Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tình trạng cư trú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.06 KB, 10 trang )

Tình trạng cư trú: Một người có thể đăng ký hộ khẩu thường trú ở một nơi nhưng thực tế cư trú
ở nơi khác. Điều tra dân số giữa kỳ thống kê số người thực tế cư trú tại nơi điều tra, mỗi người sẽ
được ghi chép vào phiếu điều tra ở nơi thực tế cư trú. Mỗi người chỉ được ghi 1 tình trạng cư trú
KT.
a. KT1 (thực tế cư trú): Là số hộ, nhân khẩu có hộ khẩu thường trú ở thành phố Hồ Chí
Minh và đang thực tế cư trú tại địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú.
b. KT2: Là số hộ, nhân khẩu có hộ cư trú ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng thực tế cư trú
ở phường, xã, thị trấn khác trong thành phố Hồ Chí Minh.
c. KT3:
- Là số hộ, nhân khẩu từ các tỉnh, thành phố khác đến cư trú tại thành phố Hồ Chí Minh
nhưng chưa đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố Hồ Chí Minh. Những hộ, nhân khẩu này
đến cả hộ, thông thường đã đến ở thành phố Hồ Chí Minh trên 6 tháng hoặc dưới 6 tháng nhưng
có nhà, có công ăn việc làm ổn định, sẽ ở lâu dài tại thành phố.
- Là những hộ, nhân khẩu trước đây có hộ khẩu gốc ở thành phố Hồ Chí Minh, sau đó rời
thành phố đi kinh tế mới, hoặc hồi hương,… đã cắt hộ khẩu thành phố nay trở về thành phố làm
ăn sinh sống.
- Hộ Việt kiều Campuchia đã về Việt Nam sống ổn định lâu dài
Những hôộ, nhân khẩu này có thể đã được lâộp hồ sơ quản lý hoăộc chưa
được lâộp hồ sơ quản lý hoăộc chưa được cấp sổ tạm trú có thời hạn.
d. KT4:
- Là nhân khẩu đi lẻ (không đi theo hộ) từ các tỉnh, thành phố khác đến cư trú tại thành
phố Hồ Chí Minh. Những người này có thể đã đến sinh sống và làm việc ở thành phố trên 6 tháng
hoặc dưới 6 tháng nhưng chưa đăng ký hộ khẩu thường trú, có ý định cư trú lâu dài tại thành phố,
đã được hoặc chưa được cấp sổ tạm trú có thời hạn. Sinh viên ở tập trung trong các ký túc xá
được thống kê là nhân khẩu KT4.
- Là những nhân khẩu trước đây gốc ở thành phố nay trở về làm ăn sinh sống như : quân
nhân đào ngũ, đào nhiệm,...
- Những trẻ mới sinh chưa đăng ký hộ khẩu thường trú.

Thất nghiệp, trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không
tìm được việc làm (từ Hán-Việt thất: mất mát, nghiệp: việc làm). Tỷ lệ thất nghiệp là


phần trăm số người lao động không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động xã hội

Công thức tính tỷ lệ thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp = 100% x

Số người không có việc làm
Tổng số lao động xã hội


Nhập cư là hành động di chuyển chỗ ở đến vào một vùng hay một quốc gia mới. Dân
nhập cư là người dân di chuyển từ một vùng đến một vùng khác để định cư hoặc tạm trú.

TÊN: NGUYỄN THỊ KIM CHI
LỚP: DH5PN
MSSV: DPN042307

TÌNH HÌNH VÀ ĐẶC ĐIỂM DÂN NHẬP CƯ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
----o0o--1. GIỚI THIỆU
Trong những năm gần đây, tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, nhiều
khu công nghiệp và khu đô thị mới liên tiếp mọc lên, tạo ra nhiều cơ hội việc làm, đã thu
hút một lượng lớn lao động từ các tỉnh về các thành phố lớn để tìm việc làm. Điều này
làm cho việc di dân đến các thành phố lớn ngày càng trở nên phổ biến.
Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), vốn là một trong những nơi năng động nhất của
đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đã trở thành một trong những điểm đến lý tưởng để
tìm kế sinh nhai của dân nhập cư từ các tỉnh miền Tây nam bộ, Đông nam bộ và cả Trung
bộ. Bài viết này sẽ khái quát về tình hình nhập gia tăng dân nhập cư và biến động dân số,
đặc điểm của dân nhập cư, và động lực nào thúc đẩy họ di cư đến TP.HCM.
2. TÌNH HÌNH GIA TĂNG DÂN NHẬP CƯ VÀ BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ

Khái niệm: dân nhập cư ở TP.HCM được xác định là những người từ các tỉnh khác về
sinh sống, làm việc tại TP.HCM và chưa có hộ khẩu thường trú tại TP.HCM. Còn những
người từ các tỉnh về TP.HCM nhưng đã được giải quyết hộ khẩu thường trú vì đủ tiêu
chuẩn quy định không nằm trong phạm vi này (Lê Văn Thành, 2005).
Hiện nay dân số TP.HCM là 6.117.251 người, trong đó có 1.844.548 người là dân nhập
cư từ các tỉnh khác đến, chiếm 30,1% trong tổng số dân TP.HCM (Lê Văn Thành, 2005).
Tỷ lệ dân nông thôn nhập cư vào TP.HCM chiếm đa số với khoảng 80%, trong đó có


31,46% đến từ ĐBSCL (Lê Xuân Bá và ctv, 2006), và khoảng 17,7 % đến từ các tỉnh
đồng bằng sông Hồng (Dương Kim Hồng, 2007).
Số lượng dân nhập cư tại TP.HCM ngày càng gia tăng qua các năm. Vào năm 1998 dân
nhập cư tại TP.HCM là 12,9%, đến năm 2000 thì số lượng này lên đến 15,2%, và trong
vòng 5 năm trở lại đây (từ năm 2001 – 2005) số dân nhập cư tăng lên đáng kể, ít nhất từ
700.000 đến 1 triệu người (Lê Văn Thành, 2005).
Dân nhập cư chiếm tỷ lệ khá cao trong cơ cấu dân số TP.HCM. Một cuộc khảo sát dân số
thực hiện vào năm 2004 cho thấy dân nhập cư chiếm 29% dân số TP.HCM. Điểm đáng
lưu ý là trong vòng 5,5 năm rưỡi (4/1999 - 10/2004), dân số TP.HCM tăng thêm khoảng
gần 1,1 triệu người, bằng 10 năm trước đó (1989 - 1999) và gấp 2 lần trong 10 năm 1979
- 1989 (Lê Văn Thành, 2006).
Sự gia tăng dân số của TP.HCM chủ yếu là gia tăng cơ học đối với số người trong độ tuổi
lao động (Bạch Văn Bảy và ctv,1996). Có thể thấy điều này qua bảng 1.
Bảng 1: Tỷ lệ gia tăng dân số thành phố qua các thời kỳ
Thời kỳ
Tỷ lệ tăng cơ học
Tỷ lệ tăng tự nhiên
Tỷ lệ tăng chung
1979-1989
0,02%
1,61%

1,63%
1989-1999
0,84%
1,52%
2,36%
1999-2004
2,33%
1,27%
3,6%
Nguồn: Lê Văn Thành, 2005
Tỷ lệ tăng cơ học ngày càng cao đã kéo theo sự gia tăng của tỷ lệ tăng chung của
TP.HCM. Có thể thấy là càng về sau tốc độ gia tăng dân số của TP.HCM ngày càng cao
và chủ yếu là do gia tăng cơ học.
Dự kiến đến năm 2010 quy mô dân số TP.HCM là 8,4 triệu người với tỷ lệ tăng dân số
chung bình quân năm là 5,6% (Nguyễn Thị Bích Hồng, 2006).
Bảng 2: Dân nhập cư bình quân vào thành phố qua các thời kỳ
Thời kỳ
Dân nhập cư bình quân (người)
1984-1989
27.154
1994-1999
86.753
1999-2004
196.200
Nguồn: Lê Văn Thành, 2005
Càng về sau người lao động nhập cư vào TP.HCM càng nhiều, số lượng gia tăng đến
mức báo động. Đa phần sống tập trung ở các quận ven đô, như quận Thủ Đức là 48,9%,
quận 12 là 48,8%, quận Tân Phú 47,7%, quận Gò Vấp là 41,7%, quận 7 là 37,8%, quận
Tân Bình 36,8%, quận Bình Chánh 32,5%. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì giá đất của các
quận ven đô tương đối rẻ hơn so với các quận nội thành, và ở đây có nhiều khu công



