Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Nghiên cứu sự phân bố, gây hại của RUỒI ĐỤC QUẢ (Diptera:Tephritidae), đặc điểm hình thái, sinh học của B. carambolae và B. tau cũng như sự liên hệ di truyền của loài B. carambolae và B. tau với các loài RĐQ phổ biến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 27 trang )

1
MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Tại Việt Nam, theo Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, năm 2010,
diện tích cây ăn quả đã lên đến 380.000 ha, năng suất bình quân đạt 10 tấn/ha và
rau ăn quả có diện tích 50.270 ha, năng suất bình quân đạt 21 tấn/ha (Cục trồng
trọt, 2010). Nhìn chung, năng suất bình quân của các loại cây và rau ăn quả tại Việt
Nam nói chung và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng còn rất thấp.
Cũng như nhiều nước trong khu vực, sản xuất cây và rau ăn quả tại Việt Nam
thường xuyên bị đe dọa bởi nhiều loài dịch hại, trong đó quan trọng nhất là nhóm
ruồi đục quả (Diptera: Tephritidae). Sự thất thu năng suất do ruồi đục quả (RĐQ)
gây ra ước tính biến động từ 30-100% (Dhillon và ctv., 2005). Khảo sát của Viện
Cây Ăn Quả miền Nam (2001) trên bốn loại quả xoài, ổi, mận và khổ qua tại vùng
ĐBSCL ghi nhận tỷ lệ quả bị thiệt hại do nhiễm RĐQ rất cao, với tỷ lệ nhiễm trên
xoài, ổi, mận và khổ qua lần lượt là 12%, 94%, 76,33% và 30%. Drew và ctv.,
(2001) đã phát hiện được 29 loài RĐQ tại Việt Nam, trong đó có 7 loài gây hại
quan trọng, bao gồm Bactrocera dorsalis, B.correcta, B.latifrons, B.pyrifoliae, B.
cucurbitae, B.tau và B.carambolae. Riêng hai loài B. latifrons, B. pyrifoliae không
hiện diện ở miền Nam. Mặc dù đã được ghi nhận hiện diện tại Việt Nam và cũng
được ghi nhận gây hại quan trọng trên nhiều loại cây và rau ăn quả trên thế giới
(Hasyim và ctv., 2008), nhưng tại Việt Nam, các nghiên cứu và khảo sát về 2 loài
B. carambolae và B. tau rất giới hạn, gần như không có. Hầu hết các công trình
nghiên cứu về RĐQ ở Việt Nam chỉ tập trung trên các loài như B. dorsalis, B.
cucurbitae và B. correcta, đặc biệt là trên B. dorsalis.Vì vậy, đề tài nghiên
cứu:‘‘Đặc điểm sinh học của hai loài ruồi đục quả Bactrocera carambolae Drew
& Hancock và Bactrocera tau Walker (Diptera: Tephritidae) vùng đồng bằng
sông Cửu Long và biện pháp phòng trừ ruồi đục quả trước và sau thu hoạch’’
đã được thực hiện.
2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu sự phân bố, gây hại của RĐQ (Diptera:Tephritidae), đặc điểm hình
thái, sinh học của B. carambolae và B. tau cũng như sự liên hệ di truyền của loài


B. carambolae và B. tau với các loài RĐQ phổ biến, đồng thời nghiên cứu áp dụng
mô hình IPM trong đó sử dụng Sofri protein là chủ đạo để quản lý RĐQ. Bên cạnh


