Đề 1: Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm “ Vợ nhặt” của Kim Lân
KL là 1 trong những nhà văn viết truyện ngắn tài năng của văn học hiện đại. Ông
thường viết về con ng nông thôn và những ng dân quê lam lũ hiền hậu, chất phác
giàu yêu thương và khát vọng. “ Vợ nhặt” là 1 trog những sáng tác tiêu biểu của KL.
Trong tác phẩm này, nhà văn khắc họa thành công chân dung ng đàn ông nghèo
khổ nhưng giàu ty thương luôn khao khát hp giản dị và biết hướng tới tương lai
tốt đẹp. Đó là nv Tràng, 1 trog những nv chính của tácphẩm.
Tr ngắn “ Vợ nhặt” của KL có tiền thân từ tiểu thuyết “ Xóm ngụ cư”, là 1 trong
những đóng góp của KL cho đề tài nạn đói năm 1945. Tác phẩm đc viết ngay sau
ngày cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo.
Sau khi hòa bình lập lại (1954), KL đã dựa vào 1 phần cốt truyện cũ, viết lại thành
truyện ngắn “ Vợ nhặt” in trog tập “ Con chó xấu xí”. Từ truyện ngắn này KL đã thể
hiện cái nhìn hiện thực và tấm lòng nhân đạo sâu sắc.
Tràng vốn là 1 thanh niên nghèo lại là dân ngụ cư, từ 1 miền quê trôi
dạt vào thành phố sống ở vùng ven đô. Anh làm nghề kéo xe bò thuê, nuôi mẹ già vs
có 1 túp lều. Dân ngụ cư vốn là những ng từ nơi khác đến, những ng ko sống nổi ở
quê phải đi tha phương cầu thực. Vì thế dân ngụ cư ko có ruộng đất, mà ruộng đất
vốn là tài sản quan trọng vs ng nông dân thời xưa, họ vốn là ng bị phân biệt đối xử,
phải ở rìa làng hoặc chỗ hẻo lánh. Anh Tràng cũng vậy, nhà chỉ là 1 túp lều ở
đường rúm ró trên mảnh vườn đất.
T có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về a ta bước ngạo
nghễnh trên con đường ngoằn nghèo ngoài xóm chợ, vừa đi vừa cười, hai con mắt
mở tí, cái lưng rộng như lưng gấu, thỉnh thoảng lại cười hềnh hệch.
Từ lai lịch và ngoại hình ấy gợi ra cảnh ngộ của T xấu xí, nghèo khổ,
ế vợ. Đã thế T lại đc đặt trog hoàn cảnh thê thảm của nạn đói 1945, càng cho thấy
tình cảnh khốn cùng.
A T còn là 1 ng rất vô tư hài hước, dễ gần. A rất thích chơi vs trẻ con
và chẳng khác chúng là mấy, đám trẻ con trong xóm cứ thấy thân hình to lớn phập
phạp của T là ùa ra, vây lấy: đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa lôi chân
ko cho đi. Ngay cả cách cười của T cũng thấy sự vô tư đến vô tâm: “ thỉnh thoảng
hắn lại ngửa cổ lên trời cười hềnh hệch”, ngay cả truyện lấy vợ T cũng nhanh
chóng ko cần suy nghĩ nhiều. Chỉ cần 1 câu hò như 1 lời hứa hẹn và lần thứ hai lại
là 1 câu đùa như thật mà thật như đùa: “ làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ, có về
vs tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Thế là họ nên vợ nên chồng.
Mặc dù tính ngoại hình xấu xí, và tính cách vô tư đến mức tưởng
chừng đến vô tâm. Nhưng hoàn toàn ngược lại, T là 1 ng đàn ông rất nhân hậu và
phóng khoáng. Trong hoàn cảnh nạn đói hoành hành, con ngta chỉ biết sống cho
qua ngày hôm nay là tốt lắm rồi còn chẳng biết có qua nổi ngày mai ko. Vậy mà a T
đã sẵn sàng cưu mang 1 ng đói ngay trong hoàn cảnh mh cũng chưa biết sẽ ra sao.
T đã mời 1 ng lạ ăn bánh đúc mà ko hề tính toán. T đã lấy vợ trước hết vì lòng
thương vs ng cùng cảnh ngộ, muốn trở che 1 ng đói. Điều đáng quý là a đã yêu
thương, đùm bọc ng khác ngay khi hoàn cảnh của mình cũng thê thảm.
Khi cô gái chấp nhận theo ko, mặc dù chưa phải là tình yêu nhưng T
đã có ý thức chăm sóc cô vợ mới của mh. T đưa thị vào chợ tỉnh, mua cho thị cái
thúng con, rồi ra hàng cơm đánh 1 bữa no nê lại còn mua 2 hào dầu để đón vợ mới.
Đây là sự chăm sóc quan tâm nhân hậu, sự hào phóng tới mức hiếm có trong hoàn
cảnh ngày đói, mặc dù nhặt được vợ 1 cách dễ dàng nhưng ko vì thế mà T coi
thường, khinh rẻ ng vợ mới.
T luôn có ý thức làm cho ng vợ có đc niềm vui: khoe chuyện mua dầu,
về nhà đứng trước ng mẹ a có ý thức bảo vệ ng vợ của mh. T trân trọng và nâng niu
hạnh phúc mà mình có đc: “ trong một lúc T quên đi hết cảnh sống ê chề, tăm tối
hằng ngày, trong lòng hắn bây h chỉ còn tình nghĩa vs ng đàn bà đi bên”. Hạnh phúc
dẫu là bèo bọt, rẻ rung có thể nhặt được nơi nhà kho bãi chợ, nhưng vẫn đủ sức
mang đến cho T niềm vui, đưa T ra khỏi nỗi ám ảnh về cái đói cái chết. Anh đã đón
nhận hạnh phúc ấy = tất cả tấm lòng yêu thương và trân trọng.
Từ khi T có vợ thì khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc đã trỗi dậy
trong T mãnh liệt hơn, T đã bắt đầu có ý thức trách nhiệm vs tương lai của mình và
gia đình mình. Bắt đầu từ sự kiện T lấy vợ 1 cách dễ dàng chỉ nhờ bốn bát bánh
đúc mà nên vợ nên chồng, đã khiến có lúc T cảm thấy lo lắng: “ thóc gạo này đến cái
thân mình cũng chả biết có nuôi nổi ko, lại còn đèo bòng” nhưng rồi lại tặc lưỡi “
Chậc, kệ!”. Đây ko chỉ là sự liều lĩnh bất cần của tuổi trẻ, ko chỉ là sự cưu mang mà
sâu xa hơn trong tâm hồn ng đàn ông ấy là niềm khao khát hạnh phúc, mog muốn
có 1 mái ấm gia đình- điều mà trog hoàn cảnh của T chỉ là giấc mơ. Thế là T dẫn ng
đàn bà xa lạ về làm vợ để xây dựng gia đình, nối tiếp sự sống.
Sáng hôm sau, khi T trở dậy, a có cảm giác “ như ng ở trong giấc mơ
đi ra”. Hạnh phúc đến thật bất ngờ, khiến ngta ko tin nổi cứ tưởng là trog mơ. Đó
còn gọi là cảm giác hạnh phúc, là khát khao sự sống. T chợt nhận ra “ xung quanh
mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ và khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều
được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng”, “ bây h hắn mới thấy hắn nên ng, hắn
thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Rồi “ hắn xăm xăm chạy ra
giữa sân, hắn cũng muốn làm 1 việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Đây là suy
nghĩ và hành động của ng đàn ông trưởng thành, có ý thức trách nhiệm vs bản
thân, vs gia đình. Hạnh phúc như 1 phép màu làm thay đổi con ng, khiến ngta trở
nên lương thiện và tốt đẹp hơn. Từ 1 ng vô tư, T đã có những dự tính về tương lai
T đã biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát đổi
đời. Khi nghe tiếng trống thúc thuế ngoài đình, “T đã thần mặt ra nghĩ ngợi”.
“Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên
đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”. Đây là 1 sự ý thức tất yếu, vận động tích cực
từ bóng tối ra ánh sáng, là sự giác ngộ để hướng tới cách mạng. Cái nhìn nhân đạo
Cộng sản đã chỉ ra con đường sống cho những ng nghèo khổ như T, đó là đi theo
cách mạng để giải phóng khỏi cảnh đói nghèo, tăm tối.
KL đã khắc họa rõ nét nhân vật qua lời nói, hành động, đặc biệt là
diễn biến tâm trạng bằng ngòi bút sắc sảo. Nghệ thuật đối lập giữa diện mạo vs
tính cách: bên ngoài xấu xí thô kệch, nhưng trái tim lại rất nhân hậu, hào phóng;
có vẻ vô tâm nhưng lại là 1 con ng đầy trách nhiệm có ý thức vun vén tương lai. Tác
giả đã đặt nhân vật vào tình huống éo le để khai thác tâm lí và bước ngoặt số phận
của nhân vật.
Nhân vật T có số phận bi thảm nhưng lại có phẩm chất tốt đẹp của
ng lao động nhân ái, bao dung và giàu khát vọng sống. T là nv tiêu biểu cho ng
nông dân VN trog nạn đói năm 1945. Dù họ bị đẩy lùi vào hoàn cảnh sống thảm
thương, cận kề bên cái chết nhưng vẫn giàu lòng nhân ái và khát vọng sống, khát
bọng đổi đời. Qua đó mà KL đã phản ánh hiện thực đen tối của nạn đói 1945, đồng
thời phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của ng lao động nghèo. Trog cái túng đói
quay quắt, con ng vẫn hướng tới sự sống, biết vượt lên hoàn cảnh để tìm niềm vui,
hi vọng.
Đề 2: Phân tích ng vợ nhặt trog tác phẩm “ Vợ nhặt”- KL
Bài làm
“ Đói nó vừa cay đắng, vừa đớn đau, đồng thời 1 mặt nào đó nó làm
lóe lên tia sáng về đạo đức, danh dự” KL đã nói như vậy về tác phẩm “ Vợ nhặt” ( in
trong tập “ Con chó xấu xí” ). Tác phẩm đã ca ngợi những con ng lương thiện trong
hoàn cảnh đói khủng khiếp, họ đã cưu mang đùm bọc lẫn nhau và hi vọng vào 1 c/s
tốt đẹp hơn mà cách mạng sẽ mang đến. Thành công của truyện ko chỉ ở việc xây
dựng được ở tình huống tr lạ, độc đáo giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc
mà còn ở việc xây dựng nên hình tượng “vợ nhặt”- Người phụ nữ có số phận bi
thảm trog nạn đói nhưng giàu lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc.
Truyện ngắn “ Vợ nhặt” của KL có tiền thân từ tiểu thuyết “ Xóm ngụ
cư”, là 1 trong những đóng góp của KL cho đề tài nạn đói năm 1945. Tác phẩm đc
viết ngay sau ngày cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất
bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), KL đã dựa vào 1 phần cốt truyện cũ, viết
lại thành truyện ngắn “ Vợ nhặt” in trog tập “ Con chó xấu xí”. Từ truyện ngắn này
KL đã thể hiện cái nhìn hiện thực và tấm lòng nhân đạo sâu sắc.
Ng đàn bà đó ko rõ lai lịch, ko có gia đình, ko có nhà cửa, ko có quê
hương và ko có quá khứ. Cô ta thậm chí ko có tên để gọi. Khi xuất hiện thì được gọi
là “ cô ả”, “ thị”, “ người đàn bà”. Điều này nói lên thân phận thấp hèn của nhân vật,
người vợ nhặt ấy như lẫn vào biết bao số phận bi thảm của hàng triệu người phụ
nữ VN trong nạn đói. Họ bị cái đói dồn đuổi khỏi quê hương, phải sống tha phương
cầu thực, ko ng thân thích. Để cho nv vô danh như vậy, bản thân nhân vật đã có ý
nghĩa tố cáo sâu sắc. Trước khi về nhà cụ Tứ, cô gái ấy làm nghề nhặt thóc rơi gạo
vãi ở kho hoặc ai có công việc gì thì gọi đến làm, còn đến nỗi ngồi vêu ra đấy. Trong
nạn đói, thân phận ấy có 1 c/s thật bấp bênh, sống nhờ vào thóc rơi gạo vãi nơi bãi
chợ.Lần đầu tiên T trông thấy thị mới chỉ là gầy gò, vêu vao. Nhưng lần thứ 2 gặp
lại, T ko nhận ra cái vẻ nhếch nhác, quần áo rách tả tơi như tổ đỉa, gầy xọp như
lưỡi cày, khuôn mặt gầy gộc chỉ còn 2 con mắt trũng hoáy.
