KHÓ KHĂN VÀ CÁCH KHẮC PHỤC TRONG
HỌC NGHE NÓI TIẾNG ITALIA
Nhóm thực hiện: Nguyễn Thu Hà
Đặng Thanh Hà
Tạ Minh Hải
Lớp: 1I-06
GVHD:
Bùi Thị Thái Dương
ĐẶT VẤN ĐỀ
Muốn bắt đầu một việc gì, trước tiên ta phải có mục đích. Học tiếng
Italia cũng vậy. Muốn học tốt nghe nói, người học cần đặt câu hỏi: tại sao
học, học để làm gì. Trả lời được câu hỏi đó, ta mới có thể xác định được
phương hướng cũng như phương pháp học sao cho thật hiệu quả và phù hợp
với bản thân.
Vấn đề thứ hai mà chúng ta cần đặt ra sau khi đã biết được mục đích
học tiếng Italia là vấn đề về phương pháp học, trả lời cho câu hỏi: học như
thế nào, làm sao để học hiệu quả nhất. Phạm vi bài báo cáo này chỉ đề cập
đến phương pháp học trong hai kỹ năng nghe và nói.
Trước hết, muốn học nghe và nói tốt, phải chỉ ra được những khó khăn
khi nghe, nói.
I - Ngữ pháp
Khó khăn trước tiên không chỉ với người học tiếng Italia nói riêng mà
với người học ngoại ngữ nói chung là vấn đề ngữ pháp. Đứng trước một ngôn
ngữ mới, khác với tiếng mẹ đẻ, để nói sao cho người khác hiểu được là vấn
đề đầu tiên, do đó việc học ngữ pháp được đặt lên hàng đầu. So với tiếng
Việt, ngữ pháp tiếng Italia khá phức tạp do người học phải học cách chia
động từ mà trong tiếng Việt không có. Hơn nữa, do phải chia động từ, ngữ
pháp châu Âu nói chung, tiếng Italia nói riêng có các thì của động từ rất rõ
ràng, theo đó cũng có những công thức, mẫu câu mà người học bắt buộc phải
học thuộc để từ đó có thể đặt một câu đúng ngữ pháp, giúp người nghe hiểu
được người nói. Tuy nhiên, các công thức ngữ pháp, mẫu câu là cái có hạn,
lại khá ít và luôn luôn theo một chuẩn mực nhất định nên người học có thể dễ
dàng ghi nhớ. Mặt khác, đối với tất cả các thứ tiếng, văn nói thường đơn giản
hơn văn viết. Trong khi nói, người nói có thể sử dụng những mẫu câu đơn
giản, dễ hiểu và thường phụ thuộc rất nhiều vào tình cảm, thái độ của người
nói nên ngữ pháp trong văn nói dễ hiểu hơn rất nhiều.
Ví dụ: Trong khi viết, nếu muốn diễn đạt câu có nghĩa tiếng Việt:
“Nếu tôi biết điều đó, tôi đã không đi”:
Se l’avessi saputo, non sarei venuta.
Đây là môt câu dạng giả định loại 3 - giả định không thật. Thay vì
dùng cấu trúc rất phức tạp như trên (composto), trong văn nói, người ta
thường dùng loại đơn giản:
Se lo sapevo, non venivo.
II - Từ vựng
Từ vựng cũng là một vấn đề hết sức quan trọng trong việc học ngoại
ngữ. Người có vốn từ vựng ít rất khó diễn đạt được điều mình muốn nói. Từ
vựng được chia thành hai phần: vốn từ vựng tích cực và vốn từ không tích
cực. Người sử dụng ngôn ngữ tốt thường biết nhiều từ trong vốn từ tích cực,
tức vốn từ được sử dụng nhiều trong cuộc sống. Trong việc học nghe nói, vốn
từ vựng càng quan trọng. Khi học ngữ pháp, người học có thể chỉ cần nắm
bắt cấu trúc ngữ pháp thể hiện trong câu văn hay đoạn văn (mà cấu trúc này
thường đi theo một chuẩn mực nhất định) hoặc có thể đọc đi đọc lại nhiều lần
để đoán ra nghĩa hay tra từ điển là có thể hiểu được văn bản. Trái lại, trong
khi nghe nói, người truyền đạt thông tin nhanh, người nghe cũng tiếp nhận
thông tin nhanh nên không thể nhắc đi nhắc lại mãi một thông tin hay chờ tra
từ điển. Vốn từ vựng phong phú là rất quan trọng, đặc biệt với vốn từ vựng
tích cực, nó giúp người nghe cũng như người nói nhanh chóng hiểu được nội
dung cuộc đàm thoại mà không cần bất cứ công cụ hỗ trợ nào.