2
đó, đề tài cũng nghiên cứu xác định hiệu quả (nhiệt độ và thời gian) cần thiết cho
quy trình xử lý nhiệt để phòng trừ RĐQ sau thu hoạch.
3 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Ruồi đục quả B.carambolae và B. tau trên cây và rau
ăn quả tại vùng ĐBSCL.
3.2 Phạm vi nghiên cứu: Thành phần loài RĐQ, sự phân bố, gây hại và sinh học
của B. tau và B. carambolae; biện pháp quản lý RĐQ. Hoàn thiện chế phẩm protein
thủy phân (Sofri protein), xây dựng mô hình IPM để quản lý RĐQ và xác định hiệu
quả (nhiệt độ, thời gian) xử lý nhiệt để xử lý RĐQ sau thu hoạch.
4 Những đóng góp mới của luận án
- Phân loại hai loài B. carambolae và B. tau bằng phương pháp sinh học phân tử,
làm cơ sở cho công tác phân loại các loài ruồi mới tại Việt Nam; Xác định được sự
phân bố, ký chủ và sự gây hại của B. carambolae và B. tau tại vùng ĐBSCL; Bổ
sung được nhiều số liệu có liên quan đến các đặc điểm hình thái, sinh học của B.
carambolae và B. tau như thời gian phát triển của các giai đoạn phát dục, sự sinh
sản, sống sót và tác động của thức ăn; Hoàn thiện chế phẩm protein thủy phân
(Sofri protein) từ bả hèm bia để phòng trừ hiệu quả ruồi đục quả (cả thành trùng
đực và thành trùng cái); Xác định được kỹ thuật sử dụng hiệu quả protein thủy
phân trong điều kiện ngoài đồng; Xây dựng thành công mô hình IPM để quản lý
RĐQ tại vùng ĐBSCL. Mô hình đã được ứng dụng thành công trên nhiều vườn
xoài, thanh long, khổ qua và sơ ri tại ĐBSCL; Cung cấp bổ sung nhiều thông tin
khoa học có liên quan đến tác động của nhiệt đến sự sống sót của ruồi đục quả trên
quả xoài tại Việt Nam, góp phần hoàn thiện quy trình xử lý nhiệt để phòng trừ ruồi
đục quả sau thu hoạch.
5 Cấu trúc của luận án

Luận án gồm 185 trang, được chia thành 3 chương và 2 phần (Mở đầu và
kết luận - đề nghị) với 55 bảng, 44 hình, 42 phụ lục. Có 203 tài liệu tham khảo
được sử dụng.


3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Cơ sở khoa học của đề tài
Ruồi đục quả (Diptera: Tephritidae) là nhóm đối tượng gây hại rất quan trọng
tại nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Có khoảng 70 loài ruồi đục quả
đã được ghi nhận là gây hại quan trọng trong nông nghiệp (White và Elson-Harris,
1992). Sự thất thu năng suất do RĐQ gây ra ước tính biến động từ 30-100%
(Dhillon và ctv., 2005). RĐQ không chỉ làm thất thu năng suất trên đồng ruộng, gia
tăng chi phí phòng trừ, mà còn làm gia tăng chi phí cho xuất khẩu do phải xử lý quả
sau khi thu hoạch. Các kết quả đánh giá của Viện Cây Ăn Quả miền Nam về thiệt
hại do ruồi đục quả gây ra cho 4 loại quả ở Tiền Giang năm 2001 ghi nhận tỷ lệ
nhiễm RĐQ trên xoài, ổi, mận và khổ qua lần lượt là 12%, 94%, 76,33% và 30%
(Huỳnh Trí Đức và ctv., 2001). Nghiên cứu của Drew và ctv. (2001) cho thấy có 29
loài thực vật ở miền Bắc và 26 loài ở miền Nam Việt Nam bị RĐQ gây hại. Theo
Nguyễn Hữu Đạt (2011), trái cây muốn xuất sang thị trường nhiều nước phải qua
các hệ thống xử lý như chiếu xạ, nhiệt lạnh, hoá chất và phải được kiểm tra chặt
chẽ bởi hệ thống kiểm dịch thực vật.
1.2 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.2.1 Bactrocera carambolae và B.tau: B. tau được ghi nhận không những gây hại
trên các loại rau quả thuộc họ Cucurbitacae mà loài này còn gây hại trên một số
loại thực vật khác tại Đông Nam Châu Á (Allwood và ctv.,1999). Một số đặc điểm
hình thái, sinh học của B. carambola và B. tau đã được mô tả bởi Singh và ctv.
(2010) và CABI, 2011 và Singh và ctv. (2010).
1.2.2 Nghiên cứu về di truyền RĐQ (Diptera: Tephritidae): Một số nghiên cứu
về di truyền của RĐQ đã được khảo sát bởi Han và ctv. (2002); Muraji & Nakahara

