TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Khoa Đòa Lý
Lớp 2A-K34
Bài thuyết trình Thổ Quyển:
Gvhd:Thầy Nguyễn Tấn Viện
Nhóm thực hiện:Nhóm 10
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÁNG 10/2009
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
KHOA:ĐỊA LÝ
LỚP 2A-K34
Bài thuyết trình thổ quyển:
GVHD: Thầy Nguyễn Tấn Viện
SVTH: Vũ Kiều Anh ( 3460300 )
Trần Thò Kim Anh (34603005 )
Phạm Thò Hằng (34603023 )
Lê Thò Hoa ( 34603029)
Phạm Thò Hương (34603036 )
Vũ Thò Ngân ( 34603054 )
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÁNG 10-2009
Mục lục
Mục lục.........................................................................................................2
Lời mở đầu...................................................................................................4
I. Khái quát chung về đồng bằng sông Cửu Long:.................................5
II. Khái niệm đất mặn:..................................................................................6
Nhóm 10 – K34A
Trang2
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
III. Nguồn gốc hình thành:...........................................................................6
IV. Phân bố đất mặn:.................................................................................10
V. Đặc điểm và phân loại đất mặn:.......................................................13
VI. Biện pháp sử dụng và cải tạo đất mặn:...........................................19
Phụ lục........................................................................................................23
Lời kết..........................................................................................................25
Tài liệu tham khảo.....................................................................................26
Nhóm 10 – K34A
Trang3
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
Lời mở đầu
Đất là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia và
càng đặc biệt có ý nghóa hơn đối với những nước sản xuất nông nghiệp như Việt
Nam.
Tài nguyên đất nước ta rất đa dạng và phong phú. Đi dọc chiều dài của đất
nước mỗi vùng đều gắn với một hoặc nhiều loại đất khác nhau và có khi lại mang
nét đặc trưng của vùng đó. Chẳng hạn như nói đến đồng bằng sông Hồng là nói
đến đất phù sa, Tây Nguyên thì có đất đỏ bazan, còn nhắc đến đồng bằng sông Cửu
Long lại đặc trưng bởi đất phèn và đất mặn.
Chiếm 17% tổng diện tích đất ơ ûđồng bằng sông Cửu Long, đất mặn phân
bố ở hầu khắp các tỉnh như: Bến Tre, Sóc Trăng, Kiên Gang…Đất mặn có nguồn
gốc hình thành, phân bố, phân loại, đặc điểm và vấn đề sử dụng và cải tạo như thế
nào? Đây không chỉ là vấn đề của riêng vùng mà nó còn là vấn đề chung cho Đảng
và Nhà Nước đối với “vùng sản xuất lương thực – thực phẩm lớn nhất cả nước”
này.
Sau đây xin mời thầy và các bạn cùng với nhóm đến với bài thuyết trình
“tìm hiểu về đất mặn ở đồng bằng sông Cửu Long” để phần nào đó hiểu hơn về
vấn đề này.
Nhóm 10 – K34A
Trang4
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
I. Khái quát chung về đồng bằng sông
Cửu Long:
Đ
ồng bằng sông Cửu Long là
một châu thổ ( delta) nhiệt
đới, được thành tạo do sông Cửu
Long bồi đắp vònh biển cũ. đồng
bằng châu thổ sông Cửu Long như
là một đồng bằng phù sa màu mỡ,
đất tự nhiên là 3950000 ha bao
gồm 13 tỉnh: Long An, Đồng Tháp,
Bản đồ ĐB.S Cửu Long
Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh,
Vónh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang và An
Giang. Vùng có những điều kiện đặc biệt về tự nhiên, rất thuận lợi cho việc phát
triển nông nghiệp toàn diện và phát triển ngư nghiệp. Đây cũng là “vùng trọng
điểm số 1 về lương thưc- thực phẩm” của cả nước. Bên cạnh đặc điểm tự nhiên nêu
trên về xã hội đây là một trong hai đồng bằng có dân cư tập trung cao. Dân số
16,7tr.người(2002) mật độ dân số trên 400 người/km 2. Những vấn đề mà nhóm
chúng tôi muốn đề cập và trao đổi với các bạn ở đây đó là đất mặn ở đồng bằng
này.
Đất mặn là một dạng đất ngập nước nằm ở phía bờ biển phân bố chủ yếu
ở vùng Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và bán đảo Cà Mau chiếm 18,1%
diện tích của đồng bằng. Đất ở đây mặn vì có hàm lượng muối trong đất vượt quá
0,1%.
Nhóm 10 – K34A
Trang5
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
II. Khái niệm đất mặn:
Đất mặn là loại đất có chứa nhiều catrion Na + hấp phụ trên bề mặt keo đất
và trong dung dòch đất.