Đối với tiếng Italia, vốn từ vựng cũng rất quan trọng. Khi giao tiếp với
người Italia, ta khó có thể hiểu những gì họ nói nếu có vốn từ ít ỏi. Hơn nữa,
về mặt văn hoá, người Italia nói rất nhanh và rất nhiều, nếu vốn từ của ta
không đủ, ta không thể theo được cuộc nói chuyện của người Italia chứ chưa
nói đến việc có thể giao tiếp với họ. Mặt khác, ngoài việc chia động từ phức
tạp, vốn từ vựng tích cực tiếng Italia không nhiều
Ví dụ: Trong tiếng Italia có một động từ có thể ghép với rất nhiều
danh từ tạo nên những nghĩa khác nhau: “fare” tức là “làm” trong tiếng
Việt, và là “do”, “make” và một phần của từ “to have” trong tiếng Anh:
“fare la colazione” là “ăn sáng”, trong tiếng Anh dùng “have
breakfast”
“fare la dolce” là “làm bánh”, tiếng Anh dùng “make cake”
ngoài ra, còn một số nghĩa khác như:
“fare la barba” là “cạo râu”
“fare benzina” là “đổ xăng”
lại có rất nhiều từ vay mượn
Ví dụ: “film”, “sport”, “gas”… trong tiếng Anh, “briosche”, “abatjour” trong tiếng Pháp….
Cộng với việc tiếng Italia là một bộ phận trong ngữ hệ Latinh nên với
những người đã biết một chút về các tiếng khác cùng thuộc ngữ hệ Latinh,
học tiếng Italia thuận lợi hơn rất nhiều.
Học từ vựng không có cách gì khác ngoài việc phải ghi nhớ. Nhưng để học
thuộc từ, ta lại có nhiều phương pháp khác nhau mà tuỳ khả năng của từng
đối tượng mà có thể áp dụng cho phù hợp. Thông thường, người ta dùng cách
học máy móc, tức là có một từ mới thì cố gắng nhắc đi nhắc lại cho đến khi
nhớ. Cách học ấy làm người ta rất nhanh quên. Để học hiệu quả, nên học nhớ
từ một cách tự nhiên, không gượng ép. Người học có thể dán những từ cần
học ở những nơi dễ nhìn nhất để mắt và trí não được thường xuyên tiếp xúc
với từ cần học, hoặc họ có thể đặt từ mới vào một văn cảnh nhất định để học
được cách sử dụng cụ thể của từ, từ đó nhớ từ. Khi đã học được một từ,
người học có thể học luôn các từ cùng gốc, tìm thêm những từ có nghĩa tương
đương, so sánh sự khác nhau giữa chúng. Đối với tính từ, người học cũng có
thể tìm từ trái nghĩa của từ mình vừa học.
Tiếng lóng cũng là một phần quan trọng trong vốn từ vựng. Tiếng
lóng là những từ, ngữ riêng được dùng trong một cộng đồng người nhất định
– dùng những từ, ngữ khác với từ thông thường để diễn đạt một ý tương
đương. Tiếng lóng xuất hiện trong mọi ngôn ngữ và chiếm một phần quan
trọng trong vốn từ vựng của ngôn ngữ đó. Mặc dù tiếng lóng chỉ là những từ,
ngữ của một bộ phận nhỏ người có chung điều kiện, hoàn cảnh tiếp xúc
nhưng việc không biết những từ ngữ lóng cũng gây cản trở trong việc giao
tiếp, mà đặc biệt trong thời gian gần đây, tiếng lóng phát triển rất mạnh trong
giới trẻ. Tất nhiên, tiếng Italia cũng không phải là ngoại lệ. Tiếng lóng trong
tiếng Italia cũng rất phong phú. Với sự phát triển của công nghệ thông tin,
giới trẻ thích dùng những từ viết tắt nhằm đảm bảo sự bí mật và nhanh chóng
khi giao tiếp.