(2001, 2002). Từ kết quả nghiên cứu của Han (2000), các marker rDNA hữu dụng
cho các nghiên cứu về di truyền của ruồi đục quả đã được thiết lập.Tuy nhiên,
marker phân tử này cũng không thể xác định được sự khác biệt loài đặc biệt là ở
các chi có nhiều sự phức tạp trong loài như nghiên cứu của McPheron & Han
(1997). Muraji & Nakahara (2001) cũng sử dụng trình tự mt rDNA chuyên biệt để
xác định mối quan hệ di truyền giữa các loài ruồi đục quả chi Bactrocera nhưng
không thể phân biệt được các loài có mối quan hệ di truyền rất gần nhau.
1.2.3 Tác động của thức ăn đến RĐQ: Drew và Hancock (2000) đã xác định ảnh
hưởng mùi vị và màu sắc của quả ký chủ đến việc chọn địa điểm đẻ trứng của


4
RĐQ. Các nghiên cứu của Craig (1960) và Christensen và Foote (1960) cho thấy
hầu hết các loại thức ăn thích hợp với RĐQ có chứa carbohydrates, amino axít,
vitamin và khoáng. Jacobi và ctv.(2000) ghi nhận thời gian hoàn tất giai đoạn ấu
trùng của RĐQ chịu tác động bởi ký chủ.
1.2.4 Các biện pháp phòng trừ RĐQ: a. Sử dụng giống kháng: Agus Susanto và
ctv.(1971) ghi nhận giống xoài Gedong có tính chống chịu với loài B.dorsalis.
Khandelwal và Nath (1978) đã nghiên cứu lai tạo giống dưa hấu Citrullus lanatus
(Thunb) chống chịu tốt với loài ruồi D. cucurbitae. b. Biện pháp vệ sinh đồng
ruộng: Ghi nhận của Allwood (1966) cho thấy ở Fiji khi thu nhặt những quả
Cumquat (Fortunella japonica Thunb.) rụng thì tỉ lệ quả bị hại do ruồi B.
passiflorae Froggat là 35% trong khi tỉ lệ đó ở những quả hái trên cây thì chỉ là 7%;
c. Biện pháp thu hoạch quả sớm: Theo Viyayseragan (1989), biện pháp này chỉ
có ý nghĩa đối với các loại quả, thu trái xanh nhưng chất lượng khi chín không bị
ảnh hưởng hoặc phải gấm thì mới chín được; d. Biện pháp hóa học: Heather
(1994) ghi nhận DDT được sử dụng để trừ RĐQ ngay sau chiến tranh thế giới thứ
2, và gần đây thuốc fenthion và nhóm thuốc pyrethroid đã được sử dụng để trừ ruồi
trưởng thành. Sau này, các nhà vườn còn sử dụng thêm các loại thuốc gốc thuốc
phospho hữu cơ dạng lưu dẫn và Dimethoate ở nồng độ 0,2% để phun lên bề mặt

quả. Theo thống kê của FAO (1986)[76], việc sử dụng các biện pháp hoá học để
phòng trừ ruồi hại quả là biện pháp khá phổ biến ở nhiều nước châu Á; e. Dẫn dụ
bằng các chất protein: Biện pháp dẫn dụ RĐQ bằng protein đã được nghiên cứu
bởi nhiều tác giả như Steiner (1952); Vickers (1996), Leweniquila và ctv. (1997) và
Allwood (1996).
1.2.5 Mô hình IPM quản lý RĐQ: Vargas và ctv.(2007) đã đưa ra chương trình
phòng trừ ruồi đục quả (C. capitata, B. dorsalis, B. cucurbitae và B. latifrons) trên
diện rộng ở Hawaii. Theo MacGregor (2005) mô hình IPM đã làm tăng thu nhập từ
rau quả lên 2,6 triệu USD và năm 2007 là 3,5 triệu USD tại Hawaii.
1.3 Tình hình nghiên cứu trong nước
1.3.1 Sự phân bố, thành phần loài và sự gây hại của RĐQ: Đã được khảo sát
trong các năm 1967 - 1968 và 1977 - 1978 bởi Viện Bảo vệ thực vật và bởi dự án
FAO “Quản lý ruồi hại quả ở Việt Nam” TCP/VIE/8823 (A), dự án ACIAR “Quản
lý ruồi hại quả nhằm tăng cường sản xuất quả và rau ở Việt Nam” CS/1998/005 và
các nghiên cứu của Drew, Hà Minh Trung, Lê Đức Khánh và ctv. (2000), hầu hết
các kết quả nghiên cứu này được thực hiện tại miền Bắc.