Từ lai lịch, nghề nghiệp và vẻ ngoài cô gái đều toát lên vẻ bi thảm
của con ng trog nạn đói. Cô ấy chẳng khác gì 1 mảnh rác trôi dạt trên dòng đời
ngầu đục.
Cái đói nó còn làm tha hóa nhân phẩm ng vợ nhặt, biến thị trở nên
cong cớn, sẵn sàng đòi ăn của ng khác. Khi nghe câu hò của a Tràng
“ Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò vs anh, nì!”
Thế là thị ton ton chạy lại đẩy xe cho T rồi liếc mắt cười tít. Sức hấp
dẫn của câu hò vs cô gái ấy chỉ là vì “ muốn ăn cơm trắng mấy giò”. Gặp lại lần hai,
thị đã chạy đến sầm sập, đứng trước mặt T xưng xỉa nói: “ Điêu! Người thế mà
điêu!”. Thị lại tiếp tục đòi ăn từ 1 người lạ “ có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” nói đến ăn,
đôi mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị xà xuống ăn. Thị cắm đầu ăn
chặp bốn bát bánh đúc chẳng chuyện trò gì. Sẵn sàng theo ko 1 ng lạ chỉ vì miếng
ăn mà ko cần biết gốc tích, lai lịch của ng đó ra sao.
Trước cái chết đang đến gần, ng phụ nữ kia đang liếc mắt để có cái
ăn duy trì sự sống. Cái đói đã làm hạ thấp giá trị con ng. Cô ta chỉ ngang giá vs bốn
bát bánh đúc ngoài chợ. Chính cái đói là thủ phạm, là ng nhân đẩy con ng vào tình
trạng mất đi lòng tự trọng, nữ tính. Thị chẳng khác nào cái rơm cái rác ngoài
đường mà ngta có thể nhặt được.
Nhưng ng vợ nhặt ấy cũng lại là người mang vẻ đẹp phẩm chất của
người lao động hiền hậu; giàu khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc. Trên con
đường về nhà, thị đi sau T tay cắp cái thúng con, “cái nón rách tàn nghiêng nghiêng
che khuất nửa mặt. Thị có vẻ rón rén e thẹn”. Nhưng cô gái ấy đã ý thức về thân
phận của mình, thân phận vợ theo, vợ nhặt. Đó chính là biểu hiện của lòng tự trọng.
Việc theo T về làm vợ đáng thương hơn là đáng trách. Vì hoàn cảnh cái đói, ngta ko
còn sự lựa chọn nào khác. Mặt khác đây cũng là biểu hiện của lòng ham sống: ko
chấp nhận chịu chết mà tìm mọi cách để sống, muốn có 1 nơi nương tựa, muốn có 1
mái ấm gia đình.
Trước sự bông đùa của ng dân xóm ngụ cư, thị “bước chân nọ díu cả
vào chân kia”, lầm lũi đi đến nỗi nhầm cả đường. Đó là thái độ mặc cảm, ý thức về
thân phận hèn kém của mh. Về đến trước cổng nhà, thấy ngôi nhà vắng teo đứng
rúm ró trên mảnh vườn, lổm nhổm những búi cỏ dại, thị đã nén 1 tiếng thở dài. Có
thể đây là tiếng thở dài thất vọng về gia cảnh của nhà chồng, nhưng ta nên hiểu
nhiều hơn về ý thức trách nhiệm của ng phụ nữ trog gánh nặng giang sơn của nhà
chồng.
Khi gặp bà cụ Tứ, ng đàn bà ấy đứng dậy chào lễ phép, gọi bà cụ Tứ
bằng u. “ U đã về đấy ạ!”, đứng nguyên tay vê tà áo đã rách bợt. Đây là thái độ lễ
phép, ý tứ của nàng dâu và cũng mặc cảm về thân phận ( chính thái độ này vs hoàn
cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ nhìn thị vs ánh mắt đầy xót thương và nhanh chóng
chấp nhận thị làm dâu).
Sáng hôm sau, cô gái nhặt được ấy đã trở thành ng vợ đảm đang,
biết thu vén tổ ấm gia đình. Thị thức dậy quét dọn nhà cửa, quét tước sân vườn
sạch sẽ. Ng vô tâm như T cũng nhận ra sự thay đổi ấy của thị “ T nom thị hôm nay
khác lắm, rõ rang là ng đàn bà hiền hậu, đúng mực ko có vẻ gì chao chat, chỏng lỏn
như mấy lần T gặp thị ở ngoài tỉnh. Trong bữa cơm ảm đạm ngày đói, thị cũng như
bà cụ Tứ và T đều thấy 1 nỗi tủi hờn len lỏi vào tâm trí mình, “hai con mắt thị tối
lại. Thị vẫn điềm nhiên và vào miệng” và cố tránh ko nhìn vào mặt ng khác, thị ko
muốn làm ng.k phải đau, phải tủi. Đó là biểu hiện của sự nết na, tinh tế tới mức
hiếm có trog cách ứng xử đầy nhân bản của thị. Ko những thế, thị còn hiểu ra là ng
hiểu biết và tu chí làm ăn, thị là ng đầu tiên kể cho gđ T nghe “ trên mạn Thái
Nguyên, Bắc Giang, ngta ko chịu đóng thuế nữa, ngta còn phá kho thóc của Nhật
rồi chia cho ng đói nữa đấy”. Sự hiểu biết này đã giác ngộ T về con đường phía
trước vs h/ả đám ng phá kho thóc của Nhật và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rất có thể
rồi mai đây vì chăm lo cho gđ cô gái nhặt đc ấy sẽ cùng tham gia vào đám ng đi phá
kho thóc của Nhật
Hóa ra cái vẻ đanh đá, trơ trẽn trước khi về làm vợ T chẳng qua vì
đói khát. Khi đc sống trog 1 mái ấm gđ, trong tình thương và lòng bao dung của
những ng có cùng cảnh ngộ, ng phụ nữ ấy đã trở về đúng bản chất tốt đẹp của
mình: hiền hậu; đúng mực; giàu khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và chứa
chan niềm tin yêu về c/s tương lai. Cô gái nhặt được ấy ở trong túp lều của mẹ con
bà cụ Tứ vì đã hiểu những điều còn quý hơn cả miếng ăn, đó là tình ng cao đẹp, là
tấm lòng nhân hậu, bao dung của những con ng sẵn sàng cưu mang ng.k ngay khi
chính họ cũng đang đói khát.
Nv “ vợ nhặt” được đặt trong tình huống éo le để có thể khám phá ra
được tính cách và đời sống nội tâm.KL đã miêu tả rất cụ thể các chi tiết, toàn diện
từ ngoại hình, hành động và tâm lí. Ngôn ngữ của tác giả rất giản dị, đời thường
phù hợp vs tính cách nhân vật.
Ng “ vợ nhặt” có 1 cảnh ngộ bi thảm do nạn đói gây ra nhưng ẩn sâu
trong tâm hồn lại là những nét đẹp đáng quý của ng lao động nghèo. Đó là những
vẻ đẹp khuất lấp mà ngta ko dễ gì nhận ra. Thị là nv giàu lòng ham sống, có khát
vọng cao đẹp và có ước mơ đổi đời. Ng “ vợ nhặt” ấy là tiêu biểu cho số phận, phẩm
chất của ng nông dân nghèo trong nạn đói 1945. Qua nhân vật này tác thể hiện sự
đồng cảm, xót thương vs số phận bi đát, những cảnh đời xanh xám quay quắt trong
nạn đói năm 1945, đồng thời thể hiện thái độ trân trọng ngợi ca, bộc lộ niềm tin
yêu vào bản lĩnh sống của ng lao động.
