Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN tác ĐỘNG của CUỘC CÁCH MẠNG KHOA học CÔNG NGHỆ HIỆN đại đến đổi mới KINH tế ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.25 KB, 28 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
HIỆN ĐẠI ĐẾN ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

____________________
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là sự thay đổi trong
bản thân các lĩnh vực khoa học công nghệ cũng như mối quan hệ và chức
năng xã hội của chúng, khiến cho cơ cấu và động thái phát triển của các
lực lượng sản xuất cũng bị thăy đổi hoàn toàn. Trong đó, quan trọng nhất
là việc nổi lên vai trò hàng đầu của yếu tố con người trong hệ thống lực
lượng sản xuất, dạ trên vận dụng đồng bộ các ngành công nghệ mới có
hàm lượng công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ sinh học… cuộc cách mạng khoa học công nghệ có tác
động mạnh mẽ đến công cuộc đổi mới của Việt Nam đặc biệt là trong
lĩnh vực kinh tế.
Sau hơn 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, với đường lối đổi
mới đúng đắn, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Đảng và nhân dân ta đã giành được
những thành tựu to lớn và rất quan trọng: Đất nước ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; nước ta ngày càng có vị thế cao trên trường quốc tế, có uy tín và
niềm tin với bè bạn các nước trên thế giới, tạo thế và lực mới cho sự
thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Hiện nay, sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang chịu sự tác động sâu
sắc, toàn diện của tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, mau lẹ tạo
nên các nhân tố thời đại vừa có cơ hội, vừa đặt ra những thách thức khó
khăn đối với tất cả các quốc gia dân tộc trong đó có sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam. Các nhân tố của thời đại hiện nay được Đảng ta chỉ rõ trong
Văn kiện Đại hội IX đó là: Cuộc c¸ch mạng khoa học và công nghệ có


bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong
quá trình phát triển lực lượng sản xuất; toàn cầu hóa kinh tế là một xu
thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia vừa có mặt tích
cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Các mâu thuẫn cơ
bản trên thế giới biểu hiện dưới nhiều hình thức mới, tính chất và mức
độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển có mặt sâu sắc hơn; Cuộc đấu
tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt, với
những biểu hiện mới và triển khai trên bình diện rộng cả về kinh tế,
chính trị, văn hóa, ngoại giao, xã hội, quân sự, đạo đức, lối sống… Chủ
nghĩa xã hội hiện thực lâm vào khủng hoảng trầm trọng tan rã, nhưng
cũng có những điều kiện, khả năng, nhân tố mới để vượt qua thời kỳ
thoái trào để tạo ra những bước phát triển mới. Chủ nghĩa tư bản hiện
đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học - công nghệ và thị trường đang
điều chỉnh, thích nghi làm dịu đi mâu thuẫn vốn có của nó giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, biểu hiện về mặt xã hội là mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, biểu hiện mới hiện nay
giữa tư bản và lao động, không chỉ ở các nước tư bản mà tồn tại ngay ở

2


các nước xã hội chủ nghĩa, Đại hội X nhấn mạnh “Khoa học - công nghệ
có những đột phát mới”(1).
Cuộc đấu tranh vì độc lập, chủ quyền, có quyền lựa chọn và quyết
định con đường phát triển của các quốc gia độc lập đang hướng trực tiếp
vào việc chống chính sách cường quyền và áp đặt, can thiệp và xâm
lược của nước ngoài. Các vấn đề toàn cầu như ô nhiễm môi trường, vấn
đề dân số, bệnh tật, đói nghèo, tội phạm quốc tế, khủng bố… đang thách
thức tất cả các quốc gia trên thế giới. Khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương đang phát triển năng động, nhưng cũng tiềm ẩn những nhân tố

bất ổn định…
Các nhân tố trên của thời đại hiện nay có quan hệ tác động, đan
xen với nhau phản ánh tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay “diễn
biến nhanh chóng, phức tạp chứa đựng những yếu tố khó lường”(2), tồn
tại cả các nhân tố ổn định và bất ổn định, phát triển và suy thoái, hòa
bình và chiến tranh, hợp tác và đấu tranh, thống nhất và phân chia, hợp
tác và cạnh tranh; vừa tạo cơ hội, vừa đặt ra thách thức cho tất cả các
nước trong cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên tính chất, mức độ, phạm vi, cơ
hội do các nhân tố thời đại tạo nên không ngang bằng nhau giữa các
quốc gia dân tộc. Trong phạm vi bài Thu hoạch này chỉ tập trung trình
bày vấn đề: Tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại đến sự nghiệp đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay, góp phần làm sâu
sắc thêm sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công

1
2

Đảng CSVN, VKĐH X, NXB CTQG, H, 2006, trang 21
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH VIII, NXB CTQG, H, 1996, trang 76