Ví dụ: “S.S” là “senza speranza”
Ngoài ra, ai cũng biết nước Italia rất nổi tiếng với “Mafia”, tiếng lóng
của dân “xã hội đen” cũng chiếm một phần không nhỏ.
Ví dụ: “caruppa” là “cảnh sát”, mà tiếng Việt cũng có một từ lóng
tương đương là “cớm”
Là người học ngôn ngữ, ta khó có thể học hết các từ lóng. Hơn nữa,
trong những hoàn cảnh giao tiếp trang trọng, dùng tiếng lóng là hết sức
bất lịch sự với cả người nghe lẫn người nói. Tuy vậy, do tiếng lóng là
một bộ phận quan trọng trong ngôn ngữ mỗi quốc gia, việc không biết
chút gì về tiếng lóng cũng là một thiếu sót. Học tiếng lóng không phải
quá khó khăn do những từ lóng thường là những từ được dùng nhiều
trong đời sống hàng ngày. Để học được tiếng lóng, người học có thể tra
trong từ điển, hoặc, nếu có điều kiện thì có thể tận dụng tối đa cơ hội
tiếp xúc với người bản xứ, học cách nói của họ để dần dần, thông qua
việc tiếp xúc mà hiểu từ lóng và cách dùng. Mặt khác, do tiếng lóng
không phải là ngôn ngữ chính thức mà thường được dùng như ngôn ngữ
đường phố, vì vậy ta nên hết sức tránh những từ ngữ bậy bạ, khi nói có
thể xúc phạm đến người nghe.
III - Ngữ âm
Vấn đề thứ ba, thường ít được chú ý với những người chú trọng hai kỹ năng
đọc và viết nhưng lại rất quan trọng khi học nghe và nói là vấn đề về trọng
âm, cách phát âm, ngữ điệu.
Trọng âm: Trọng âm là âm được nhấn mạnh trong những từ có từ hai
âm tiết trở lên, giúp phân biệt từ đó với các từ khác có cách đọc giống hoặc
gần giống mà người nghe dễ nhầm. Trong việc nghe nói những đoạn hội
thoại được cấu tạo từ nhiều câu, việc nhấn trọng âm một số âm của một số từ
trong câu giúp người nghe mặc dù không nghe được đầy đủ từng chữ nhưng
cũng có thể hiểu được nghĩa thông qua một số từ quan trọng, một số âm
trong từ được đọc mạnh hơn. Việc đọc nhấn mạnh một số âm nhất định làm
những âm còn lại - những âm không được nhấn - thường bị đọc bé đi, biến
dạng so với cách ghép âm thông thường hoặc thậm chí hầu như không nghe
thấy. Có một số từ giống hệt nhau về cách viết nhưng có nghĩa hoàn toàn
khác nhau do trọng âm cũng rơi vào những âm tiết khác nhau.
Trong tiếng Italia, việc đọc đúng trọng âm cũng rất quan trọng.
Ví dụ: “ves`titi” và “`vestiti” là hai từ giống hệt nhau về cách viết nhưng
nếu ta đọc từ này với trọng âm rơi vào âm tiết đầu, nó là động từ; nhưng nếu
ta đọc từ này với trọng âm rơi vào âm tiết thứ hai, nó sẽ trở thành danh từ.
Tuy vậy, những âm không được nhấn trong từ thường không bị biến
dạng về cách đọc.
Để học trọng âm tốt, người học phải nhớ vỏ phát âm của từ, lúc mới
học có thể khó khăn trong việc nhớ từng từ nhưng khi đã học được một thời
gian, người học có thể tự rút ra một số quy tắc về trọng âm như: trọng âm
thường rơi vài âm tiết thứ hai đứng từ dưới lên.