Đề 3: Phân tích tình huống truyện “ Vợ nhặt”
Bài làm
KL là 1 trong những nhà văn viết truyện ngắn tài năng của văn học
hiện đại. Ông thường viết về con ng nông thôn và những ng dân quê lam lũ hiền
hậu, chất phác giàu yêu thương và khát vọng. “ Vợ nhặt” vốn là 1 chương của tiểu
thuyết “ Xóm ngụ cư”, là 1 trong những đóng góp của KL cho đề tài nạn đói năm
1945. KL rất có sở trường trog việc tạo ra tình huống độc đáo để từ đó khám phá
hiện thực c/s và bản chất của con nh. Trong truyện ngắn “ Vợ nhặt”, KL đã chọn đc
1 tình huống khác thường, chuyện lấy vợ của 1 anh trai nghèo trong ngày đói, để
từ đó nhà văn giúp người đọc khám phá đc 1 mảng hiện thực đ/s bi thương, khơi
sâu vào đời sống tâm lí, bản chất nhân vật, ngợi ca bản lĩnh sống của con ng giữa
những ngày đói khát nhất năm 1945.
Khi bàn về sự thành công của 1 tác phẩm văn học ngta thường quan
tâm đến hai phương diện đó là nội dung và nghệ thuật. “ Vợ nhặt” cũng được xem
là 1 truyện ngắn thành công vì tình huống truyện độc đáo. Vậy tình huống truyện là
gì? Tình huống truyện là 1 xung đột, 1 sự kiện đặc biệt mà ở đó thể hiện rõ
……………………………..Nhờ tình huống truyện mà nhà văn có thể dẫn dắt được diễn
biến câu truyện đi theo diễn biến của truyện, có thể khám phá đc nhân vật 1 cách
sâu sắc nhất. Từ đó nhà văn có thể bộc lộ ý đồ nghệ thuật của tình huống. Có ba loại
tình huống truyện: tình huống nhận thức, tình huống hành động và tình huống tâm
lí.
Truyện ngắn “ Vợ nhặt” thuộc loại tình huống tâm lí vì nhờ 1 sự kiện
đặc biệt mà nhà văn có điều kiện khơi sâu vào tâm lí nhân vật.
Tràng vốn là 1 thanh niên nghèo, xấu xí, thô kệch, là dân ngụ cư, ko
ai thèm để ý đến. Đang giữa lúc thiên hạ đói khát mà lại có ng theo ko, lại nhặt
được vợ quá dễ dàng như nhặt đc cái rơm, cái rác ngoài đường. Đây là tình huống
truyện độc đáo lạ lung, vừa vui vừa đau xót.
Tình huống lạ độc đáo vì ng như T mà lấy đc vợ, thậm chí có vợ theo.
Từ trước tới nay, khi cưới vợ là việc quan trọng đối vs mọi ng, thế nhưng vs T nó
diễn ra quá đơn giản, chỉ cần 4 bát bánh đúc ngoài chợ, vài lời bông đùa thế là lấy
đc vợ. Giữa lúc nạn đói đang hoành hành khắp làng xóm, ngta chỉ nghĩ đến miếng
ăn và cái chết. Thế mà T lại dám lấy vợ.
Tình huống truyện “ Vợ nhặt” còn là 1 tình huống vừa vui, vừa đau
xót. Vui vì T đã lấy đc vợ, hạnh phúc đến vs T bất ngờ, nó như 1 giấc mơ. Còn vui
hơn vì từ cuộc hôn nhân ấy mà những con ng đói khổ đã vun vén 1 gia đình, nuôi
dưỡng nên bao hi vọng của c/s ngày mai. Nhưng cũng thật đau xót khi giá trị con
ng thật rẻ rúng, ngta có theo vợ nhặt chỉ là mấy bát bánh đúc ngoài chợ. Ngta theo
nhau thành vợ chồng trước hết vì miếng ăn, vì cái đói và vì thế mà T mới có vợ. Nó
còn đau xót vì lẽ hạnh phúc của họ được đặt trong hoàn cảnh bi đát nhất, nơi sự
sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc. Họ đưa nhau về trên con đường
khẳng khiu luồn qua xóm chợ, giữa mùi gây của xác ng, tiếng quạ gào thét, tiếng
ng khóc hờ tỉ tê. Đó là hạnh phúc của nỗi đau, nụ cười xen lẫn nước mắt. Và cũng là
cảm nhận mà tình huống gợi ra rất phù hợp vs truyện của năm đói.