Diện tích phân bố:
Đất mặn chiếm diện tích khoảng 971356ha rải từ Bắc vào Nam, nhưng
chiếm nhiều nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, cụ thể ở các tỉnh: Minh Hải,
Tiền Giang, Bạc Liêu, Trà Vinh, Bến Tre…
III. Nguồn gốc hình thành:
Tự nhiên:
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa trên nền
tảng cận xích đạo, vò trí nước ngầm lại gần mặt đất và có kiểu chế độ nước bốc hơi
sẽ xảy ra hiện tượng tích lũy muối ở lớp đất mặt. Độ mặn của đất là do nước có
chứa muối xâm nhập theo các mao quản, đi lên từ mạch nước ngầm sau đó bốc hơi
để lại muối trong đất. Các loại muối thường có gốc là Cacbonac, Sunfat với các
kim loại kiềm. Đất có chứa lượng muối dễ hòa tan lớn hơn hoặc bằng 1% ở tầng
đất mặt được gọi là đất Xolonsac. Qúa trình hình thành đất này cũng được gọi là
quá trình Xolonsac( quá trình mặn hóa).
Quá trình mặn hóa:
Khái niệm:
Mặn hóa là quá trình xâm nhiễm và tích tụ các muối và các kim loại kiềm
trong môi trường đất, nước khi các môi trường này chưa bò mặn trở nên mặn. Sự
mặn hóa có thể bò nhiễm theo hai yếu tố sau:
Mặn hóa do muối
Nhóm 10 – K34A
Trang6
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
(gồm các muối NaCl, Na2SO4, MgSO4, MgCl2, NaNO3, Mg(NO3)2, CaCl2,
CaSO4…là muối kim loại kiềm và kiềm thổ có gốc axit là những anion: Cl -, SO42-,
NO3-, CO32-, mà Cl- đóng vai trò chủ đạo.
Mặn hóa do kiềm
(Là các kim loại kiềm và kiềm thổ như Na, K, Mg, Ca) tích lũy với hàm lượng cao
trong đất nhất là Na.
Nguyên nhân của quá trình mặn hóa:
Bay hơi: khi các muối hòa tan tích lũy ở những nơi mà quá trình bay
hơi trội hơn quá trình kết tủa. Đó là nơi tập trung nước từ nơi khác đổ
về và bốc hơi từ lòng đất lên, hay quá trình nước ngầm mặn đè lên bề
mặt đất bằng mao dẫn kết hợp với các muối tan trên mặt đất.
Nước tưới mặn: khi sử dụng nước mặn để tưới, các ion Ca 2+, Mg2+ bò
giữ lại trong đất dạng kết tủa CO32-. Còn Na+ thì bò giữ lại ở dạng dung
dòch hay hấp phụ
nh hưởng của mặn hóa lên môi trường sinh thái đất:
Trong hầu hết các trường hợp mà đất hấp thụ ion Na + đều được giải thích
theo phản ứng sau:
Sét-Ca + 2Na Sét Na2 + Ca2+
Sét-Mg + 2Na Sét Na2 + Mg2+
Nếu Ca2+ và Mg2+ được giải phóng và kết tủa ở dạng muối không hòa tan
thì phương trình trên nghiêng về bên phải và trong từng trường hợp, phản ứng này
gần như diễn ra hoàn toàn. Kết quả nghiên cứu của Kelley Lumins(1921) cho thấy,
sử dụng nhiều muối Na:
Nhóm 10 – K34A
Trang7
Bài thuyết trình thổ quyển
Thêm
10
(m.e)
với các muối
NaCl
NaNO3
Na2CO3
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
Các bazơ trong dung dòch (m.e)
Ca++
Mg++
Na+
Na+ được hấp thu
ï(m.e)
2.2
2.2
0.3
2.4
2.9
5.0
1.0
1.0
0.2
7.6
7.1
5.0
BSL : Ảnh hưởng của các loại muối Na khác nhau lên đất Yolo (Kelley và
Cummins, 1921).
Và như vậy một lượng lớn Na+ được hấp thụ hay Ca+ và Mg+ dạng dung
dòch, rất ít khi sử dụng
NaCO3
bằng
NaCl
hay
NaNO3. Các muối của Ca2+
và Mg2+ có gốc chloride hay
nitrate dễ hòa tan hơn các
gốc khác trước khi chúng
được thay thế. Trong khi với
gốc cacbonat, Mg2+ và Ca2+ ở
dạng muối này hòa tan nhiều
hơn một ít. Khi đó mức độ
Đất mặn ở đồng bằng sông Cửu Long
hòa tan của Na+ của các bazơ
trao đổi trong đất bò ảnh hưởng lâu dài bởi các loại muối Na tích tụ trong đất. Nói
chung, đất mặn chứa một nồng độ muối Na2CO3 cao thì tương đối dễ hòa tan hơn
muối NaCl (đất đen mặn, theo Hilgard), Na+ cũng dễ hòa tan hơn khi trao đổi với
các nguyên tố khác trong đất không có Na2CO3.