Tất nhiên, việc đánh trọng âm cũng có một vài trường hợp ngoại lệ như
“solito”, “subito”... Với những trường hợp đặc biệt, không còn cách nào khác
là người học phải ghi nhớ. Những trường hợp này thường là số ít nên có thể
nhớ dễ dàng.
Cách phát âm: Cách phát âm là vỏ âm thanh của từ được thể hiện ra
bằng tiếng nói.
Trước hết, ta phải hiểu cách cấu âm, biết cách phát âm đó trong từng
âm lẻ, khi âm đó đứng trong tổ hợp âm và khi âm đó đứng trong từ.
Ví dụ: cùng một phụ âm nhưng được kết hợp với các nguyên âm khác
nhau thì sẽ được phát âm khác nhau:
- sc + a/o/u: [sc] (scatola, scuola…)
- sc + e/i
: [ ? ] (usire, scena, pesce…)
- gl + i
: [λ ] (foglio, famiglia, moglie…)
- gn
:[?]
(legno, campagna…)
CA CO CU: capo, cuore, cane…
GA GO GU: gatto, gonna, gamba…
CE CI: cibo, cielo…
Tiếng Italia có cách phát âm rất đơn giản. Chỉ cần nắm được một số
cách cấu âm, người học có thể đọc văn bản một cách dễ dàng mà không
cần bất cứ sự hướng dẫn nào. Tuy vậy, do đặc điểm về văn hoá, người
Italia nói rất nhanh nên mặc dù người học nghe nói tiếng Italia có thể
biết cách cấu âm, biết cách đọc tiếng Italia nhưng, với nền văn hoá Việt
Nam là ăn nói chậm rãi, tư duy chậm rãi, người học rất khó theo kịp,
hình dung kịp câu nói của người Italia.
Ngữ điệu: có thể hiểu là trọng âm của câu. Ngữ điệu quyết định rất
nhiều đến giao tiếp. Người tham gia giao tiếp phải nắm vững và thể hiện
đúng ngữ điệu trong những trường hợp khác nhau để đạt được hiệu quả mong
muốn. Ngữ điệu trong câu nói thường có một số quy tắc nhất định mà người
học có thể dễ dàng nhớ như việc lên xuống giọng trong câu, lên giọng vào
những chỗ quan trọng, xuống giọng ở những chỗ ít quan trọng hơn; hay lên
giọng vào cuối câu hỏi nghi vấn… Nói không có ngữ điệu, người nghe rất dễ
hiểu lầm người nói, đặc biệt là những câu hỏi nghi vấn. Thậm chí chỉ trong
một câu nói bình thường nhưng cách nhấn giọng, ngắt câu khác nhau có thể
làm cho người nghe hiểu theo những ý nghĩa khác nhau.
Tiếng Italia nói riêng cũng như tất cả các ngôn ngữ nói chung, ngữ
điệu rất quan trọng. Khác với tiếng Việt, tiếng Anh, câu hỏi nghi vấn trong
tiếng Italia không hề có từ nào đặc biệt biểu thị sự nghi vấn mà chỉ dựa vào
ngữ điệu trong câu, tức là cách lên giọng ở cuối câu
Ví dụ:
Tiếng Việt: Anh đi học hả (ư, à,…)?
Tiếng Anh: Do you go to school?
Nhưng trong tiếng Italia, câu nghi vấn không hề có từ để hỏi hay bất
cứ sự phân biệt nào với câu thông thường ngoài ngữ điệu: Vai a scuola?
Cũng như vậy, với cách ngắt câu khác nhau, người nghe có thể hiểu
lầm ý người nói:
Ví dụ: Ho visto un ragazzino con lo spioncino.
Với câu như vậy, người nói có thể có 2 cách ngắt:
Ho visto un ragazzino – con lo spioncino: Tôi đã nhìn thấy cậu bé qua
ống nhòm.
hoặc: Ho visto - un ragazzino con lo spioncino: Tôi đã nhìn thấy cậu bé cùng
cái ống nhòm.
Luyến âm: là cách nói khi mà âm cuối của từ này liền với âm đầu của từ
khác. Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm nên khi người Việt nói không có
sự luyến âm. Khác với tiếng Việt, một số ngôn ngữ khác, đặc biệt là ngôn
ngữ châu Âu - với đặc điểm là nói nhanh - người ta thường luyến âm khi nói.