Cũng nhờ có tình huống truyện mà tác giả có điều kiện khám phá
bản chất, tình cảm của các nhân vật. Tình huống nhặt được vợ giữa ngày đói của T
đã giúp ng đọc phát hiện ra vẻ đẹp của tình ng và niềm tin vào c/s của ng lao động.
Nhân vật bà cụ Tứ hiện lên vs vẻ đẹp của 1 ng mẹ bao dung, đôn hậu.
Khi nghe tin con trai lấy vợ bà lão “ cúi đầu nín lặng”, đó là cái cúi đầu đầy nội tâm,
chất chứa bao suy nghĩ của ng mẹ vừa ai oán, xót thương cho đứa con trai, tủi hờn
cho chính mình, và thương cho cả ng đàn bà xa lạ phải làm dâu giữa ngày đói. Bà
lão đã khóc, “ trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”, giọt
nước mắt của niềm vui, của nỗi buồn vs bao yêu thương của tấm lòng ng mẹ. Bà lão
đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng sự trải nghiệm của cả cuộc đời, bằng ý thức
sâu sắc trước hoàn cảnh sống. Bà đã đón nhận nàng dâu mới bằng tấm lòng bao
dung của bà mẹ, cách xưng hô “ u” vs “ con”, trong câu nói đầy lo thương “ chúng
mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Bà còn thể hiện tấm lòng biết ơn vs nàng dâu
mới trong ý nghĩ nội tâm: “ Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, ngta mới
lấy đến con mình. Mà con mh mới có vợ được”. Khác xa vs mph mẹ chồng nàng dâu,
ở đây ta lại thấy tình mẹ con nồng hậu, ấm áp, là 1 ng mẹ giàu lòng bao dung, sẵn
sàng che chở, cưu mang ng đàn bà xa lạ.
Không chỉ là 1 ng mẹ giàu lòng bao dung, nhân hậu mà bà cụ Tứ còn
hiện lên vs vẻ đẹp của bản lĩnh sống. Bà lão nói rất nhiều về chuyện tương lai: rồi
may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra
thì rồi con cái chúng mày về sau”, bà còn tính đến chuyện mua lấy đôi gà và hứa
hẹn “ rồi chẳng mấy choc có ngay đàn gà cho mà xem”. Thật kì lạ và đáng khâm
phục là trong cái túng đói quay quắt, cái chết gần kề, 1 bà lão gần đất xa trời lại là
ng nói đến tương lai nhiều hơn tất cả. Đó ko chỉ là bản lĩnh lạc quan, khỏe khoắn
của ng lao động mà còn là niềm mơ ước thiết tha về 1 ngày mai tốt đẹp hơn cho
các con mình. Bà lão đã tìm thấy ý nghĩa của những ngày cuối cùng trong cuộc đời
mình là ở sự chăm lo, vun vén cho các con.
Trong buổi sáng hôm sau, bà lão cũng thức dậy thật sớm thu dọn,
quét tước nhà cửa, khuôn mặt vốn bủng beo, u ám hằng ngày bỗng rạng rỡ hẳn lên.
Có lẽ niềm vui sống đã làm thay đổi con ng, nó làm tỏa ánh sáng hào quang của
khát vọng sống. Chi tiết “nồi cháo cám” là 1 chi tiết giàu ý nghĩa biểu tượng. Nó
chính là món ăn mà bà thêm vào trog bữa cơm mừng nàng dâu mới. Những cử chỉ
của bà: “ Lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra 1 cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà
lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười”.
Những cử chỉ ấy đã thể hiện tấm lòng lo thương đến tội nghiệp của bà mẹ nghèo,
muốn động viên các con. Bà đang cố gắng làm tất cả những gì có thể để vun vén
cho hạnh phúc của con. “ Nồi cháo cám” ấy vừa là tình thương con, thương mình, là
niềm vui sống, bản lĩnh sống kiên cường, là cách sống tình nghĩa và hi vọng.
Nhân vật Tràng- 1 ng đàn ông khốn khổ nhưng lại có tấm lòng nhân
hậu, có niềm vui sống, khát vọng sống mãnh liệt. A đã cưu mang ng đói lúc mình
cũng đói, ko biết mình có nuôi nổi mh ko. Ko chỉ thế, a T còn là ng có bản lĩnh sống.
A đã lấy vợ giữa ngày đói và sự trưởng thành,nên người của T trog buổi sáng hôm
sau, khi T trở dậy a có cảm giác “ như ng ở trong giấc mơ đi ra”. Hạnh phúc đến
thật bất ngờ, khiến ngta ko tin nổi cứ tưởng là trog mơ. Đó còn gọi là cảm giác
hạnh phúc, là khát khao sự sống. T chợt nhận ra “ xung quanh mình có cái gì vừa
thay đổi mới mẻ và khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu
dọn sạch sẽ gọn gàng”, “ bây h hắn mới thấy hắn nên ng, hắn thấy hắn có bổn phận
phải lo lắng cho vợ con sau này”. Rồi “ hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng
muốn làm 1 việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Đây là suy nghĩ và hành động
của ng đàn ông trưởng thành, có ý thức trách nhiệm vs bản thân, vs gia đình và có
khát vọng đổi đời.
Còn nhân vật cô vợ nhặt, cũng nhờ có tình huống tr mà ng đọc mới
hiểu đc bên trong cái vẻ rách rưới, nhếch nhác, thân phận rẻ rúng như cái rơm cái
rác ngoài đường là 1ng phụ nữ nhân hậu, hiểu biết và có khát vọng sống, khát vọng
hạnh phúc. Hành động thị theo T về làm vợ, trước sự bông đùa của ng dân xóm ngụ
cư, thị “bước chân nọ díu cả vào chân kia”, lầm lũi đi đến nỗi nhầm cả đường. Khi
gặp bà cụ Tứ, thị đứng dậy chào lễ phép, gọi bà cụ Tứ bằng u. “ U đã về đấy ạ!”,
đứng nguyên tay vê tà áo đã rách bợt. Đây là thái độ lễ phép, ý tứ của nàng dâu và
cũng mặc cảm về thân phận . Sáng hôm sau, thị đã trở thành ng vợ đảm đang, biết
thu vén tổ ấm gia đình. Thị thức dậy quét dọn nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ.
Qua đó đã chứng tỏ được phẩm chất hiền hậu của cô vợ nhặt, rất đảm đang, đúng
mực và giàu khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc.
Như vậy, từ 1 tình huống éo le, dở khóc dở cười. KL đã đã dẫn dắt ng
đọc đi sâu vào đời sống tâm lí để trân trọng hơn vẻ đẹp của tâm hồn ng lao độngnhững con ng nhân hậu, chất phác đầy lạc quan. Trong cái đói và cái chết họ lại
nghĩ đến sự sống
Thông qua tình huống truyện, tác giả đã có dịp phơi bày bức tranh
hiện thực nạn đói 1945. Từ đó tố cáo sâu sắc, thấm thía tội ác của bọn thực dân
Pháp, phát xít Nhật và bọn tay sai đã đẩy ng nông dân VN vào hoàn cảnh khốn
cùng đến nỗi quá rẻ mạt như cái rơm cái rác. Tình huống tr cũng đã thể hiện sự
hiểu biết, niềm cảm thông và nỗi xót thương của nhà văn dành cho ng lao động
nghèo. Nhờ có tình huống tr mà tác phẩm đã thể hiện những tình cảm cao đẹp của
ng lao động: tình cảm mẹ con, tình nghĩa lứa đôi và tình cảm của những ng nghèo
vs nhau.Qua tình huống, tác giả đã thể hiện vẻ đẹp khỏe khoắn của ng lao động rất
lạc quan dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, những ng nghèo khổ cũng ko hề tuyệt
vọng, vẫn cưu mang, đùm bọc , biết hướng tới hạnh phúc và ko mất đi niềm hi vọng
vào sự sống và tương lai.