Tuy nhiên, nguyên nhân làm cho đất của vùng bò nhiễm mặn còn là do
muối NaCl có trong thuỷ triều hoặc nước mặn trên mặt xâm nhập vào trong đất và
Nhóm 10 – K34A
Trang8
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
sự khoáng hoá của xác thực vật ưa mặn. Một số nơi của vùng, đặc biệt là vùng hạ
lưu châu thổ là vùng trũng thấp thường xuyên chòu tác động của thủy triều và sóng
biển. Mực nước ở các cửa sông lên xuống rất nhanh tạo điều kiện cho những lưới
nước mặn ngấm dần vào trong đất ở một số vùng cực Nam Cà Mau và dải đất
duyên hải ở Gò Công- Bến Tre.
Con người :
Sự hình thành đất mặn của
đồng bằng sông Cửu Long không
chỉ là do thiên nhiên tạo ra mà còn
chòu tác động của con người. Việc
tưới tiêu không hợp lí làm dâng
mực nước ngầm chứa muối cũng
gây nên mặn hóa ở một số nơi
trong vùng.
Tưới tiêu không hợp lý cũng là
nguyên nhân gây mặn ỡ vùng
Ví dụ: Tóm tắt tình hình xâm nhập
mặn từ ngày 20 đến 28/2/2009 tại
Bến Tre dưới tác động chủ yếu là do người dân:
Trên Cửa Đại:
Tại
Bình
Đại:19,3‰
ngày 26-02-2009
Tại Lộc Thuần:11,1‰
ngày 26-02-2009
Trên kênh Giao Hòa:
Tại Giao Hòa :0,3‰
Bản đồ tỉnh Bến Tre
ngày 2527-02-2009
Trên sông Hàm Luông:
Nhóm 10 – K34A
Trang9
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
Tại An Thuận:17,8‰ ngày 27-02-2009
Tại Phú Khánh :2,4‰ ngày 26-02-2009
Tại Sơn Đốc: 4,5‰ ngày 26-02-2009
Trên sông Cổ Chiên:
Tại Bến Trại: 20,0‰ ngày 20-02-2009
Tại Hương Mỹ :1,7‰ ngày 26-02-2009
Tại Thành Thới 0,2‰ ngày 22-02-2009
IV. Phân bố đất mặn:
IV.1. Phân bố chung:
Quỹ đất đồng bằng sông Cửu Long rất phong phú bên cạnh diện tích đất
phù sa >1 triệu ha (chiếm 23%
diện tích tự nhiên ), đất phèn và
đất mặn khoảng 1,8 triệu ha
(chiếm 48% diện tích của vùng).
Riêng đất mặn chiếm khoảng
70000 ha (chiếm 17%). Ngoài ra,
còn có các loại đất khác như đất
xám, đất than bùn, đất đồi núi…
Đất mặn được phân bố chủ yếu
chạy thành một dải men theo phía
Bản đồ phân bố đất mặn ở đồng
bằng sông Cửu Long
Đông Nam của tỉnh Long An qua phần lớn tỉnh Gò
Công cũ (Đông Nam tỉnh Tiền Giang), phía Đông
tỉnh Bến Tre( bên ngoài đường nối liền Giong Trôm-Mỏ Cày), phần lớn tỉnh Trà
Vinh( đến tận Vũng Liêm), phần lớn tỉnh Sóc Trăng, đại bộ phận hai tỉnh Cà Mau
và Bạc Liêu, 1/3 tỉnh Hậu Giang( xa nhất đến quá Kế Sách, ven biển Phú Quốc).
Nhóm 10 – K34A
Trang10
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
Nếu so với diện tích đất nông nghiệp của cả nước thì đất ở đồng bằng sông
Cửu Long chiếm tỉ lệ là 63,4%. Có thể nói vốn đất là vốn quý nhất ở đồng bằng
sông Cửu Long.
IV.2. Phân bố ở một số tỉnh tiêu biểu:
IV.2.1. Long An:
Vùng có đất phù sa nhiễm mặn phân bố ở Cần Đước, Cần Giuộc, Châu
Thành, Tân Trụ… chiếm diện tích khoảng 1,26% diện tích toàn tỉnh. Đất có dinh
dưỡng khá, thường xuyên bò nhiễm mặn vào mùa khô nên hạn chế trong sản xuất
nông nghiệp. Vùng đất nhiễm mặn thường trồng các loại cây như đước, sú, vẹt…
IV.2.2. Cà Mau:
Nhóm đất mặn có diện tích 208.500ha, chiếm 40% diện tích tự nhiên: phân
bố chủ yếu ở các huyện: Ngọc Hiển, Năm Căn, Đầm Dơi, Phú Tân, Cái Nước và
xen kẽ ở Trần Văn Thời, U Minh, Thới Bình, Thành Phố Cà Mau. Những nơi có độ
mặn ít có khả năng sản xuất 1 đến hai vụ lúa trong mùa mưa, trồng cây lâu năm
hoặc nuôi tôm vào mùa khô kết hợp trồng cấy 1 vụ lúa trong mùa mưa.