5
1.3.2 Nghiên cứu về đặc điểm sinh học: Một số đặc điểm sinh học của 3 loài
B.dorsalis B.cucurbitae và B. correcta đã được khảo sát bởi Nguyễn Hữu Đạt và
ctv. (2000 và 2004); Huỳnh Trí Đức và ctv. (2001) và Nguyễn Như Cường (2002).
1.3.3 Nghiên cứu về phòng trừ: Phòng trừ RĐQ tại miền Bắc bằng bả Protein đã
được thực hiện bởi Nguyễn Như Cường (2002) và Lê Đức Khánh và ctv. (2005).
1.3.4 Xử lý nhiệt RĐQ sau thu hoạch: Xử lý nhiệt để phòng trừ RĐQ sau thu
hoạch đã được khảo sát trên xoài bởi các tác giả như Sharp (1986); Sharp và ctv.
(1989); Martinez (990) và Spalding và ctv. (1988) trên các giống xoài như Tommy
Atkins, Keitt, Oro, Kentt, Francis, Haden, Ataulfo.
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM
2.1 Nội dung nghiên cứu

2.1.1 Sự gây hại và thành phần loài ruồi đục quả (RĐQ) tại vùng ĐBSCL
2.1.2 Sự phân bố, gây hại của Bactrocera(B) carambolae và Bactrocera(B) tau
2.1.3 Các đặc điểm hình thái và sinh học của loài B. carambolae và B. tau
2.1.4 Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả của các biện pháp phòng trừ RĐQ trước thu
hoạch
2.1.5 Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả của các biện pháp xử lý nhiệt để phòng trừ
RĐQ sau thu hoạch
2.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1 Địa điểm: Các vườn cây ăn quả tại Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Đồng
Tháp và tp. Cần Thơ - Viện công nghệ sinh học, ĐHCT và Viện Cây Ăn Quả miền
Nam.
2.2.2 Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 năm 2005 đến tháng 12 năm 2010.
2.3 Vật liệu và phương tiện
Bao gồm các nhóm vật liệu, phương tiện phục vụ cho điều tra thu thập mẫu và số
liệu; khảo sát, đánh giá sự phân bố, mức gây hại và phân loại RĐQ; Protein thủy phân;
thí nghiệm phòng trừ,…Các nhóm vật liệu, phương tiện trên đều dễ tìm hay sẵn có tại
các Viện, Trường và đơn vị hợp tác nghiên cứu, dịch vụ phân tích.


6
2.4 Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Sự gây hại và thành phần loài ruồi đục quả (RĐQ) vùng Đồng bằng sông
Cửu Long: Thực hiện tại Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp và tp. Cần
Thơ.
2.4.1.1 Sự gây hại của các loài ruồi đục quả (RĐQ): Sử dụng phương pháp: a.
Điều tra nông dân, và điều tra trực tiếp trên 620 vườn xoài, 410 vườn thanh long,
và 96 ruộng khổ qua. b. Sử dụng các loại bẫy hấp dẫn (methyl eugenol (2-butanol
1,4 hydroxyphenyl acetate) và cue-lure (4-allyl 1,2 dimethoxy benzen)) và phân
tích trực tiếp trên quả.
2.4.1.2 Phương pháp xác định thành phần loài RĐQ: Dựa vào: (a) Đặc điểm hình

thái: mô tả hình thái dưới kính lúp MBC1, độ phóng đại 7 x 8, kết hợp khoá phân
loài của Drew và Hancock (1994). (b) Sử dụng sinh học phân tử để phân tích trình
tự vùng gen cytochrome oxydase II (COII) của DNA ty thể (mitochondria DNA)
của RĐQ.
2.4.2 Sự phân bố, gây hại của B. carambolae và B. tau
2.4.2.1 Sự phân bố của Bactrocera carambolae và B. tau: Sử dụng chất dẫn dụ
methyl eugenol để khảo sát sự phân bố của B. carambolae và bẫy có chất dẫn dụ
cue-lure để khảo sát sự phân bố của B. tau. Đối với mỗi loài RĐQ khảo sát, bẫy
được đặt trên 8 điểm trồng cây ăn quả các loại thuộc 4 tỉnh và tp. với 10 bẫy/tỉnh.
Khảo sát từ 1/2008-12/2008. Ghi nhận số lượng loài RĐQ vào bẫy dẫn dụ.
2.4.2.2 Biến động mật số trong năm của B. carambolae và B. tau: Sử dụng các
chất dẫn dụ methyl eugenol và cue-lure để theo dõi về biến động số lượng RĐQ
trên các vườn xoài và khổ qua.
2.4.2.3 Ký chủ và mức độ gây hại của B. carambolae và B. tau: Khảo sát trên 21
loại cây và rau quả thuộc 4 tỉnh và tp như Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Đồng
Tháp và tp. Cần Thơ (mục 2.2.2). Phân tích ngẫu nhiên 100 quả / loại cây / tỉnh để
đánh giá mức độ nhiễm ruồi, mùa vụ thu hoạch của hầu hết các loại cây ăn quả và
rau ăn quả ở ĐBSCL. Chỉ tiêu ghi nhận: Sự hiện diện B. carambolae và B. tau trên
quả; tỷ lệ quả nhiễm ruồi trên mỗi chủng loại cây ăn quả và rau ăn quả.
2.4.3 Đặc điểm hình thái và sinh học của B. carambolae và B. tau: Nuôi trong
điều kiện tự động (T0C= 26± 1; H%=70± 10) trên thức ăn nhân tạo (phương pháp


7
của Waddell, 2005). Qua nuôi ruồi, khảo sát các đặc điểm hình thái và sinh học có
liên quan đến vòng đời, sự sinh sản và đẻ trứng.
2.4.4 Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả của các biện pháp phòng trừ RĐQ trước
thu hoạch
* Đánh giá hiệu quả của một số biện pháp phòng trừ RĐQ theo nông dân và bố trí
thí nghiệm ngoài đồng. Các kiểu bố trí, số nghiệm thức và số lần lặp lại được lựa

chọn theo từng nội dung cụ thể.
* Hiệu quả hấp dẫn của các loại protein đối với RĐQ: Thí nghiệm được thực hiện
trong điều kiện phòng thí nghiệm, theo phương pháp của Waddell (2005).
* Nghiên cứu áp dụng IPM trên diện rộng: Dựa trên hiệu quả đối với RĐQ của một
số kỹ thuật canh tác của nông dân và các thí nghiệm riêng lẽ trong phòng thí
nghiệm và ngoài đồng, nghiên cứu hiệu quả của mô hình IPM đối với RĐQ trên
các vườn xoài, thanh long và khổ qua.
2.4.5 Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả của các biện pháp xử lý nhiệt để phòng
trừ RĐQ sau thu hoạch: Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả của các biện pháp xử lý
nhiệt được thực hiện nhằm kiểm tra khả năng diệt trứng và ấu trùng của RĐQ trong
quả xoài bằng 2 hai thiết bị xử lý hơi nóng và ngâm nước nóng theo phương pháp
của Waddell, 2005 [192]. Qua nghiên cứu khả năng chống chịu nhiệt của trứng và
ấu trùng của loài B.carambolae và B.dorsalis cùng ký chủ trên trái xoài cát Hòa
Lộc (ở mục 2.4.3). Luận án chọn ra loài ruồi đục quả có tính chịu nhiệt mạnh nhất
tiếp tục các thí nghiệm xử lý nhiệt diệt RĐQ sau thu hoạch.
2.5 Phương pháp tính toán và phân tích thống kê
Sử dụng phần mềm Excel tính toán các hệ số: CV, Sd, TB ± Sd của số liệu
điều tra và phần mềm SAS phân tích thống kê cho kiểu thí nghiệm hoàn toàn ngẫu
nhiên; kiểm định “t” test hoặc Chi-square.
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Sự gây hại và thành phần loài ruồi đục quả tại vùng đồng bằng sông Cửu
Long
3.1.1 Sự gây hại của các loài ruồi đục quả tại ĐBSCL: RĐQ nhiễm trên tất cả
các loại quả khảo sát, với tỷ lệ quả nhiễm biến động từ 6,2 % (đậu đũa) đến 94%


8
(mận). Quả bị nhiễm RĐQ nặng nhất là ổi, mận, táo với mức độ nhiễm lần lượt là
94,0; 92,0 và 74,4%. Quả có tỷ lệ nhiễm ruồi thấp là cam, đu đủ, nhãn và đậu đũa.
* Mức độ nhiễm và thời điểm gây hại của RĐQ trong năm: Tỷ lệ nhiễm ruồi trên

xoài: Ở cả bốn thời điểm thu hoạch (tháng 1,3, 6 và 11 dl), xoài đều bị nhiễm RĐQ
với tỷ lệ nhiễm biến động từ 1,5% đến 25,8%. Thời điểm thu hoạch tháng 6 dl có tỷ
lệ quả nhiễm ruồi cao nhất (25,8%); Tỷ lệ nhiễm ruồi trên Thanh Long: Kết quả
cho thấy ở các thời điểm thu hoạch, thanh long đều bị nhiễm ruồi, tỷ lệ nhiễm trung
bình biến động từ 2% đến 23,5%. Thu hoạch vào tháng 6 dl có tỷ lệ quả nhiễm ruồi
cao nhất, đạt 21,60 % (năm 2005); Tỷ lệ nhiễm ruồi trên khổ qua: Ở cả 3 thời điểm
thu hoạch (tháng 1 dl, 3 dl và tháng 10 dl), khổ qua đều bị nhiễm ruồi nhiễm đục
quả. Thu hoạch ở tháng 10 dl có tỷ lệ quả nhiễm ruồi cao nhất (13,80 %)(năm
2005).
3.1.2 Thành phần ruồi đục quả và sự khác biệt về hình thái
3.1.2.1 Thành phần loài RĐQ và ký chủ: Kết quả khảo sát trên 9000 mẫu quả ghi
nhận có 5 loài ruồi đục quả hiện diện, bao gồm: B.dorsalis, B.correcta, B.
carambolae, B. cucurbitae và B. tau. B. dorsalis là loài có phổ ký chủ rộng, với 17
loại quả, B. correcta gây hại trên 12 loại quả, B. cucucurbitae gây hại trên 8 loại
quả, B. carambolae gây hại trên 6 loại quả và B. tau gây hại trên 5 loại quả.
3.1.2.2 Sự khác biệt về hình thái giữa các loài RĐQ: Kết quả khảo sát về hình
thái của 5 loài RĐQ ghi nhận các loài này có hình thái khá giống nhau nhưng giữa
các loài cũng có một số khác biệt về kích thước cơ thể và cấu trúc gân cánh. Loài
có kích thước nhỏ nhất là loài B. correcta (6,27±0,15mm) và loài có kích thước lớn
nhất là B. cucurbitae (9,62 ± 0,22mm). Ngoài kích thước và sự khác biệt về cấu tạo
cánh thì một số đặc điểm hình thái khác cũng được sử dụng bổ sung để phân biệt 5
loài RĐQ như màu sắc cơ thể, sự hiện diện của đốm đen ở chân râu và sự hiện diện
của đốm màu nâu đen đậm, đốt ở đốt chày chân giữa của con cái và màu sắc của cơ
thể.

1mm


9
Bảng 3.1. Một số đặc điểm về hình thái của RĐQ ở ĐBSCL


Loài ruồi

Chiều dài trung bình
(mm)
Thân

B. carambolae

B. tau

B. dorsalis

B. correcta

B. cucurbitae

8,89±0,11
(8,70-9,10)

9,44±0,16

Cánh

6,48±0,03
(6,39-6,52)

6,73±0,06

(9,05-10,07) (6,61-6,83)


7,56 ±0,14
(7,0-8,30)

6,14 ±0,05
(6,0-6,20)

6,27 ±0,15

5,12 ±0,03

(6,20-6,80)

(5,0-5,20)

9,62 ±0,22
(8,40-10,0)

Cấu tạo cánh

Dọc mạch gân phụ mép
trước có vệt mờ kéo dài
đến mạch R2+3 và lan
rộng qua đỉnh mạch
R4+5.

Dọc mép trước mạch
gân phụ có vệt vàng
ngang qua đỉnh R2+3 lan
rộng và tạo đốm lớn qua

đỉnh mạch R4+5. Mạch
dọc có khuỷu hẹp

Băng màu sườn cánh có
màu đen sậm kéo đến
gân R2+3 và từ đó hơi
phình ra đến gân R4+5 .

Dọc mép trước gân phụ
có vệt mờ kéo dài đến
mạch R2+3 và lan rộng
hơn qua đỉnh mạch R4+5.

6,12 ±0,02 Những gân cánh đi
ngang qua r-m có vệt
(6,0-6,20)
đen đậm


10
3.1.2.3 Kết quả phân loại hai loài RĐQ B. carambolae và B. tau bằng phương
pháp sinh học phân tử: Qua kiểm tra bằng phương pháp đo độ hấp thụ quang phổ
và kiểm tra trên gel agarose 0,8%, ghi nhận nồng độ DNA của các loài RĐQ khảo
sát biến động trong khoảng 10-400ng/µl. Độ tinh sạch hầu hết nằm trong khoảng
1,9-2,0, chứng tỏ DNA thu được đạt độ tinh sạch cao. Từ 39 mẫu ruồi được trích
DNA, tiếp tục chọn ra 15 mẫu ruồi đã tách chiết DNA có nồng độ cao để giải trình
tự các gen ở vùng COII thuộc mtDNA để xác định B. tau và B. Carambolae và mối
liên hệ di truyền giữa các loài RĐQ hiện diện phổ biến ở ĐBSCL. Các mẫu có ký
hiệu 3, 7, 8 được thu thập trên khổ qua; mẫu 22, 24, 27, 29, 30, 31, 33, 35, 36, 37,
38, 39 được thu thập trên quả ổi. 15 mẫu DNA có nồng độ cao này, được sử dụng

trong phản ứng PCR với hai cặp mồi mtD13 và mtD20.
* Phân tích khác biệt trình tự DNA trên gien đích COII giữa các giống và loài:
Trong 15 mẫu phân tích, có tới 12 mẫu thu trên ký chủ ổi thuộc giống Bactrocera
hoặc phức hợp B. dorsalis; trong khi chỉ có 3 mẫu thuộc giống Dacus nhiễm trên
khổ qua.

Hình 3.1. Cây chủng loại của 15 mẫu ruồi và 6 trình tự đã được công bố, số
trên các nhánh cây là giá trị Bootstrap được phân tích với 1000 lần nhắc lại.
(Ghi chú: Thứ tự 22, 24, 27, 29, 30, 31, 33, 35, 36, 37, 38, 39 các mẫu RĐQ thu trên trái ổi;
thứ tự 3,7,8 các mẫu thu trên trái khổ qua); Tên các loài RĐQ hiện diện hình trên ngân
hàng gien)

Các mẫu 3, 7, 8 thuộc giống Dacus, trong đó mