước, sự đối lập giữa lao
động trí tuệ và lao động chân tay xuất hiện cùng với sự ra đời của chế độ
tư hữu và giai cấp, đặc trưng cho chế độ xã hội có đối kháng giai cấp. Biểu
hiện của sự đối lập đó là người lao động bị bóc lột cả về mặt trí lực và thể
lực. Còn những công việc gắn với lao động trí tuệ: khoa học, nghệ thuật,
quản lý, hoạt động chính trị... là đặc quyền của giai cấp bóc lột và những
người đại biểu cho tầng lớp trí thức phục vụ cho giai cấp đó.
Thế nhưng, trong khi trình bày vấn đề phân công lao động xã hội,
các học giả tư sản luôn tìm cách tránh né khía cạnh thứ hai tức là hình
thái kinh tế - xã hội của phân công lao động xã hội. Khoa kinh tế học tư
sản luôn tìm cách gói gọn phân công lao động xã hội trong vấn đề phát
triển của lực lượng sản xuất, nhằm làm lu mờ mặt kinh tế - xã hội của sự
phân công lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản trong từng nước và trên
phạm vi quốc tế. Điều đó được thể hiện rõ ở tính chất đối kháng của sự
phân công và quan hệ lệ thuộc về kinh tế giữa các nước kém và đang phát
triển vào các nước tư bản đã phát triển, lệ thuộc vào sự thống trị của
những công ty tư bản độc quyền quốc tế.
Cần nhấn mạnh rằng, trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội sự phân
công lao động xã hội đều có hai mặt:
Mặt thứ nhất, của phân công lao động xã hội gồm tất cả các yếu tố
có liên quan đến sự phát triển của lực lượng sản xuất, bởi vì sự phân công
lao động xã hội trước hết là sự phân chia tư liệu sản xuất và công cụ sản
xuất theo các ngành kinh tế. C. Mác đã từng nói, lao động được tổ chức và
phân công theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào những công cụ và tư
17
liệu được sử dụng.
Mặt thứ hai, phân công lao động xã hội có liên quan đến đặc trưng
của hình thái kinh tế - xã hội mà trong đó diễn ra sự phân công lao động,
được quy định bởi những quan hệ sản xuất thống trị trong phương thức sản
xuất này hay phương thức sản xuất khác.
Trong thực tiễn đời sống xã hội, hai mặt trên luôn luôn có quan hệ
gắn bó với nhau bởi vì sự phát triển của lực lượng sản xuất bao giờ cũng
diễn ra trong bối cảnh của những quan hệ sản xuất nhất định. Cho nên khi
thực hiện sự phân công lao động xã hội và phân công lại lao động xã hội
dù là của một quốc gia hay của một địa phương bao giờ cũng gắn liền với
sự phát triển của lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất và cơ cấu kinh
tế.
Các khái niệm có liên quan đến phân công lại lao động xã hội và
mối quan hệ giữa chúng với nhau
Về mặt phương pháp luận muốn tìm hiểu mối quan hệ giữa phân
công lại lao động xã hội và cơ cấu kinh tế cần xem xét mối liên hệ bản
chất giữa chúng và đặt chúng ở trạng thái vận động theo xu hướng phát
triển có tính quy luật trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Cơ cấu kinh tế: Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý
thuyết hệ thống có thể hiểu cơ cấu kinh tế là một tổng thể các quan hệ
kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, có những mối quan hệ hữu cơ tương
tác với nhau cả về số lượng và chất lượng, diễn ra trong những không gian
và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, nhằm thực hiện những mục tiêu nhất
định trong thời kỳ này. Theo quan điểm này cơ cấu kinh tế là một phạm
trù kinh tế không thể thiếu được của mỗi chế độ xã hội.
- Cơ cấu lao động: Là một bộ phận gắn liền với cơ cấu kinh tế vì
lao động là một yếu tố của sản xuất, của nền kinh tế khi chuyển dịch cơ
18
cấu kinh tế tất yếu sẽ chuyển dịch cơ cấu lao động, tức là phải tiến hành
phân công lại lao động.
Song cơ cấu lao động, phân công lại lao động cũng ảnh hưởng thúc
đẩy hay kìm hãm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ví dụ: do chất lượng lao
động thấp không phân công lao động lại được theo mục tiêu định ra thì
chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng bị hạn chế.
Rõ ràng là trình độ cơ cấu kinh tế gắn liền với trình độ và cơ cấu
lao động. Do đó những quan hệ cơ cấu kinh tế chính là những quan hệ nói
lên trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, của sự chuyên môn
hóa và hợp tác hóa, sự trao đổi lao động với nhau dưới hình thức này hay
hình thức khác theo một tỷ lệ hợp lý. Ngược lại cơ cấu kinh tế chỉ có thể
được hình thành trên cơ sở phân công lao động xã hội, trong đó người lao
động vừa là chủ thể vừa là đối tượng của quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và quá trình phân công lao động xã hội.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Nếu như cơ cấu kinh tế thay đổi theo
từng thời kỳ xác định bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không cố
định. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ
tỷ lệ giữa các ngành các vùng, các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến
mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ
cấu kinh tế là không điều.
Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái cũ lạc hậu sang trạng
thái mới tiến bộ phù hợp với môi trường xu hướng phát triển khách quan
của nền kinh tế được gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây không phải
đơn thuần là sự thay đổi vị trí mà là sự biến đổi có tính quy luật cả về
lượng và chất lượng trong cơ cấu kinh tế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
phải hành động đồng thời với chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phân công lại lao động xã hội trong phạm vi luận án trình bày là sự
19
phân công lại trên ba mặt của phân công lao động xã hội: Phân công
ngành, phân công vùng, phân công theo thành phần kinh tế tương ứng với
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Như vậy phân công lại lao động xã
hội vừa là hệ quả vừa là tiền đề của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong thời đại khoa học - kỹ thuật phát triển như vũ bão, xu hướng
có tính quy luật chung của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nghĩa là tỷ trọng và vai trò của
ngành công nghiệp và dịch vụ có xu hướng tăng lên, còn tỷ trọng của
ngành nông nghiệp có xu hướng giảm xuống.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy, muốn chuyển từ một nền kinh tế
nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đều phải trải qua các bước
chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp (tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm 40
- 60%; công nghiệp từ 10 - 20%, dịch vụ từ 10 - 30%); sang nền kinh tế
công - nông (tỷ trọng ngành nông nghiệp 15 - 25%, công nghiệp từ 25 35%; dịch vụ từ 40 - 50%) để từ đó chuyển sang nền kinh tế công nghiệp
phát triển (nông nghiệp dưới 10%, công nghiệp: 35 - 40%, dịch vụ: 50 60%). Song song với quá trình chuyển dịch về cơ cấu kinh tế thì cơ cấu lao
động cũng phải chuyển dịch một cách tương ứng cho phù hợp - mà ở đó
đòi hỏi sự phát triển của phân công lại lao động xã hội.
Vì vậy khi nghiên cứu tính tất yếu và nội dung phân công lại lao
động xã hội trong học thuyết mácxít, chúng ta cũng cần nghiên cứu thêm
một số lý luận về kinh tế phát triển mà trong đó vấn đề phân công lại lao
động xã hội đã được các nhà kinh tế học phát triển đề cập đến từ nhiều góc
độ khác nhau và trong một chừng mực nhất định đã có những điểm tương
đồng.
1.1.2. Kinh tế học phát triển
— Kinh tế học thuộc các trào lưu chính cho rằng: Ngày nay, xu
20
hướng thay đổi cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển là khi thu nhập
đầu người tăng lên, tỷ trọng của sản phẩm nông nghiệp trong GDP sẽ thấp
xuống, tỷ trọng trong công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên, trong đó tỷ trọng
dịch vụ tăng nhanh hơn công nghiệp. Đồng thời tỷ trọng lao động trong
nông nghiệp sẽ giảm xuống, sau đó tỷ trọng lao động trong các ngành công
nghiệp và dịch vụ cũng sẽ tăng lên một cách tương đối và tuyệt đối. Sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế này đã được E.Engel và A. Fisher đề cập từ
cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX khi nghiên cứu về sự thay đổi trong
nhu cầu chi tiêu và cơ cấu lao động như sau:
— Quy luật tiêu thụ sản phẩm. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, nhà kinh
tế học người Đức E.Engel đã phát hiện ra quy luật tiêu thụ sản phẩm, khi
thu nhập các gia đình phát triển lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương
thực, thực phẩm thấp đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là
sản xuất lương thực, thực phẩm nên có thể suy ra tỷ trọng nông nghiệp
trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Quy luật của
E.Engel được phát hiện cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm, có ý
nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho tiêu dùng các loại sản phẩm
khác nhau. Các nhà kinh tế học gọi lương thực, thực phẩm là các sản phẩm
thiết yếu, còn hàng tiêu dùng công nghiệp là sản phẩm lâu bền và việc
cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu, các
ông phát hiện ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng thì tỷ lệ chi tiêu cho
hàng tiêu dùng cao cấp tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập. Như vậy quy
luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã gián tiếp làm rõ xu hướng của việc
phân công lại lao động xã hội trong quá trình phát triển kinh tế.
— Về thay đổi cơ cấu lao động. A.Fhiser đã giới thiệu khái niệm
về việc làm khu vực thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Ông cho thấy các nước
có thể phân phối tổng số lao động của từng nước ở ba khu vực: Khu vực
thứ nhất bao gồm sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp; khu vực thứ hai bao
21
gồm công nghiệp chế biến và xây dựng; khu vực thứ ba bao gồm vận tải,
thông tin, thương nghiệp. Theo ông, trong quá trình phát triển, sự tăng
cường sử dụng máy móc, áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các
phương thức canh tác mới đã tác động đến sự phân công lại lao động ở
ba khu vực này. Nông dân nâng cao năng suất lao động, để đảm bảo
lương thực, thực phẩm cần thiết cho xã hội thì không cần đến lượng lao
động như cũ và do đó tỷ lệ của lực lượng lao động trong nông nghiệp sẽ
giảm xuống một cách tương đối. Dựa vào các số lượng thống kê đã thu
thập, A. Fisher cho rằng tỷ lệ giảm này có thể từ 30% đối với các nước
chậm phát triển xuống 11-12% ở các nước công nghiệp phát triển và
trong những điều kiện đặc biệt có thể xuống 5%. Ngược lại tỷ lệ lao
động được thu hút vào khu vực hai và khu vực ba ngày càng tăng do tính
co giãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực này, đặc biệt là đối với khu
vực thứ ba [26, 81-82].
— Lý thuyết nhị nguyên do A.Lewis khởi xướng, ông đã có ý kiến
cụ thể về việc phân công lao động ngành trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu theo hướng công nghiệp hóa. Lý thuyết này cho rằng: mối quan hệ
giữa hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp xuất phát từ tư tưởng của
Ricardo, ông lưu ý đến mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp
trong việc giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn. Việc di chuyển lao
động sẽ làm cho tỷ trọng lao động trong nông nghiệp ngày càng giảm,
nhưng vẫn giữ mức sản lượng lương thực không đổi và còn tăng lên do
năng suất lao động trong nông nghiệp tăng lên, và ông cho rằng để tăng
hiệu quả của sự tác động qua lại giữa hai khu vực cần kết hợp với việc
giảm tốc độ tăng dân số, tạo điều kiện cho sự phân công lao động xã hội
phát triển [26, 87].
— Lý thuyết các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow
Theo W. Rostow, quá trình phát triển kinh tế của một nước có thể
22
chia ra làm năm giai đoạn như sau:
• Xã hội truyền thống - Trong giai đoạn này, sản xuất nông nghiệp
giữ vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh tế. Năng suất lao động thấp do
sản xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công, khoa học - kỹ thuật chưa phát
triển mạnh. Hoạt động chung của xã hội kém linh hoạt, sản xuất nông
nghiệp còn mang tính tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hóa chưa phát triển.
Lao động chiếm tuyệt đại bộ phận lao động xã hội.
• Giai đoạn chuẩn bị cất cánh - Trong giai đoạn này những điều
kiện cần thiết để cất cánh đã bắt đầu xuất hiện, đã có sự tiếp cận và áp
dụng khoa học - kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp
tạo tiền đề cho sự chuyển dịch lao động trong nông nghiệp sang các ngành
khác. Giáo dục được mở rộng và có những cải tiến cho phù hợp với sự
chuyển biến của nền kinh tế. Nhu cầu đầu tư tăng đòi hỏi các tổ chức ngân
hàng ra đời, giao lưu hàng hóa trong và ngoài nước phát triển thúc đẩy
ngành giao thông vận tải và thông tin liên lạc ra đời.
• Giai đoạn cất cánh - Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tăng từ 5-10%; khoa
học - kỹ thuật tác động mạnh vào công nghiệp và nông nghiệp; công nghiệp
giữ vai trò đầu tàu, có tốc độ tăng trưởng cao, đem lại lợi nhuận lớn tạo điều
kiện tái đầu tư phát triển sản xuất; khu vực nông nghiệp áp dụng tiến bộ
kỹ thuật mới, thu hút lao động nông nghiệp vào khu vực đô thị và dịch vụ
phát triển... tạo ra sự thay đổi về nhận thức và lối sống mới trong nông
dân.
• Giai đoạn trưởng thành - Nhiều ngành công nghiệp mới, hiện đại
phát triển; Cơ giới hóa trong nông nghiệp đạt năng suất cao. Việc di
chuyển lao động nông nghiệp sang các ngành nghề mới tại nông thôn, tạo
ra nhiều sản phẩm mới và nhu cầu xuất - nhập khẩu tăng mạnh tham gia
vào thị trường quốc tế.
• Giai đoạn mới tiêu dùng cao - Nổi bật ở giai đoạn này là: Thu
23
nhập bình quân đầu người tăng nhanh; cơ cấu lao động có sự chuyển dịch
theo chiều hướng: Tăng tỷ lệ dân cư đô thị và tăng tỷ lệ lao động có trình
độ chuyên môn tay nghề cao; và nhu cầu xã hội tăng cao kích thích các
ngành dịch vụ ra đời và phát triển [26, 85-86].
— Mô hình khu vực của Harry T. Oshima
Các nhà kinh tế châu Á thì cho rằng khi bắt đầu phân công lại lao
động xã hội, năng suất lao động trong nông nghiệp có thể tăng lên đồng
thời với việc giảm tình trạng thiếu việc làm trong thời kỳ nhàn rỗi. Biện
pháp mở rộng quy mô đối với các nông trại, trang trại trong canh tác ở
châu Á là khó khăn vì vậy biện pháp cơ bản là phải tăng vụ và đa dạng
hóa cây trồng và kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi. Do có nhiều việc
làm, thu nhập của người lao động bắt đầu tăng lên, việc đầu tư giống mới, cải
tạo cây trồng, áp dụng khoa học - kỹ thuật và cải tiến công cụ lao động là
một vấn đề tất yếu khách quan. Nhà nước hỗ trợ đầu tư cho nông nghiệp ở
hệ thống thủy lợi, giao thông vận tải nông thôn, hệ thống hóa giáo dục và
điện khí hóa nông thôn; nâng cấp các tổ chức hợp tác xã nông nghiệp, các
tổ chức tín dụng hỗ trợ vốn cho nông dân; các hoạt động dịch vụ phục vụ
nông nghiệp và nông thôn. Tất cả những biện pháp trên phải đồng bộ, bởi
sự đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ lệ không lớn so với công
nghiệp, đòi hỏi cao về vốn, trình độ quản lý, kỹ năng lao động v.v... [26,
102-103].
Trong giai đoạn này nhu cầu lương thực do số dân tăng lên là hết
sức cần thiết, việc tăng sản lượng trong nông nghiệp sẽ làm giảm lượng
lương thực nhập khẩu hoặc mở rộng việc xuất khẩu lương thực. Cả hai
trường hợp này điều nhằm có thêm ngoại tệ để nhập máy móc thiết bị cho
các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động.
Kế đến là tiến hành đa dạng hóa nông nghiệp làm tăng việc làm
ngoài ngành nông nghiệp bằng các hoạt động chế biến lương thực, thực
24
phẩm, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Điều này đòi hỏi sự hoạt động
đồng bộ từ các ngành về sản xuất, vận chuyển, bán hàng đến các dịch vụ
hỗ trợ cho nông nghiệp. Như vậy chính sự phát triển của nông nghiệp
cũng đã tạo điều kiện mở rộng thị trường. Quá trình này diễn biến trong
một thời gian dài và phụ thuộc vào tốc độ tăng dân số và khả năng giải
quyết tình trạng thất nghiệp của từng nước.
Khi xuất hiện xu hướng sử dụng máy móc thay thế lao động thủ
công, thì lao động nông nghiệp sẽ rút bớt lao động chuyển sang các ngành
khác, trong khi đó nông thôn sản xuất lương thực vẫn tiếp tục tăng.
Tóm lại, các nhà kinh tế phát triển đã rút ra những nhận định cốt
lõi của việc tiến hành phân công lao động xã hội trong nông nghiệp như
sau:
+ Fei - Rain cho rằng sự dư thừa lao động trong nông nghiệp có
thể chuyển sang khu vực công nghiệp mà không làm giảm sản lượng
nông nghiệp.
+ T.Oshima thì cho rằng đây là cách nhìn không thích hợp với đặc
điểm châu Á, nhất là những vùng lúa nước, ở đây sản lượng nông nghiệp
được tạo ra phụ thuộc vào đỉnh cao của thời vụ - ở những nơi không có sự
dư thừa lao động.
Các ông (trong đó Ricardo từ đầu thế kỷ XIX) cũng cho rằng các
nước đang phát triển khó có kinh nghiệm áp dụng mô hình tân cổ điển, bởi
vì mô hình này đòi hỏi phải có đầy đủ các nguồn lực đặc biệt là vốn, lao
động có kỹ thuật để tạo ra sự phát triển đồng bộ giữa công nghiệp và nông
nghiệp. Đây là giai đoạn rất khó khăn.
Như vậy, trong lịch sử có rất nhiều lý luận khác nhau về vấn đề
phân công lao động xã hội, mỗi lý luận có những đóng góp mới vào việc
nghiên cứu phân công lại lao động xã hội theo những cách tiếp cận và
quan điểm riêng. Do vậy việc nghiên cứu, vận dụng các lý luận ấy cần
25