IV.2.3. Bạc liêu:
Diện tích tự nhiên 2.582,46 km2 đất đai của tỉnh được chia thành nhiều
nhóm. Nhóm đất mặn chiếm 32,6% quỹ đất của tỉnh. Tổng diện tích đất tự nhiên
của tỉnh là 258.247 ha.
IV.2.4. Bến Tre:
Nhóm đất mặn ở Bến Tre: Bao gồm:
Đất mặn ít mặn từng thời kì 37630 ha.
Đất mặn trung bình, mặn từng thời kì 25568 ha.
Đất mặn nhiều, mặn từng thời kì 14297 ha.
Nhóm 10 – K34A
Trang11
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
Đất mặn nhiều thường xuyên dưới rừng ngập mặn 19243 ha.
Chiếm diện tích lớn nhất so với các nhóm đất khác ở Bến Tre. Loại đất
mặn nhiều thường phân bố ở đòa hình trung bình từ 0,8 – 1,2m cách xa biển và sông
lớn. Loại đất này được canh tác khá lâu đời, mùa khô bò kiệt nước và bỏ trống, chế
độ bốc hơi rất mạnh, nênh đất ở nay bò kết vón ở độ sâu từ 80 -100c ( Ba Tri,
Thạnh Phú…).
Loại đất mặn nhiều, mặn từng thời kì thường phân bố ở đòa hình thấp hơn,
khi triều cường nước tràn lên, khiến tầng đất mặt có độ mặn cao rất khó rửa nhanh
vào mùa mưa.
Loại đất mặn thường xuyên dưới rừng ngập mặn phân bố thành dải dọc ven
biển Bến Tre, dưới các thảm rừng sú, vẹt, mắn mà ngày nay đã bò tàn phà nhiều, bò
ngập thường xuyên do thủy triều, đất thường có đô mặn rất cao không thuận lợi cho
cây trồng phát triển.
Chiếm diện tích khoảng 96.739 ha ( chiếm tỉ lệ 43,11% diện tích toàn tỉnh),
phân bố hầu hết tỉnh ven biển như Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú.
IV.2.5. Kiên Giang:
Chiếm diện tích khoảng 2030ha. Đất mặn phân bố dọc ven biển hoặc ven
sông ở các huyện An Biên, An Minh, Gò Quao và một ít ở ChâuThành, Hòn Đất,
Hà Tiên, Rạch Gía… tình trạng nhiễm mặn tăng cường vào mùa khô. Đất mặn ít có
thể trồng lúa 2 vụ, đất mặn trung bình thường trồng lúa kết hợp với nuôi trồng thủy
sản, đất mặn nhiều chủ yếu là trồng rừng và nuôi trồng thủy sản.
IV.2.6. Tiền Giang:
Nhóm đất mặn của tỉnh có bốn đơn vò đất:
Đất mặn dưới rừng ngập mặn bò ngập triều quanh năm, luôn bão hòa muối
nacl. Đất phân bố sát ven biển theo hai cửa sông (cửa Đại, cửa Soài Rạp) chiếm
1,39% diện tích tự nhiên với 3263 ha.
Nhóm 10 – K34A
Trang12
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
Đất mặn nhiều:
Phân bố ở những nơi có đòa hình thấp ven theo bờ biển và dọc theo các cửa
sông (cửa Soài Rạp, cửa Đại, cửa Tiểu). Chiếm 2,46%diện tích tự nhiên với
5747ha.Dưới đất thòt trên mặt là lớp cát xám xanh có xác sò, ốc biển, nước ngầm
mặt ở lớp cát theo mao quản lên gây mặn cho lớp đất trên mặt.
Đất mặn trung bình:
Được phân bố tại nơi có đòa hình cao hơn, nằm xa biển và sông rạch nước
mặn, chiếm 5,52% diện tích tự nhiên với 12.902 ha.
Đất mặn ít:
Với 12.232 ha ,chiếm 5,22% diện tích tự nhiên, mằn xa biển và sông rạch
nước mặn, có đòa hình cao dễ thoát mặn vào mùa mưa, trải qua thời gian dài canh
tác nên đã được cải tạo nhiều (ít mặn).
IV.2.7. Một số tỉnh khác:
An Giang, Hậu Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Đồng Tháp…cũng có đất mặn
nhưng thường phân bố rải rác ở một số cửa sông.
V. Đặc điểm và phân loại đất mặn:
V.1. Đặc điểm và tính chất của đất mặn:
Đặc tính cơ bản phân biệt đất mặn với các đất khác là nồng độ muối chủ yếu
là muối Cl, trừ tầng tích tụ sú, vẹt do lưu huỳnh nhiều nên sunfat có thể chiế ưu
thế. Thàn phần cơ giới nặng % sét cao tới 50-60 đất bí chặt thấm nước kém, khi
khô: Đất co lại, nứt nẻ, rắn chắc. Khi ướt: đất dẻo, dính, vùng rễ cây hoạt động
kém, đất khó làm.
Nhóm 10 – K34A
Trang13
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
Đất kiềm hoặc trung tính: Trò
số PH của đất mặn có thể thay
đổi khoảng 6,0-7,5 và tỷ lệ thuận
với nồng độ muối.
Có chứa nhiều mối hòa tan.
Hoạt động của vi sinh vật yếu.
Tùy theo nồng độ muối và
nồng độ cl trong đất mà xác đònh
mặn nhiều hay ít.
Đất mặn ở đồng bằng sông Cửu
Long
BẢNG PHÂN LOẠI ĐẤT MẶN Ở ĐỒNG BẰNG SƠNG CỬU LONG
(Năm 2002)1
Độ mặn
Tỷ lệ muối hòa tan(%)
Nồng độ clo(%)
Rất mặn
>1,0
> 0,25
Mặn nhiều
0,5 – 1,0
0,15 – 0,25
Mặn trung bình
0,25 – 0,5
0,05 – 0,25
Mặn ít
< 0,25
< 0,25
V.2. Phân loại đất mặn:
Phân loại đất mặn căn cứ vào nồng độ muối và phản ứng của
dung dòch, theo Lê Bá Thảo phân thành 4 loại:
Đất mặn sú, vẹt,đước:
1
Phân loại dựa theo “Hội khoa học đất Việt Nam” -2002.
Nhóm 10 – K34A
Trang14
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
Hình thành dưới các thảm rừng sú, vẹt, mắm mà ngày nay đã bò tàn phá
nhiều, bò ngập thường xuyên do triều Có nồng độ muối rất cao( tỉ lệ muối hòa tan
lớn hơn 1%), nồng độ clo lớn hơn 0,25%, đất thòt trung bình, màu xám đen, nhiều
mùn nhão lẫn xác hữu cơ bán phân
giải, bò ngập triều thường ngày ,
nói chung đất còn ở dạng bùn lỏng
chưa cố đònh , giàu chất dinh dưỡng
độ ph tầng đất trên 5,8-6,5 ,lầy
thụt, không thuận lợi cho các loại
cây trồng nông nghiệp.
Đất mặn nhiều:
Loại đất này có nồng độ Cl- lớn hơn 0,25%, tổng số muối hòa tan lớn hơn
1%. Về mùa mưa các trò số trên thường hạ thấp hơn. Đất mặn nhiều thường chứa
các chất dinh dưỡng trung bình đến khá. Thành phần cơ giới từ sét đến limon hay
thòt pha sét. Thường phân bố ở đòa hình thấp hơn, khi triều cường nước tràn lên,
khiến tầng đất mặt có độ mặn cao rất khó rửu nhanh vào đầu mùa mưa. tầng đất
sâu 50-80 cm thường có lớp cát xám xanh của bãi thủy triều, có chứa mica và
nhiều mảnh vở vôi gốc biển.
Đất mặn trung bình
.Đất mặn trung bình:
Cả 2 loại đất mặn nhiều và
đất mặn trung bình đều chòu ảnh
hưởng của biển chủ yếu thông qua
ảnh hưởng của thủy triều hay các
mạch mặn( tỉ lệ muối hòa tan từ
1,0%-0,25%, nồng độ clo từ 0,25%0,05%).
Nhóm 10 – K34A
Trang15
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
.Đất mặn ít:
Nằm xa biển, chủ yếu sâu trong đất liền. Trước kia chứa nhiều muối mặn
nhưng nay đã rửa trôi đi nhiều( tỉ lệ muối hòa tan nhỏ hơn 0,25%, nồng độ clo nhỏ
hơn 0,05%). Bởi tác động của nước mưa, dòng chảy trên mặt.
Tuy nhiên nồng độ các chất trong đất mặn vẫn thường xuyên thay đổi theo
mùa trong năm.
Phân loại theo vùng nhiệt đới( xét theo điều kiện khí hậu Việt
Nam), theo Lê Huy Bá phân thành 3 loại:
Mặn đầm lầy:
Xảy ra do có sự tù đọng nước mặn được nuôi dưỡng bởi nước biển.
Mặn Sú,Vẹt, Đước :( mặn Mangrove):
Được quyết đònh bởi thủy
triều thể hiện ở thành phần
muối, chiếm ưu thế là muối
Na và muối Mg.
Mặn Soda:
Xuất hiện ít hơn và thường
liên quan tới những dòng
nước khoáng trong đất. Dù
phân loại theo cách nào ta
cũng thấy được sự đa dạng về thành phần, tính chất, cách phân bố của đất mặn.
Nhóm 10 – K34A
Trang16
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
V.3. Sinh vật trong đất mặn ở đồng bằng
sông Cửu Long:
V.3.1. Thực vật:
Dưới ảnh hưởng của môi trường biển và đất mặn thực vật ở vùng khá dày
đặc với các loài cây như đước (Rhizophora), mắm (Avicennia), sú, vẹt… những thực
vật chòu mặn này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giữ lại các vật liệu lắng tụ,
làm giảm sự xói mòn do nước hoặc do gió.
Cây
mắm :
Theo các nhà khoa học sự phát triển tự nhiên của rừng ngập mặn bắt đầu
bằng sự tiến nhập của loài mắm. Vai trò của mắm là cố đònh đất bởi vì bộ rễ của
cây được cấu trúc ăn sâu xuống đất, nó có sức chòu đựng được sóng và gió, chòu
được nước mặn ngập quanh năm. Họ hàng nhà mắm có
Rừng đước
của vùng
nhiều loại như: mắm đen, mắm trắng, mắm ổi, mắm
lưỡi… Mắm thường phân bố ở các tỉnh dọc ven biển
nhiều nhất là ở huyện Ngọc Hiển ( Cà Mau). Cây mắm
là loại gỗ tạp dung làm chất đốt,
tuy nhiên lá mắm và trái mắm
cũng là thức ăn của cá, tôm, gia
súc và cả con người.
Cây đước:
Quần thể thực vật
vùng bưng trũng:
Bao gồm :
Nhóm 10 – K34A
Trang17
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
Vùng trũng thấp nước mặn lợ có dừa nước chiếm ưu thế, xen lẫn có bần
chua, đây là loại đất thích hợp cho dừa nước phát triển. Dừa trồng trên vùng đất
này có hàm lượng dầu cao.
Trong quần thể thực
vật này còn có cà nà, chiếc,
gừa, săn máu, bình bát, dứa
gai… xen lẫn tầng dưới có
các loài chuối nước, mây
nước, dành dành, lau sậy,
lác, cói, sen, súng…
Hiện nay, những kết quả nghiên cứu giống cây trồng vật nuôi ở đồng bằng
sông Cửu Long đó là cây xoài. Hiện có khoảng 102 giống xoài được ghi nhận ở các
tỉnh phía nam, trong đó có 43 giống là ở đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có
một số giống ngon như giống xoài cát Hòa Lộc, xoài bưởi, xoài Cát Chu, xoài
Thanh Ca… và gần đây là giống xoài thơm Vónh Hòa ở huyện Tân Châu (tỉnh An
Giang).
Sau 4 năm nghiên cứu, các nhà khoa học thuộc đại học Cần Thơ đã thành
công trong việc ghép chồi lên gốc bưởi, cam bản đòa tạo ra giống thích hợp với
vùng đất mặn của vùng. Từ năm 2004 đến nay các nhà khoa học còn nghiên cứu và
phát hiện ra giống “ cây quách” có khả năng chòu mặn sinh trưởng ở vùng Trà
Vinh, Sóc Trăng.
Quan trọng hơn là đã tìm ra các giống lúa cao sản có khả năng chống chòu
mặn tốt. Vì thế mà việc tìm ra các giống lúa này sẽ làm cho sản xuất lương thực –
thực phẩm của vùng ngày càng đảm bảo hơn và giúp cho đồng bằng sông Cửu
Long luôn giữ vò trí “số 1 về sản xuất lương thực – thực phẩm”.
Nhóm 10 – K34A
Trang18
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
V.3.2. Động vật:
Chủ yếu là cá, tôm, cua…sinh sống trong rừng ngập mặn.
VI. Biện
pháp
sử dụng
và cải
tạo
đất
mặn:
VI.1. Biện pháp thủy lợi:
Để hạn chế độc chất trongvùng đất bò mặn, việc bao đê, ngăn mặn tràn vào
đồng ruộng có thể là một sai lầm vì chúng ta làm mất đi sinh thái đặc trưng của
rừng ngập mặn ven biển.
Bên cạnh đó, ta có thể thực hiện chương trình cải tạo đất mặn thành đất
trồng trọt tốt cho năng suất cao không kém các loại đất bình thường khác. Tuỳ theo
Nhóm 10 – K34A
Trang19
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
điều kiện thuỷ văn, thuỷ đòa chất, tuỳ theo độ mặn và hoá lý tính của từng loại cụ
thể mà có thể phân chia đất mặn theo các mức độ cải tạo như sau:
Thành đồng cỏ chăn nuôi gia súc bằng cách gieo các loại cỏ chòu mặn có
giá trò làm thức ăn gia súc.
Bằng biện pháp kó thuật canh tác: cày sâu không lật, xới đất
nhiều lần, cắt đứt mao quản, làm cho muối khoáng không thể bốc lên mặt.