Người nói luyến âm làm người nghe rất khó tiếp thu.
IV - Một số khó khăn khác
Ngoài ra, người học nghe nói tiếng Italia còn mặc phải một số khó khăn khác,
tuy không phải là khó khăn chính, nhưng cũng gây cản trở không ít đến việc
nghe nói:
Khó khăn về giọng nói của từng vùng miền: Đây là khó khăn đối
với không chỉ người học tiếng Italia mà là khó khăn của tất cả người học
ngoại ngữ. Cho dù người đó học ngôn ngữ nào, cũng có những cách nói,
giọng nói địa phương mà thậm chí người bản ngữ sống ở vùng khác cũng khó
nghe. Tiếng Italia được chia thành ba vùng miền: tiếng Italia miền Bắc,
Trung và Nam. Với những địa phương khác nhau trong nước, họ không chỉ
có cách nói, giọng nói, từ địa phương khác nhau mà còn có cách chia động từ
khác nhau khiến cho, thậm chí nhiều người Italia ở miền Bắc gần như không
hiểu người Italia ở miền Nam nói gì.
Ví dụ: khi muốn diễn đạt câu: “Che volete?” trong tiếng Italia miền
Bắc, người Sicili nói: “Che vuliti?”
Là người nước ngoài học ngoại ngữ, chúng ta chỉ có thể khắc phục khó khăn
đó bằng cách nâng cao vốn hiểu biết về ngôn ngữ. Tuy nhiên, với người học
ngoại ngữ, ta chỉ nên học theo giọng được người bản ngữ công nhận là
chuẩn, trong tiếng Italia là “tiếng Italia vùng Toscan được nói từ miệng một
người vùng Roman”.
Khó khăn về văn hoá: Văn hoá cũng là một khó khăn rất lớn. Mỗi
quốc gia đều có một lịch sử lâu đời, truyền thống văn hoá lâu đời, ngôn ngữ
cũng rất phong phú. Tiếng Italia cũng vậy, hình thành vào khoảng thế kỷ 14,
cho tới nay tiếng Italia đã có lịch sử khoảng bảy thế kỷ tồn tại và phát triển.
Qua bảy thế kỷ, tiếng Italia đã thay đổi rất nhiều. Văn hoá cũng thay đổi rất
nhiều. Việc không hiểu văn hoá là một thiếu sót rất lớn có thể dẫn đến những
hậu quả mà nhẹ là không hiểu người người khác nói gì, nặng có thể dẫn đến
những hiểu lầm. Vốn văn hoá Italia thường được thể hiện đặc biệt nhiều qua
những câu châm ngôn, tục ngữ, phương ngữ và cả tiếng lóng.
Ví dụ: Khác với người Việt Nam thường dùng “một ít”, “một chút”…, người
Italia rất thích dùng số 4: “quattro chiachiere”: “một vài câu chuyện”, hay
“guardagnare quattro soldi”: “kiếm ít tiền”.
Để khắc phục khó khăn về văn hóa, rõ ràng người học phải tích cực
tìm hiểu về quốc gia đó. Bản thân việc học tiếng đã là một hoạt động tìm hiểu
văn hoá, nhưng nếu muốn nâng cao vốn hiểu biết ngoại ngữ, ta phải nâng cao
hiểu biết về văn hoá và ngược lại. Tìm hiểu về văn hoá, ta có thể tìm hiểu qua
các phương tiện thông tin đại chúng với rất nhiều nguồn phong phú như sách,
báo, đài, phim ảnh, internet… Với tiếng Italia, ở Việt Nam hiện nay còn rất
hiếm các tư liệu, tài liệu nên ta có thể tự tìm trên internet hay tìm hiểu bằng
các bài hát, kênh truyền hình RAI…
Một khó khăn khác, có thể khắc phục tương đối dễ dàng là khó khăn
về việc tư duy ngoại ngữ theo ngôn ngữ mẹ đẻ hoặc theo ngôn ngữ đã
biết. Với bất kỳ người học tiếng nước ngoài nào việc này là không thể tránh
khỏi. Đứng trước một ngôn ngữ hoàn toàn mới mà mình không hiểu thì người
học tất nhiên sẽ phân tích ngôn ngữ ấy theo những ngôn ngữ mình đã biết.
Nhưng khó khăn này không khó khắc phục. Với người bắt đầu học, họ chưa
hình thành một tư duy ngôn ngữ, họ không thể tư duy được ngôn ngữ theo
tiếng mẹ đẻ. Sau khi đã hình thành tư duy ngôn ngữ, tức là khi học đến một
trình độ nhất định, người đó sẽ mắc phải tật này nhưng nó rất dễ khắc phục
bằng cách nâng cao hiểu biết về ngôn ngữ, hiểu biết về văn hoá, từ đó, người
học hình thành lối tư duy theo ngôn ngữ được học.
Với người Việt Nam đã học tiếng Anh, khi chuyển sang học tiếng Italia,
việc tư duy tiếng Italia theo tiếng Anh là chắc chắn, vì Italia và Anh là
hai nước trong châu Âu, văn hoá và ngôn ngữ khá tương đồng. Nhưng,
khác với tiếng Anh - tính từ được đặt trước danh từ - tiếng Italia có tính
từ thường được đặt sau danh từ nhằm bổ nghĩa cho danh từ. Tuy vậy,
người Việt Nam học tiếng Italia có thuận lợi phần nào do tiếng Việt
cũng có tính từ đặt sau danh từ.
KẾT LUẬN
Từ những khó khăn và cách giải quyết đã nêu trên, chúng ta có thể đưa
ra một phương pháp học nghe nói tiếng Italia đơn giản nhất, phù hợp với hầu
hết mọi người:
Về cách học nghe: Người học có thể rèn luyện kỹ năng bằng cách
nghe ngoại ngữ trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng tiếng của
người bản xứ (mà cụ thể ở đây là tiếng Italia), có thể nghe trên kênh RAI là
một kênh truyền hình quốc tế, khi đó phát thanh viên đọc với giọng chuẩn
xác và rõ ràng nhất để người nghe có thể tiếp thu được. Lúc đầu, người học
có thể không hiểu, không nghe rõ thì nên thu băng lại những thông tin đó, rồi
nghe đi nghe lại nhiều lần.
Về cách học nói: Người học nên cố gắng sử dụng tiếng Italia ở mọi
lúc, mọi nơi, không ngại. Nên dùng các băng thời sự mình đã thu được rồi cố
gắng lặp lại theo phát thanh viên để có thể phát âm cho chuẩn, cho lưỡi
“trơn”, cố gắng nói nhanh, theo tốc độ của người bản xứ, lúc đầu có thể
không theo được nhưng dần dần sẽ theo kịp để từ đó, hình thành cách phản
xạ tiếng khi nghe người nước ngoài nói, có thể đáp lại kịp tốc độ của họ. Khi
gặp người nước ngoài, người học nên tìm cách nói đơn giản nhất trong phạm
vi có thể, tránh dùng những cách nói, từ ngữ phức tạp mà mình chưa hiểu hết
ý nghĩa nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp cao.
Khắc phục được những nhược điểm trên, người học tiếng Italia đã có
thể tự tin trong giao tiếp. Người bản ngữ luôn đánh giá rất cao những người
tự tin mặc dù họ nghe nói có thể chưa được tốt. Vì vậy, người học học với
mục đích gì đi chăng nữa họ cũng đã có những thành công bước đầu. Mặt
khác, người học luôn phải thường xuyên nâng cao hiểu biết ngôn ngữ nhằm
đạt đến trình độ cao trong giao tiếp.
Bài báo cáo trên là sự tổng hợp dựa trên những nghiên cứu, điều tra về
phương pháp học tập để từ đấy, người học có cơ sở bước đầu để học tốt hai
kỹ năng nghe nói tiếng Italia. Dựa trên phương pháp đã được nêu ra, người
học có thể phát triển thêm nhiều lựa chọn về phương pháp học sao cho phù
hợp nhất với bản thân.