3


nghệ hiện đại đến sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước nói chung và
trên lĩnh vực kinh tế nói riêng.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại ra đời khoảng
những năm 70 của thế kỷ XX(1), là kết quả tất yếu của sự phát triển lực
lượng sản xuất của nhân loại. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại ra đời và phát triển do nhiều nguyên nhân cả sự phát triển tự
thân của khoa học và công nghệ đạt đến một chu kỳ phát triển mới, vừa

do sự thúc đẩy của cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản trong
đó khủng hoảng về năng lượng là vấn đề nổi bật. Thêm vào đó chủ
nghĩa xã hội hiện thực đã là một đối trọng cả về kinh tế, chính trị, xã
hội và quân sự với chủ nghĩa tư bản và cả hai bên buộc phải chấp nhận
một cuộc chạy đua kinh tế, quân sự trong cuộc “chiến tranh lạnh”. Cuộc
chạy đua này giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đã
tạo ra một kích thích lớn tới sự phát triển khoa học và công nghệ.
Chính từ những lý do cơ bản trên mà từ những năm 70 của thế kỷ XX,
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại phát triển nhanh chóng
như vũ bão tác động toàn diện đến tất cả các lĩnh vực của đời sống thế
giới cũng như từng quốc gia dân tộc trong đó có Việt Nam.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là sự gắn bó chặt
chẽ với nhau của khoa học và công nghệ. Nó được thực hiện trên cơ sở
lý luận khoa học phát triển không ngừng và các quá trình công nghệ liên
tục được hoàn thiện. Trong đó lượng tri thức khoa học và các thành tựu
công nghệ tăng vọt làm chuyển hóa sâu sắc trình độ sản xuất, hàm lượng
trí tuệ trong sản phẩm ngày càng tăng lên, hàm lượng vật chất trong sản
1

Tạp chí Thông tin CNXHKH… Số 6/2005, trang 2

4


phẩm ngày càng giảm. Theo đó, bản chất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại chính là sự nhảy vọt về chất trong sự phát triển của
lực lượng sản xuất; là sự cải biến căn bản lực lượng sản xuất do sự hợp
nhất của cuộc cách mạng khoa học và cách mạng công nghệ. Trong cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, khoa học đóng vai trò chỉ đạo,
đi trước một bước, tạo tiền đề cần thiết cho sự xuất hiện và phát triển
công nghệ mới. Khoa học ngày càng trở thành yếu tố trực tiếp của quá

trình sản xuất, việc áp dụng các thành tựu khoa học ngày càng quyết
định đến sự phát triển của lực lượng sản xuất, năng suất lao động và hàm
lượng khoa học kết tinh trong sản phẩm ngày càng cao. Đến lượt nó,
công nghệ vừa đòi hỏi vừa cung cấp cho khoa học những công cụ,
phương tiện hiện đại để nâng cao năng lực và hiệu quả nghiên cứu khoa
học (công nghệ thông tin, viễn thông, tin học, vật liệu mới…). Đồng thời
công nghệ phát triển làm cho quá trình chuyển từ phát minh khoa học
đến áp dụng vào sản xuất ngắn hơn, nhanh hơn. Nếu như trước kia từ
phát minh sáng chế khoa học áp dụng vào sản xuất phải mất 50 đến 60
năm thì ngày nay chỉ 1 đến 2 năm hoặc vài tháng, vài ngày. Mặt khác,
công nghệ còn “đặt hàng” cho khoa học những phương hướng, yêu cầu
nghiên cứu phục vụ cho cuộc sống.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thực chất là sự gắn
bó chặt chẽ giữa cách mạng khoa học và cách mạng công nghệ và đặc
điểm nổi bật của nó là khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, làm thay đổi vị trí, chức năng hoạt động của con người - yếu tố
năng động nhất của lực lượng sản xuất - trong quá trình sản xuất - Người
5


lao động đang dần tách dần quy trình hoạt động của máy móc để hoạt
động với tính cách là người lao động sáng tạo. Cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ hiện đại vừa mang tính chất toàn cầu vừa mang tính bao
quát, tổng hợp, tác động trên mọi lĩnh vực khoa học, các hoạt động của
con người, các lĩnh vực của đời sống xã hội, diễn ra với tốc độ nhanh,
không chỉ ở một nước mà trên phạm vi toàn thế giới… Chính vì vậy,
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là nhân tố quan trọng,
then chốt tác động toàn diện đến sự nghiệp đổi mới ở nước ta, trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…
Trong đó, lĩnh vực chịu tác động mạnh mẽ nhất là lĩnh vực kinh tế - lĩnh

vực suy cho cùng quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới ở nước
ta. Điều đó được Đảng ta khẳng định rất rõ trong “Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”: “Khoa học và công
nghệ giữ vai trò then chốt trong sự phát triển lực lượng sản xuất và nâng
cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền
kinh tế… là quốc sách hàng đầu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta”(1).
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như
vũ bão, tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến sự nghiệp đổi mới kinh tế ở nước
ta được biểu hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Một là, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tác động
đến mục tiêu của quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế chậm phát triển,
lực lượng sản xuất thấp, trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả
1

Đảng CSVN, “Cương lĩnh…”, NXB ST, H, 1991, trang 13

6


nặng nề. Cho nên, Đảng ta đã xác định phải đổi mới toàn diện đất nước,
trong đó, trọng tâm là đổi mới kinh tế. “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu
tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định
mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường tiếp theo”(1); “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát
triển kinh tế tri thức đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020”(2). Thực chất mục tiêu của đổi mới
kinh tế ở nước ta là đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đưa nền

sản xuất nước ta từ một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, kém phát triển lên nền
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa hiện đại. “Có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu”(3). Nghĩa là đổi mới nền kinh tế đất nước phải theo
hướng: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại, từng bước chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân. Đại hội X chỉ rõ phát triển mạnh và nâng cao
hiệu quả hoạt động khoa học - công nghệ “Tạo động lực đẩy nhanh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức”(4).
Để thực hiện mục tiêu đổi mới kinh tế, tất yếu phải tiến hành sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải phát triển lực lượng sản xuất,
phải tiếp thu những thành tựu do cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại đem lại. Bởi vì, suy cho cùng sự phát triển của xã hội nói chung
1

Đảng CSVN, VK NQĐH VI, NXB ST, H, 1987, trang 42
Đảng CSVN, VK NQĐH X, NXB CTQG, H, 2006, trang 187
3
Đảng CSVN, VK NQĐH IX, NXB CTQG, H, 2001, trang 90
4
Đảng CSVN, VK NQĐH X, NXB CTQG, H, 2006, trang 210
2

7


và một đất nước nói riêng là do yếu tố lực lượng sản xuất quyết định và
chủ nghĩa xã hội chỉ có thể chiến thắng chủ nghĩa tư bản bằng năng suất
lao động của chủ nghĩa xã hội cao hơn năng suất lao động của chủ nghĩa

tư bản.
Giữa cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại với mục tiêu
đổi mới kinh tế ở nước ta có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau.
Trong đó, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là động lực, là
điều kiện, tạo cơ hội cho nước ta thực hiện mục tiêu đổi mới kinh tế.
Đồng thời mục tiêu đổi mới kinh tế của nước ta không tách rời, không
tránh khỏi sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, việc
tiếp thu thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại để thực hiện mục tiêu
đổi mới kinh tế ở nước ta như một tất yếu khách quan.
Với ưu thế vượt trội về quá trình phát minh, sáng chế khoa học và
công nghệ; được áp dụng vào sản xuất gần như tức thì và liên hoàn, gắn
với yếu tố lao động ở trình độ cao, là nhân tố cơ bản nhất để phát triển
lực lượng sản xuất và tăng năng suất lao động, cách mạng khoa học công nghệ hiện đại tạo điều kiện tốt và trở thành động lực cho mục tiêu
phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Bởi vì, khi
khoa học - công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì năng
suất lao động cơ bản phụ thuộc vào trình độ phát triển và khả năng áp
dụng khoa học - công nghệ vào quá trình sản xuất. Trong khi đó, việc
sáng tạo, phát minh và áp dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất lại do
con người tiến hành. Do đó, cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là
nhân tố cơ bản quyết định đến sự phát triển lực lượng sản xuất và tăng
8


năng suất lao động và điều chỉnh cơ cấu lao động xã hội. Điều đó được
biểu hiện rất rõ trong những năm gần đây năng suất lao động của ngành
cơ khí chế tạo máy tăng gấp 20 lần, công nghệ thông tin tăng 200 lần so
với những năm 70 của thế kỷ XX. Đây chính là nhân tố cơ bản, yếu tố
không thể thiếu thúc đẩy quá trình thực hiện mục tiêu đổi mới kinh tế là:
phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời
sống nhân dân, đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công

nghiệp, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, nước ta đang thiếu một lực lượng sản xuất phát triển,
thiếu một nền khoa học - công nghệ tiên tiến, chưa có cơ cấu kinh tế
công nghiệp hiện đại thì những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại
trở thành động lực trực tiếp, yếu tố không thể thiếu trong phát triển lực
lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động và tiến hành sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở nước ta hiện nay.
Như vậy, giữa cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và
mục tiêu đổi mới kinh tế ở nước ta như hai mặt đối lập thống nhất cùng
tồn tại trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Trên thực tế, từ khi tiến
hành sự nghiệp đổi mới nói chung và đổi mới kinh tế nói riêng, nhờ tiếp
thu được những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại trên thế giới và
phát triển khoa học - công nghệ trong nước nền kinh tế nước ta đã ra
khỏi khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế cao bình quân 3 năm (2001 2003) là 7,1%/năm; lực lượng sản xuất phát triển mạnh. Việc “chuẩn bị
tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”(1).
1

Đảng CSVN, VK ĐH VIII, NXB CTQG, H, 1996, trang 67-68

9


Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tuy có tác động
trực tiếp tạo điều kiện, động lực cho nước ta thực hiện mục tiêu đổi mới
kinh tế là phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
Nhưng còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan tiếp biến những điều kiện,
cơ hội đó của Đảng, Nhà nước, các thành phần kinh tế như thế nào. Do
vậy, để biến những cơ hội, điều kiện đó thành hiện thực trong xây dựng
nền kinh tế đặc biệt là trong thực hiện mục tiêu kinh tế cần phải có

phương pháp tiếp thu thành tựu khoa học - công nghệ một cách hiệu quả,
phải biết “đi tắt, đón đầu” trong tiếp thu những thành tựu khoa học của
thế giới trên cơ sở tuần tự kết hợp với nhảy vọt, phát huy lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ khoa học - công nghệ tiên
tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và
phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ trong quá
trình sản xuất, để cho khoa học - công nghệ thực sự là nền tảng, động lực
thúc đẩy các mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Mục tiêu của đổi mới kinh tế ở nước ta không chỉ tăng năng suất
lao động, phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế mà phải thực
hiện tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Đây mới là giá trị đích thực của đổi mới kinh tế theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại không chỉ tạo điều kiện cho mọi người dân, mọi thành phần kinh
tế được làm giàu chính đáng theo pháp luật trên cơ sở ứng dụng thành
10


tựu khoa học - công nghệ. Chính cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại làm cho người lao động giảm được chi phí đầu tư và lao động cơ
bắp, tăng năng suất lao động. Và chỉ có dưới chủ nghĩa xã hội, thành tựu
khoa học - công nghệ hiện đại mới được sử dụng vào mục đích nhân văn
vì sự phát triển của người lao động.
Tuy nhiên, cơ hội, điều kiện mà cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại tạo ra cho phát triển kinh tế không ngang bằng nhau giữa
các thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân lao động. Bởi đặc tính của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là hàm lượng tri thức,
khoa học công nghệ, thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất cho

sản xuất, công cụ sản xuất hiện đại như Internet, computer thay thế dần
cho các công cụ công nghiệp truyền thống. Chính vì vậy, bên cạnh
những tác động tích cực, cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại còn
tác động đến “sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa nông thôn và
thành thị, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh chóng” (1), “tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao, đang là
một trong những vấn đề nổi cộm nhất của xã hội”(2), “tình trạng đói
nghèo còn rất cao chiếm 45,7% ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số” (3),
“tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn cao, lao động thiếu việc làm và
không có việc làm nhiều, tỷ lệ lao động qua đào tạo rất thấp” (4). Sự bất
bình đẳng về kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay là một thực tế, do nhiều
nguyên nhân trong đó có sự tác động của cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại. Bộ phận dân cư ở thành thị, dân tộc Kinh có điều kiện tiếp
1

Đảng CSVN, VKNQ ĐH IX, NXB CTQG, H, 2001, trang 75
Đảng CSVN, VKNQ ĐH IX, NXB CTQG, H, 2001, trang 74
3
Hà Quế Lâm, “Xóa đói giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số..”, NXB CTQG, H, 2002, trang 44
4
Đảng CSVN, VKNQ ĐH X, NXB CTQG, H, 2006, trang 166
2

11


thu khoa học - công nghệ sẽ có cuộc sống khá giả, ngược lại bộ phận dân
cư ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số không có điều kiện
tiếp thu khoa học - công nghệ sẽ rơi vào cuộc sống khó khăn thiếu thốn
cả về vật chất và tinh thần.

Như vậy, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tác động
vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực đến mục tiêu đổi mới
kinh tế ở nước ta, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, nhân dân và các thành phần
kinh tế phải nhận thức sâu sắc để có biện pháp phát huy vai trò của khoa
học - công nghệ hiện đại trong thực hiện mục tiêu đổi mới kinh tế vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đồng thời khắc
phục những tiêu cực do chính cuộc cách mạng đó mang lại là sự bất bình
đẳng về kinh tế, đời sống giữa các bộ phận, tầng lớp dân cư.
Hai là, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại tác động sâu sắc đến quá trình mở cửa hội nhập kinh tế của
nước ta trong đổi mới kinh tế.
Nhận thức đúng xu thế khách quan của toàn cầu hóa kinh tế do
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thúc đẩy, trong đường lối
đổi mới, Đảng ta xác định phải thực hiện chính sách mở cửa, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu tất yếu khách quan của phát triển
kinh tế đất nước. Muốn phát triển kinh tế, muốn đổi mới thành công phải
mở cửa, phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu đóng cửa, “bế quan
tỏa cảng” là không phát triển, là dậm chân tại chỗ. Với tính chất toàn
cầu, bao quát, tổng hợp và diễn ra nhanh chóng, tốc độ cao, quy mô lớn cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là động lực trực tiếp thúc
12


đẩy toàn cầu hóa kinh tế, tạo nên xu thế tất yếu khách quan của hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực, là vấn đề có tính quy luật của sự phát triển
nền sản xuất thế giới nói chung và phát triển kinh tế ở Việt Nam nói
riêng.
Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại tạo nên xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, lôi cuốn tất cả các
nước trên thế giới tham gia. Đặc trưng cơ bản của toàn cầu hóa kinh tế là
tính thẩm thấu lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng, làm cho

nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu, phân công lao động ở trình độ
cao, tạo nên sự liên kết thị trường thế giới, gia tăng các luồng chuyển
giao công nghệ, vốn, thông tin và tri thức khoa học. Đây là cơ hội “ngàn
vàng” cho nước ta chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế nhằm
thu hút vốn đầu tư, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học, công nghệ
hiện đại, học tập kinh nghiệm tổ chức và quản lý sản xuất, kết hợp nội
lực với ngoại lực cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Như vậy, sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ hiện
đại, thông qua quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã tác động đến chính sách,
chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tạo điều kiện
cho nước ta kích thích mở rộng sản xuất kinh doanh, giải quyết hài hòa
lợi ích quốc gia, dân tộc, tránh được sự phân biệt đối xử trong quá trình
hội nhập. Đồng thời phát huy được vị thế của nước ta trong giải quyết
các vấn đề tranh chấp quốc tế và khu vực; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc, bảo đảm hội nhập kinh tế nhưng bảo đảm tính độc lập, tự chủ và giữ
13


vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, Đảng ta đã đánh giá
“kinh tế nước ta ngày càng hội nhập vào kinh tế khu vực và quốc tế” (1),
“chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với
tình hình đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn 2020… khai thác có
hiệu quả và giảm tối đa thách thức khi nước ta là thành viên của tổ chức
Thương mại thế giới (WTO)”(2) do tác động của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm nảy sinh những
khó khăn, thách thức cho hội nhập cũng như đổi mới kinh tế đất nước.
Bởi vì, vừa qua ngày 07/11/2006 nước ta đã trở thành thành viên chính

thức của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) điều đó đã đem đến những
cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế nước ta, mặt khác hiện nay
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
đang nằm trong tay chủ nghĩa tư bản, tập trung ở ba trung tâm kinh tế
lớn: Mỹ - Tây Âu (EU) - Nhật Bản và các công ty đa quốc gia, xuyên
quốc gia. Do vậy, thực chất toàn cầu hóa kinh tế hiện nay là toàn cầu hóa
kinh tế tư bản chủ nghĩa, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại thông qua toàn cầu hóa kinh tế tư bản chủ nghĩa đến
đổi mới kinh tế đất nước ta tất yếu mang các yếu tố của chủ nghĩa tư bản
tác động không nhỏ đến mục đích của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
của nước ta. i vì, mục đích của chủ nghĩa tư bản nghiên cứu khoa học,
phát triển công nghệ, ứng dụng khoa học, công nghệ vào các lĩnh vực
1
2

Đảng CSVN, VKNQ TW 9, Khóa IX, NXB CTQG, H, 2004, trang 24
Đảng CSVN, VKNQ ĐH X, NXB CTQG, H, 2006, trang 114

14


đặc biệt là lĩnh vực quân sự nhằm thôn tính, nô dịch, khống chế, chi phối
các dân tộc khác. Đối với các nước đang phát triển - nhất là ở Việt Nam,
chủ nghĩa tư bản ra điều kiện, áp đặt những vấn đề chính trị, dân chủ,
nhân quyền theo kiểu tư sản trong quá trình chuyển giao công nghệ. Đây
là một thách thức lớn đối với quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế
để phát triển kinh tế theo mục tiêu của quá trình đổi mới vừa phát triển
lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân
dân, vừa giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và toàn cầu hóa đặt
ra yêu cầu cạnh tranh rất khốc liệt trên thị trường toàn cầu, đòi hỏi cao về

trình độ lao động, vốn, năng lực cạnh tranh, môi trường đầu tư, khoa học
- công nghệ, chất lượng sản phẩm. Trong khi đó, ở nước ta hiện nay
những vấn đề đó còn thấp, đòi hỏi tất yếu trong quá trình hội nhập kinh
tế phải giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu khách quan của hội nhập kinh
tế, tác động của khoa học - công nghệ hiện đại với thực trạng nền kinh tế
đất nước, còn yếu kém, như những lực cản từ nội lực nền kinh tế nước ta.
Như vậy, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại vừa tạo điều
kiện vừa đặt ra những thách thức lớn cho quá trình mở cửa, hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực trong đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay.
Ba là, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tác động
mạnh mẽ đến đổi mới cơ chế vận hành và cơ chế quản lý nền kinh tế
nước ta.
Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện
đại đến lực lượng sản xuất xã hội, đến mọi nền kinh tế…, do đó, ở từng
15


nước phải thay đổi cơ chế quản lý nền kinh tế cho phù hợp với sự phát
triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Bởi vì, cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là nhân tố cơ bản quyết định
tính năng động, đa dạng của nền kinh tế. Nếu quản lý theo cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp, kế hoạch hóa kéo dài sẽ tạo ra sức ỳ, kém năng
động của nền kinh tế khi lực lượng sản xuất đã phát triển do thúc đẩy của
yếu tố khoa học - công nghệ, đặc biệt là đòi hỏi của sự cải cách nền hành
chính đất nước từ sức ép khi Việt Nam là thành viên của tổ chức Thương
mại thế giới (WTO). Do vậy, Đảng ta xác định trong đường lối đổi mới
kinh tế là phải xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp vì nó đã bộc lộ
những hạn chế của nó. Từ đó, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mặt khác, kinh tế hàng hóa là sự phát triển tất yếu của lực lượng
sản xuất xã hội, không chỉ của riêng của chủ nghĩa tư bản. Chính cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại làm cho kinh tế hàng hóa, kinh
tế thị trường tư bản phát triển vượt bậc mang tính toàn cầu. Đặc trưng cơ
bản của kinh tế thị trường là tính năng động, sáng tạo của các chủ thể
tham gia nền kinh tế thị trường. Do nhu cầu tất yếu của phát triển lực
lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phát huy mọi
thành phần kinh tế trong nước, nên phải phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan hợp quy luật
nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế trong quá trình
16


đổi mới, tiếp thu những thành tựu do cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại mang lại phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại cũng đặt
ra cho thực hiện chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta những thách thức to lớn. Bởi vì, thực hiện chính sách
kinh tế nhiều thành phần là sử dụng thành phần kinh tế tư bản, tư nhân
mà theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê nin đã chỉ rõ chế độ tư
hữu hàng ngày, hàng giờ tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản. Do đó, đặt ra
yêu cầu phải giữ vững vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nhiều thành
phần.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan
trọng, là công cụ để nhà nước quản lý và điều tiết vĩ mô, thể hiện bản
chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Trong khi đó, chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch lợi dụng sự yếu kém về khoa học, công nghệ,
muốn thông qua đầu tư, chuyển giao công nghệ, vốn, thị trường khuyến

khích tự do hóa kinh tế, tư nhân hóa, khuyến khích và tập trung cho các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, từ đó chuyển hóa nền kinh tế thị
trường sang hướng tư bản chủ nghĩa, từng bước làm chệch hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Như vậy, trước sự tác động của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta vừa có cơ hội phát huy các thành phần kinh tế, vừa
tạo ra những nhân tố bất ổn định, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa
nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
17


Bốn là, tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện
đại làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế dẫn đến biến đổi cơ cấu giai cấp - xã
hội.
Là một nước nông nghiệp, lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, hiện nay nước ta vẫn có cơ cấu
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, chiếm hơn 70% là nông dân. Cho nên, sự
nghiệp đổi mới kinh tế ở nước ta là đưa nước ta lên nền sản xuất hiện
đại, có cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn liền với phân
công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế. Quá trình đó chịu tác động, ảnh
hưởng sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là động lực trực
tiếp thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta từ cơ cấu kinh tế
nông nghiệp lạc hậu từng bước lên cơ cấu kinh tế công nghiệp hiện đại
theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và xây dựng (từ 22,7% lên 36,6%
năm 2000); dịch vụ tăng (từ 38,6% lên 39,1% năm 2000); đồng thời
giảm tỷ trọng nông nghiệp (từ 38,7% xuống 24,3% năm 2000) trong
GDP(1). Bởi vì, ưu thế của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
là tác động trực tiếp đến phát triển lực lượng sản xuất, tác động đến mọi
ngành nghề kinh tế cả công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, sẽ thúc đẩy

nhanh các lĩnh vực kinh tế còn thấp kém, tạo điều kiện cho công nghiệp
hóa nông nghiệp, nông thôn, làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi. Nhờ có sự
phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại mà nước ta tiếp tục phát
triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới
bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh
1

Đảng CSVN, VK NQĐH IX, NXB CTQG, H, 2001, trang 149-150

18


học, đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, phát triển công
nghiệp và dịch vụ, chuyển một bộ phận quan trọng trong lao động nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới,
nâng cao chất lượng nguồn lực, cải thiện đời sống nhân dân và dân cư ở
nông thôn. Như vậy, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại, cơ cấu kinh tế nước ta có bước chuyển dịch tích cực, đến
năm 2003 tỷ trọng công nghiệp và xây dựng đạt 40,5%; tỷ trọng nông
nghiệp giảm còn 21,7% trong GDP. Tỷ trọng lao động nông, lâm, ngư
nghiệp trong lao động xã hội năm 2000: 68,2% đến năm 2002 giảm
xuống còn 66,6%(1), và “phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ lao động trong khu
vực nông nghiệp còn dưới 50% lực lượng lao động xã hội” (2). Điều đó
chứng tỏ cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thúc đẩy nhanh quá
trình xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta theo mục tiêu của đổi mới đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tác động làm biến
đổi cơ cấu nền kinh tế kéo theo sự biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội. Ở
nước ta, theo hướng phân hóa thành những giai cấp, tầng lớp, nhóm xã

hội mới, đa dạng, đan xen nhưng xích lại gần nhau hơn; từng bước xóa
bỏ dần sự khác biệt giữa lao động công nghiệp và lao động nông nghiệp,
giữa công nhân và nông dân. Trong đó, cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại làm cho giai cấp công nhân Việt Nam biến đổi nhanh chóng,
toàn diện cả về số lượng và chất lượng; cả về nhận thức chính trị, thu
1
2

Đảng CSVN, VK NQTW IX, Khóa IX, NXB CTQG, H, 2004, trang 21
Đảng CSVN, VK ĐH X, NXB CTQG, H, 2006, trang 93

19


nhập, mức sống, văn hóa, tay nghề. Điều này có ý nghĩa cực kỳ to lớn
trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường trong
đổi mới kinh tế ở nước ta. Sự tăng lên về số lượng giai cấp công nhân từ
2,7 triệu (1997) lên hơn 10 triệu (hiện nay) cũng như chất lượng nâng lên
cả về trình độ khoa học - kỹ thuật, văn hóa, mức sống; số lượng giai cấp
nông dân giảm, lực lượng trí thức tăng trong tất cả các ngành nghề, khu
vực kinh tế, đã phản ánh sự tác động tích cực, là hệ quả tất yếu của cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại đến cơ cấu nền kinh tế, cơ cấu giai
cấp - xã hội ở nước ta - vấn đề đặc biệt quan trọng trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và đổi mới kinh tế nói riêng.
Tuy nhiên, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại cũng tác
động tiêu cực đến cơ cấu nền kinh tế và cơ cấu giai cấp - xã hội nước ta.
Biểu hiện rõ nhất ở sự phân hóa các giai cấp, tầng lớp, thậm chí trong
từng giai cấp, làm phân hóa giàu - nghèo, thất nghiệp gia tăng. Hiện nay
ở nước ta sự phân hóa giai cấp nông dân do hệ quả của cách mạng khoa

học - công nghệ và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn khá bất lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội, có người ví tình trạng
này như “thời kỳ đầu tích lũy tư bản nguyên thủy”. Theo thống kê, ở các
vùng nông thôn hiện nay chỉ có khoảng 20% số hộ nông dân giàu và khá
lên do có vốn, điều kiện địa lý thuận lợi, áp dụng được khoa học - công
nghệ vào sản xuất; 50% dư ăn, còn lại 30% ở mức nghèo (có 5 - 7% rất
nghèo, thu nhập bình quân 80.000 đồng/người/tháng, thường xuyên thiếu
ăn, không xây dựng được nhà cửa), một bộ phận nông dân bỏ quê, bỏ
20


ruộng đất ra thành phố kiếm sống. Tình trạng thất nghiệp, bán thất
nghiệp là phổ biến, thiếu việc làm, hoặc nông dân mất đất do quy hoạch
công nghiệp thiếu tính chiến lược… là những nhân tố tiềm ẩn bất ổn định
về kinh tế - xã hội. Tình hình giai cấp công nhân và các tầng lớp lao
động khác cũng chịu ảnh hưởng tiêu cực do cách mạng khoa học - công
nghệ tác động cũng có sự phân hóa các tầng lớp trung lưu, cũng có bộ
phận giai cấp công nhân rất khó khăn về đời sống vật chất và tinh thần,
đại đa số công nhân hiếm có cơ hội có nhà ở trong đô thị là một thực tế
do giá nhà ở cao, công nhân lao động trong các xí nghiệp sản xuất
(chiếm phần đông) không có khả năng chi trả… Sự phân hóa giàu nghèo,
tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm sẽ dẫn đến những vấn đề xã hội, tệ
nạn xã hội… đặt ra yêu cầu bức thiết cho đổi mới kinh tế vì “dân giàu,
nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh” phải giải quyết.
Như vậy, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tác động
mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện của quá trình đổi mới kinh tế đất nước cả về
mục tiêu đổi mới, chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế; đổi mới
cơ chế quản lý, cơ cấu nền kinh tế nước ta. Sự tác động ấy theo cả 2
chiều hướng tích cực và tiêu cực, đến mọi yếu tố của nền kinh tế: lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, phát triển kinh tế với công bằng xã hội.

Do vậy, để phát huy tính tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đến sự nghiệp đổi mới kinh tế
ở nước ta hiện nay cần tập trung thực hiện một số biện pháp cơ bản, chủ
yếu sau:

21


Trước hết, cần coi phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát
triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu xuất phát từ vai trò to lớn của
khoa học - công nghệ trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói chung và đổi mới, phát triển
kinh tế nói riêng. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại không
chỉ là nhân tố cơ bản quyết định sự phát triển lực lượng sản xuất, nâng
cao năng suất lao động mà còn tạo cơ hội cho nước ta mở cửa hội nhập
kinh tế quốc tế đạt hiệu quả cao, làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hiện đại, có cơ chế kinh tế phù hợp theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Mặt khác, nước ta đang ở trình độ khoa học - công nghệ thấp
so với thế giới và khu vực, lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ (có lĩnh vực 4 đến 5
thế hệ), hiệu quả sử dụng chỉ đạt 20 đến 30%, nguồn lực khoa học công
nghệ vừa thiếu vừa kém. Do vậy, phải coi phát triển khoa học - công
nghệ và giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm chuẩn bị đầy đủ
điều kiện tiếp thu, áp dụng khoa học - công nghệ tiên tiến thế giới, đồng
thời hạn chế được những bất cập, yếu kém của nền khoa học - công nghệ
nước nhà.
Phát triển khoa học - công nghệ đòi hỏi phải toàn diện, nhưng có
bước đi thích hợp vừa tuần tự, vừa “đi tắt đón đầu” hướng việc nghiên
cứu và phát triển khoa học - công nghệ vào việc nâng cao năng suất lao

động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên
thị trường, xây dựng năng lực công nghệ quốc gia, ứng dụng sáng tạo
22


công nghệ nhập khẩu, hướng mạnh vào việc tạo ra công nghệ mới, đi
nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại như công
nghệ tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hoá…
Đồng thời, phải đầu tư thích đáng cho phát triển khoa học - công
nghệ, tăng dần tỷ lệ ngân sách chi cho phát triển khoa học - công nghệ.
Mặc dù, nước ta đã chi khoảng 2% tổng GDP cho khoa học - công nghệ
nhưng vẫn còn thấp so với các nước phát triển trên thế giới (Canada:
8,8%, Mỹ: 8,4%, Nhật Bản: 6,6%, Trung Quốc: 4 - 5 %). Đặt chương
trình phát triển khoa học - công nghệ là một bộ phận quan trọng trong
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có cơ chế phù hợp,
khuyến khích các doanh nghiệp dành một phần vốn, lợi nhuận cho
nghiên cứu phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục và đào tạo. Coi sự
phát triển giáo dục - đào tạo luôn gắn chặt với phát triển khoa học - công
nghệ, vì đây là lĩnh vực cung cấp nguồn nhân lực bậc cao cho phát triển
khoa học - công nghệ. Đồng thời, mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự
giúp đỡ của các nước phát triển trong phát triển khoa học - công nghệ;
kết hợp nguồn nhân lực khoa học - công nghệ trong nước và quốc tế
phục vụ cho phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
thực hiện thắng lợi các mục tiêu đổi mới kinh tế do Đảng xác định.
Kết hợp chặt chẽ giữa chủ động và tích cực với giữ vững độc lập tự
chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Thực chất, đây là giải pháp nhằm giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa
yếu tố khách quan (cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại - một
nhân tố thời đại) với nhân tố chủ quan (mục tiêu, chính sách kinh tế 23



nhân tố nội lực) trong quá trình đổi mới, phát huy và kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại cho phát triển kinh tế đất nước. Chính vì
vậy, Đảng ta nhấn mạnh: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế
quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường”(1).
Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, và đến nay chúng ta đã hội nhập sâu và
đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, được đánh dấu bằng việc gia nhập vào tổ
chức Thương mại thế giới (WTO). Với mục đích là nhằm huy động và
tiếp thu nguồn vốn, khoa học - công nghệ, kinh nghiệm, tổ chức, quản lý
nền sản xuất trong quá trình đổi mới kinh tế dưới sự tác động của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Nhưng quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế phải giữ vững được độc lập, tự chủ, định hướng xã hội
chủ nghĩa, luôn bị tác động bởi những mặt trái của quá trình đó. Do vậy
phải chuẩn bị đầy đủ những điều kiện cần thiết cho quá trình hội nhập,
tiếp thu khoa học - công nghệ như: thể chế kinh tế, tăng trưởng kinh tế
phải bền vững, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh
nghiệp, của sản phẩm, cơ chế quản lý phù hợp, tiềm năng khoa học và
công nghệ, nguồn lực con người. Có như vậy mới phát huy tối đa những
tác động tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đến quá trình đổi mới
kinh tế ở nước ta nói chung cũng như việc tiếp thu khoa học - công nghệ
1

Đảng CSVN, VKNQ ĐH IX, NXB CTQG, H, 2001, trang 120

24



hiện đại nói riêng. Phải có quan điểm lộ trình, bước đi phù hợp, chống
mọi quan điểm, tư tưởng hội nhập bằng mọi giá bất chấp lợi ích dân tộc,
quốc gia. Hoặc tư tưởng rụt rè, bỏ lỡ thời cơ, vì muốn hay không cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại vẫn tác động một cách khách
quan đến nền kinh tế nước ta, nếu không tranh thủ tiếp thu sẽ tụt hậu, sẽ
không phát triển.
Luôn luôn cảnh giác và kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu
thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc lợi dụng cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại nhằm mục đích thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình”
lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bản thân cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ hiện đại không mang tính chính trị, song việc nghiên
cứu áp dụng những thành tựu của nó vào mục đích gì lại phụ thuộc vào
quan điểm, lợi ích của giai cấp, lực lượng sử dụng và nắm giữ nó. Hiện
nay, những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
do chủ nghĩa tư bản nắm giữ, làm cho khoa học - công nghệ nhiều khi
mang “bộ mặt” phi nhân bản, làm cho trí tuệ của loài người dừng lại,
hoang mang và bỡ ngỡ trước tạo vật của chính mình. Dưới chủ nghĩa tư
bản, như Mác nói: Khoa học chỉ chiếu ánh sáng của mình lên cái màn
tăm tối của sự ngu dốt, trở thành công cụ nô dịch và kìm hãm sự phát
triển của nhiều dân tộc. Ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ hiện
đại vào lĩnh vực quân sự, sản xuất các loại vũ khí giết người hàng loạt
(nguyên tử, hạt nhân, sinh học, hoá học) là nỗi kinh hoàng cho loài
người. Mặt khác, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không bao
giờ từ bỏ âm mưu xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó
25



×