Bằng biện pháp trồng lúa nước, hoặc cây chòu mặn giỏi như
cói, lác, rừng ngập mặn.
Bằng cách áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp. Điều này đặc
biệt thích hợp với loại đất mặn khó cải tạo( đất kiềm mặn có độ thấm nước kém,
mực nước ngầm nông). Các biện pháp cải tạo kết hợp đó là:
Biện pháp thuỷ lợi: rửa mặn, loại trừ muối tan trong đất, hạ
nước ngầm và tiêu nước ngầm mặn.
Biện pháp nông lý: cày sâu, đưa CaCO 3 và CaSO4 ở các lớp
đất sâu lên tầng trên mặt, cày phá đáy, làm tơi xốp tầng B, san bằng mặt ruộng.
Biện pháp nông hoá: sự hiện diện của ion Na + trong dung dòch
đất làm xấu đi tính hoá học, lý học, sinh vật học của đất mặn và kiềm mặn. Do đó,
đẻ cải tạo đất theo hướng có lợichocây trồng, việc loại bỏ Na trong dung dòch đất
và trong phức hệ hấp phụ, thay thế Na+ bằng Ca+ là rất cần thiết.
Biện pháp sinh học: xác đònh hệ thống cây trồng có khả năng
chòu mặn khác nhau, phù hợp với từng giai đoạn cải tạo đất, xác đònh kó thuật canh
tác hợp lý, đảm bảo đất không bò tái nhiễm mặn.
Cải tạo đất mặn bằng dòng điện : cho dòng điện một chiều vào
trong đất. Do hiện diện của hiện tượng điện phân người ta thu được các anion và
cation của muối tan trong đất ở anod và catod.
Nhóm 10 – K34A
Trang20
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
Sử dụng đất mặn nuôi tôm - kết hợp trồng lúa theo đúng kó
thuật.
Tình hình đất mặn ở đồng bằng sông Cửu Long trong
năm 2009:
Theo thạc só Lê Thò Xuân Lan – phó trưởng phòng dự báo thuộc trung tâm
dự báo khí tượng thủy văn khu
vực Nam Bộ năm 2009 mặn
xâm nhập từ rất sớm. Hiện nay
hầu hết các tỉnh ven biển ở
đồng bằng sông Cửu Long
đang bò mặn xâm nhập vào sâu
trong nội đồng từ 30-40km, với
Mặn dang xâm nhập vào đồng ruộng ở
đồng bằng Sông Cửu Long
độ mặn lên tới 0,4%.
Ông
Nguyễn Kim Luân giám
đốc trung tâm dự báo khí tượng
thủy văn tỉnh Bến Tre cho biết tại Giao Hoà trên sông Cửa Đại độ mặn lên tới 3g/l;
Mỹ Hóa (sông Hàm Luông) là 2,4g/l; Vàm Thom ( Cổ Chiên) là 2,6g/l…
Tại Tiền Giang, giám đốc trung tâm dự báo khí tượng thủy văn – ông Lê
Văn Tám cũng cho biết năm nay nước mặn xâm ngập về đòa phương sớm hơn từ 30
đến 45 ngày. Nguyên nhân là do gió chướng thổi mạnh đã nay nước mặn vào sâu
đất liền theo các cửa sông. Vào thời điểm này huyện Gò Công Đông của tỉnh bò
nhiễm nhiều nhất, đặc biệt là các xã phía nam dọc theo sông Vàm Cỏ Tây như
Bình Xuân, Tân Đông, Tân Trung độâ mặn xâm nhập vào lên tới 0,4%.
Còn ở Sóc Trăng thì nước mặn đã xâm nhập vào các kênh, rạch ở 2 huyện
là Mỹ Xuyên và Long Phú. Nhiều khả năng độ mặn trong tháng cao điểm năm nay
Nhóm 10 – K34A
Trang21
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
sẽ đạt từ 1 – 1,5%. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, nhất là
diện tích lúa xuân hè.
Tương tự, các tỉnh Cà Mau, Kên Giang đều đang trong tình trạng mặn đang
xâm nhập vào đồng ruộng ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất và sinh hoạt của
người dân nơi nay.
Tình hình cải tạo đất mặn hiện nay ở một số đòa
phương trong vùng:
Tháng 9-2009 vừa qua Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn đã phê
duyệt dự án đầu tư xây dựng hệ thống công trình phân ranh nước mặn- ngọt tại tỉnh
Bạc Liêu, Sóc Trăng từ nguồn vốn trái phiếu chính phủ giai đoạn 2006-2010 với
kinh phí trên 660 tỷ đồng, để xây dựng mới trên 60 cống, đập nhằm đảm bảo sản
xuất cho trên 150 nghìn ha của vùng. Đây là một đề án tích cực thuận lợi trong giai
đoạn hiện nay.
Mới nay Qũy quốc tế về bảo tồn thiên nhiên (WWF ) đã nghiên cứu về
ngập lụt trên diện rộng và các hệ sinh thái nước ngọt bò mặn hóa ở tỉnh Cà Mau.
Nghiên cứu ở Cà Mau, thực hiện dưới sự hợp tác của Viện Quy hoạch thủy lợi ở
Miền Nam cho thấy công tác quản lý ngắn hạn cũng như lâu dài là chưa đủ để giải
quyết vấn đề này.
Nhóm 10 – K34A
Trang22
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
Phụ lục
Đồng bằng sơng Cửu Long có khoảng 347500 ha rừng
các loại trong đó có khoảng 100000 ha tập trung ở các
tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre,
Long An…Vùng rừng ngập mặn này ln ln chịu chi
phối bởi thủy triều biển. Hệ thực vật rừng ngập mặn phổ
biến ở vùng đồng bằng song Cửu Long là các lồi mắm
trắng, đước, bần trắng, dừa nước, bần chua, vẹt tách, dà
vơi…Ngồi ra các hệ sinh thái đất ngập nước có đến 36
lồi thú, 182 lồi chim, 34 lồi bò sát…
Những năm qua diên tích rừng ngập mặn
ven bị tác động nên bị suy giảm mạnh
mẽ do các ngun nhân: phá rừng làm
nương rẫy, phá rừng lấy đất ni trồng
thủy sản, phá rừng lấy củi…
Bảo vệ và phát triển hệ sinh thái rừng
ngập mặn ven biển đang là một trong
những u cầu cấp bách để bảo đảm sự
phát triển bền vững khu vực đồng bằng song Cửu Long thời gian tới. Vì thế biện pháp
cấp bách đó là:
Nhóm 10 – K34A
Trang23
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
Tăng nhanh diện tích phủ xanh của thảm rừng ngập mặn ven biển, bảo vệ rừng
ngập mặn khỏi nạn bị chặt phá làm củi, gỗ, ni trồng thủy sản. Theo dõi giám sát chất
lượng thảm rung ngập mặn đã bị suy giảm và các hệ sinh thái rừng ngập mặn để có
những biện pháp kịp thời xử lý các vấn đề gây suy giảm đến tài ngun đất, tài ngun
nước, tài ngun sinh học để đảm bảo cho ổn định hệ sinh thái rừng trong đó có rừng
ngập mặn.
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án bảo tồn và phát triển hệ sinh thái rừng
ngập mặn ven biển, các dự án trồng mới và tái tạo lại rừng ngập mặn ven biển. Đồng
thời, tiến hành quy hoạch các khu bảo tồn đất ngập nước, các rừng đặc dụng ngập mặn
ven biển như là lá chắn bảo vệ mơi trường ở đồng bằng song Cửu Long. Trong những
năm gần đây, cơng tác bảo vệ và phát triển hệ sinh thái rung ngập mặn ven bển được
các tỉnh trung vùng quan tâm thực hiện như: dự án trồng 5 triệu ha rừng, dự án phát
triển và bảo vệ các vùng đật ngập nước ven biển tại các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc
Trăng, Trà VInh. Dự án dự trữ quốc gia U Minh Thượng…
Tăng cường vai trò quản lý của
nhà nước, của các cấp chính
quyền tại địa phương, đặc biệt là
chính quyền cơ sở và cơ quan
chun ngành lâm nghiệp, mơi
trường trong cơng tác bảo vệ và
phát triển hiệu quả hệ sinh thái
rừng ngập mặn ven biển ở khu
vực đồng bằng song Cửu Long.
Trồng rừng ngập mặn ở phía tây nam
của vùng
Như vậy, rừng ngập mặn là một
tài ngun q giá về nhiều mặt
và bảo vệ rung ngập mặn là một
trong những nhiệm vụ quang trọng khơng chỉ riêng đồng bằng song Cửu Long mà còn
có ý nghĩa quang trọng đối với cả nước.
Nhóm 10 – K34A
Trang24
Bài thuyết trình thổ quyển
Gvhd: thầy Nguyễn Tấn Viện
Lời kết
Qua quá trình tìm hiểu, chúng ta hiểu thêm được tình hình đất mặn ở đồng
bằng sông Cửu Long, đồng thời cũng thấy được những giá trò của đất mặn đối với
sản xuất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên qua đó cũng thấy được đất
mặn cũng như các loại đất khác đang có dấu hiệu suy thoái dẫn đến năng suất và
chất lượng cây trồng vật nuôi kém hiệu quả. Do đó, các cấp chính quyền cũng như
người dân đồng bằng sông Cửu Long cần đẩy mạnh hơn nữa các biện pháp cải tạo
và đề ra hướng phát triển để đất mặn thực sự có ý nghóa đối với sự phát triển nông
nghiệp nói riêng và kinh tế – xã hội của vùng nói chung.
Nhóm 10 – K34A
Trang25