nghiệp và khu chế xuất tạo công ăn việc làm thu hút lao động (Lê Văn Thành, 2005).
Ở cấp phường hiện có đến 30 phường/xã mà dân nhập cư chiếm tỷ lệ rất cao đến 50%, cá
biệt có nơi đến 70% như ở phường Tân Tạo A quận Tân Bình, phường Bình Chiểu, Linh
Xuân quận Thủ Đức (Lê Văn Thành, 2005).
3. ĐẶC ĐIỂM CỦA DÂN NHẬP CƯ
Nguồn gốc của dân nhập cư
Người nhập cư trên địa bàn TP.HCM đến từ mọi miền đất nước, trong đó ĐBSCL và
đồng bằng sông Hồng là hai vùng có số dân xuất cư lớn, Đông nam bộ cũng là vùng có số
dân xuất cư đáng kể như được chỉ rõ trong bảng 3.
Bảng 3: Nơi xuất cư của những người nhập cư đến TP.HCM qua các thời kỳ
Đơn vị tính: %
Nơi xuất cư
Thời kỳ 1984-1989
Thời kỳ 1994-1999
Trung du miền núi
2,1
3,7
Đồng bằng sông Hồng
11,5
12,6
Bắc trung bộ
5,7
11,1
Duyên hải miền trung
11,3
13,9
Tây nguyên
3,6

1,6
Đông nam bộ
26,5
21,7
Đồng bằng sông Cửu Long
36,0
35,3
Nước ngoài, không xác định
3,3
0,1
Tổng số
130.768
433.765
Nguồn: Lê Văn Thành, 2005
Tính đa dạng về nguồn gốc của những người nhập cư góp phần tô điểm cho văn hóa
TP.HCM. Người nhập cư xuất thân từ những quê hương khác nhau, lên đến thành phố thì
họ vẫn giữ những lối sống, phong tục, tập quán quê hương họ, rồi hòa vào nền văn hóa có
sẵn của thành phố, và đây là một yếu tố tích cực góp phần phát triển và đang các loại
hình văn hóa thành phố. Tại TP.HCM dễ dàng tìm thấy các món ăn đặc sản vùng ĐBSCL
cũng như Miền Trung, Miền Bắc...
Độ tuổi và giới tính
Đại bộ phận dân nhập cư đều ở tuổi trẻ và ngày càng trẻ, có tới 19,5% số lao động nhập
cư ở TP.HCM ở độ tuổi dưới 20, độ tuổi từ 20 – 30 là nhiều nhất chiếm 56%, còn ở độ
tuổi 30 - 40 ít hơn chiếm 17,4%, ít nhất là ở độ tuổi lớn hơn 40 tuổi như trong bảng 4.
Bảng 4: Độ tuổi lao động nhập cư TP.HCM
Độ tuổi lao động
<20 tuôi
20 – 30 tuổi
Tỷ lệ
19.5

56

30 – 40 tuổi
>40 tuổi
Tổng số
17.4
7
100
Nguồn: Lê Xuân Bá và ctv, 2006


Lao động nhập cư tại TP.HCM chiếm số lượng lớn ở độ tuổi dưới 30, trên 30 tuổi thì số
lượng này giảm. Điều này có thể giải thích là công việc tại TP.HCM chuộng người lao
động trẻ, vì họ năng động, sáng tạo, không kén việc, cần cù, chịu khó và có năng lực lao
động.
Ngày nay, lao động trẻ nhập cư vào TP.HCM có xu hướng đi một mình, độ tuổi từ 15 –
39 chiếm khoảng 90%, còn những người ngoài 40 và nhỏ hơn 10 tuổi là rất ít, chủ yếu là
đi theo lao động chính (Lê Văn Thành, 2005).
Tỷ lệ nữ giới nhập cư cao cao hơn nam giới, đặc biệt là phụ nữ trẻ từ các tỉnh ĐBSCL, họ
thích hợp với công việc ở các xí nghiệp may mặc, giày da, chế biến thực phẩm, giúp việc
gia đình... (Lê Xuân Bá và ctv, 2006).
Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn
Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn của lao động nhập cư vào TP.HCM có sự suy
giảm nhất định, trước đây người nhập cư vào TP.HCM được chọn lọc kỹ hơn về điều
động công tác, chuyển công tác... để nhập hộ khẩu, ngày nay việc nhập cư thì tự do hơn,
số người nhiều hơn và ít được chọn lọc hơn (Lê Văn Thành, 2005).
Lao động nhập cư đến TP.HCM chủ yếu là lao động có trình độ trung học cơ sở, chiếm tỷ
lệ 56% (Lê Xuân Bá và ctv, 2006), tỷ lệ có trình độ chuyên môn chỉ chiếm hơn 20%, còn
lại là lao động chân tay (Hoài Nam và Phạm Trường, 2004).
Lao động trong các khu công nghiệp chiếm 70% lao động nhập cư, lao động phổ thông

làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, nhà máy xí nghiệp, lực lượng này đóng
vai trò rất quan trọng trong phát triển sản xuất ở hầu hết các khu vực này, họ rất tích cực,
năng động và linh hoạt trong công việc, có thể chấp nhận các công việc nặng nhọc, mức
lương thấp, thậm chí các công việc độc hại mà người dân TP.HCM không muốn làm (Lê
Văn Thành, 2005).
Trong số dân nhập cư vào TP.HCM, có một bộ phận là sinh viên sau khi tốt nghiệp có xu
hướng tìm việc làm tại thành phố, lý giải cho điều này là: thứ nhất là việc làm tương ứng
với trình độ của họ và dễ tìm ở thành phố hơn là về quê; thứ hai họ có nhiều cơ hội thăng
tiến về chuyên môn hơn; thứ ba cuộc sống ở thành phố hấp dẫn cho giới trẻ. Và đây là
một bộ phận nhập cư thường xuyên, là nguồn bổ trợ hàng năm cho TP.HCM (Lê Văn
Thành, 2005).
Một số khó khăn của dân nhập cư


- Đa phần người lao động xuất thân từ nông thôn chưa quen với lối sống của nền văn
minh đô thị về nhà ở, đường xá, phương tiện, trường học, y tế, văn hóa, vui chơi, giải
trí....
- Nam nữ trẻ thanh niên xa nhà, thiếu vắng tình cảm khó tránh khỏi trường hợp sa ngã,
rơi vào cạm bẫy xã hội.
- Trình độ chuyên môn tương đối thấp, chỉ làm công ăn lương và khó có cơ hội thăng
tiến.
- Dân nhập cư được xem là gánh nặng xã hội, là sự tăng dân số cơ học và có sự phân biệt
đối xử như: con em dân nhập cư không được học tại các trường công lập, nhiều trường
chuyên không nhận dân nhập cư tạm trú; phần lớn mướn nhà trọ tư nhân chật hẹp, mất vệ
sinh và không an ninh. Nhưng nan giải nhất là vấn đề quản lý hộ khẩu và cấp chủ quyền
nhà ở, đây là yếu tố hữu hiệu ngăn cản lao động nhập cư vào TP.HCM (Phan Huy Tưởng,
2004).


Về hộ khẩu, dân nhập cư gặp phải nhiều khó khăn: sáu tháng phải có giấy tạm

vắng của chính quyền địa phương quản lý hộ khẩu mới được phép tạm trú tiếp sáu
tháng, đủ hai năm mới được phép tạm trú có thời hạn một năm, và mỗi năm phải
gia hạn mới là hợp pháp.



Về nhà ở, dân nhập cư phải tự tìm chổ ở, thuê nhà trọ hoặc mua nhà, nếu mua nhà
phải hợp lệ tức là được Phường chứng nhận không tranh chấp. Những người có
hộ khẩu thường trú đều được xét cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà ở, còn dân nhập
cư thì chưa hoặc không cho hợp thức hóa chủ quyền nhà đất ở (Phan Huy Tưởng,
2004).

Tác động của quá trình nhập cư
Tích cực:
- Cung cấp lực lượng lao động chủ yếu cho các khu công nghiệp, khu chế xuất,
các nhà máy xí nghiệp... chiếm 70% lao động nhập cư (Lê Văn Thành, 2005).
- Góp phần làm tăng trưởng kinh tế TP.HCM. Dân nhập cư chiếm hơn 30% dân
số toàn TP.HCM, với tư cách là những người lao động và những người tiêu dùng rất đông
đảo,

đóng góp cho tăng trưởng kinh tế Thành phố khoảng 30% GDP (Lê Văn Thành,

2005), và đây là nguồn đóng góp đáng kể.
- Góp phần đa dạng hóa nền văn hóa Thành phố.


- Bên cạnh đó dân nhập cư còn có những đóng góp rất đặc biệt vào công cuộc xoá đói
giảm nghèo ở nông thôn. Nhiều vùng quê Bắc bộ, Trung bộ và cả Nam bộ, rất nhiều gia đình đã
thay đổi bộ mặt cuộc sống: sắm xe đạp, sắm được ti vi, sắm được xe máy, thậm chí xây được
nhà, không phải từ lao động nông nghiệp mà chính là những khoản tiền của những người thân là

lao động nhập cư từ TP.HCM gửi về. Chưa ai thống kê được trong số những phần trăm gia đình
ở nông thôn có nhà xây kiên cố và vật dụng đắt tiền, những phần trăm làm thay đổi bộ mặt nông
thôn đó, có bao nhiêu phần trăm được tạo ra từ những đồng tiền của những lao động cư tại
TP.HCM. Chưa ai thống kê được hàng vạn, hàng chục vạn những cô gái rời khỏi ruộng đồng vào
thành phố làm tiếp viên, làm ‘ca-ve” trong những nhà hàng, những quán bar, những quán
karaoke hoặc làm thợ massage… mỗi năm đã gửi về gia đình mấy trăm tỉ hay mấy ngàn tỉ để
giúp người thân vượt qua khốn khó, nhưng số tiền đó chắc chắn là không nhỏ (Hoàng Hải Vân,
2004).

Tiêu cực:
- Dân số đông gây khó khăn trong việc quản lý. Hiện TP.HCM có khoảng
500.000 khách vãng lai qua đêm và 500 khách vãng lai không qua đêm, tức là trong một
ngày đêm TP.HCM có khoảng 1 triệu khách vãng lai, không cư trú thường xuyên (Lê
Văn Thành, 2006).
- Lao động nhập cư đến TP.HCM là những người lao động đủ mọi trình độ, làm
đủ mọi nghề, từ công nhân đến những người buôn bán, từ kỹ sư đến xe ôm, từ thợ thủ
công đến những người làm make up, tiếp viên nhà hàng, thợ massage... gây khó khăn cho
việc quản lý (Hoàng Hải Vân, 2004).
- Vấn đề ô nhiễm môi trường và tệ nạn xã hội như trộm cắp, cướp giật, ma túy,
mại dâm... cũng nảy sinh và trở thành vấn nạn lớn cho TP.HCM.
4. ĐỘNG LỰC NHẬP CƯ VÀO THÀNH PHỐ
Vấn đề thu nhập và việc làm là hai nhân tố chủ yếu thúc đẩy người lao động nhập cư vào
Thành phố (Tổng cục thống kê, 2004). Cho nên động lực để lao động nhập cư vào thành
phố chủ yếu là vấn đề kinh tế.
Ngoài ra, thất nghiệp ở nông thôn, hay có việc làm nhưng thu nhập thấp cũng là nguyên
nhân thúc đẩy người lao động nhập cư vào TP.HCM.
Lý do chính để lao động nông thôn nhập cư vào TP.HCM là để:
- Tìm kiếm việc làm, tỷ lệ này chiếm 59% số lao động nhập cư ( Lê Xuân Bá, 2006).
- TP.HCM có điều kiện sống, điều kiện sản xuất, kinh doanh tốt hơn, chiếm 27% (Lê
Xuân Bá, 2006).



- Ở TP.HCM công việc khá nhiều và người lao động có thể tìm kiếm công việc dễ dàng.
- Việc lôi cuốn theo gia đình và các quan hệ hôn nhân (Bạch Văn Bảy và ctv, 1992).
- TP.HCM có đầy đủ các loại hình dịch vụ như: trường học, giao thông, đi lại, y tế, vui
chơi, giải trí, ăn uống, du lịch... để đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí và học hành.
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Hiện nay, dân số TP.HCM đứng đầu cả nước, và dự kiến rằng dân số thành phố ngày
càng gia tăng chủ yếu là do gia tăng cơ học.
Dân số là yếu tố cơ bản trong phát triển đô thị và phát triển kinh tế xã hội, nhưng Thành
phố 10 triệu dân thì sao? Điều này đặt ra cho các nhà quản lý và các nhà khoa học nhiều
vấn đề phải suy nghĩ là làm sao phát triển được một đô thị văn minh, hiện đại, bền vững,
là nơi sống tốt cho mọi cư dân. Vấn đề chất lượng cuộc sống dân cư sẽ trở nên một vấn
đề rất bức xúc với một Thành phố có quy mô dân số lớn như vậy. Theo cách gọi và xếp
hạng của thế giới là một siêu đô thị và nó có những vấn đề đặc thù riêng có của nó, không
dễ gì giải quyết (Lê Văn Thành, 2006).
Do vậy cần có những chính sách về phát triển dân số và phân bố dân cư có tác động đến
tăng trưởng kinh tế và phát triển đô thị và ngược lại các chính sách kinh tế xã hội có ảnh
hưởng đến vấn đề dân số. Tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển các
ngành có hàm lượng chất xám cao để điều tiết các luồng nhập cư.
Lượng lao động nhập cư đổ xô vào TP.HCM càng nhiều chủ yếu là lao động trẻ, họ chính
là giai cấp công nhân, cung cấp lao động giản đơn cho hầu hết các khu công nghiệp, khu
chế xuất, nhà máy xí nghiệp cho TP.HCM. Họ đã đóng góp nhiều cho sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội của TP.HCM. Và vì thế họ cần được hướng dẫn nhiều hơn để ổn định
cuộc sống, để có thể hội nhập vào nơi ở mới.
Các chương trình kinh tế xã hội cần lưu ý nhiều hơn đến đối tượng nhập cư đăng ký tạm
trú có thời hạn, như chương trình sinh đẻ có kế hoạch, chương trình xoá đói giảm nghèo,
chương trình 3 giảm.
Các ngành quản lý nhà nước khi thực hiện các biện pháp quản lý không nên lấy hộ khẩu
là tiêu chí xây dựng tiêu chuẩn, quy định của ngành như (gắn đồng hồ nước, đồng hồ

điện, điện thoại…). Mặt khác công tác quản lý dân cư trên địa bàn cần được ủng hộ nhiều
hơn nữa để các phần tử xấu không thể trà trộn vào gây rối trật tự an ninh xã hội và các tệ
nạn xã hội.


6. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bạch Văn Bảy, Vũ Thị Hồng, Trương Sĩ Ánh, Lê Văn Thành và Dư Phước Tân. 1992.
Di dân đến Thành phố Hồ Chí Minh: những vấn đề và giải pháp. [Trực tuyến].
Viện kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Đọc từ
/>ngày đọc 22/2/2008 lúc 8giờ 30.
2. Bạch Văn Bảy, Nguyễn Thị Cành, Đỗ Thị Loan, Nguyễn Thiềng Đức, Vũ Phạm Tín,
Hà Ngọc Lâm, Nguyễn Thị Bích Hồng, Dư Phước Tân, Vũ Huy Thuận và Trương
Sĩ Ánh. 1996. Một số vấn đề biến đổi và phát triển dân số và nguồn lao động trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. [Trực tuyến]. Viện kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh. Đọc từ />idcha=511&cap=3&id=621 ngày đọc 22/2/2008 lúc 8 giời 30 phút.
3. Dương Kim Hồng. 2007. Làn sóng phụ nữ trẻ di cư từ nông thôn ra thành thị làm nghề
giúp việc gia đình một số vấn đề và giải pháp. Diển dàn phát triển Việt Nam.
4. Hoài Nam và Phạm Trường. 2004. Bấp bênh cuộc sống người lao động nhập cư. [Trực
tuyến]. Sài Gòn giải phóng. Đọc từ
ngày đọc
27/2/2008 lúc 11 giờ 32 phút.
5. Hoàng Hải Vân. 2004. Chào những đồng bàp nhập cư. [trực tuyến]. viêt báo. Đọc từ
ngày đọc
21/2/2008 lúc 8 giờ.
6. Lê Văn Thành. 2005. Tình hình và đặc điểm dân nhập cư ở thành phố hồ chí minh qua
một số công trình nghiên cứu gần đây. [Trực tuyến]. Viện kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh. Đọc từ />idcha=3062&cap=4&id=3066 ngày đọc 22/2/2008 lúc 12 giờ 26 phút.
7. Lê Văn Thành. 2006. Dân số và phát triển kinh tế xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.
[Trực tuyến]. Viện kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Đọc từ
/>ngày đọc 22/2/2008 lúc 13 giờ 4 phút.

8. Lê Xuân Bá, Nguyễn Mạnh Hải, Trần Toàn Thắng, Vũ Xuân Nguyệt Hồng và Lưu
Đức Khải. 2006. Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động


nông thôn Việt Nam. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương. Hà nội.
9. Nguyễn Thị Bích Hồng. 2006. Cân bằng dân số - kinh tế dự kiến quy mô dân số thành
phố Hồ Chí Minh năm 2010. [Trực tuyến]. Viện kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Đọc từ />idcha=3363&cap=4&id=3368 ngày đọc 22/2/2008 lúc 12giờ 45 phút.
10. Phan Huy Tưởng. 2004. Dân nhập cư: anh là ai?. [Trực tuyến]. Việt báo. Đọc từ
ngày đọc
21/2/2008 lúc 8 giờ.
11. Tổng cục thống kê. 2004. Di cư trong nước và mối liên hệ với các sự kiện cuộc sống.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×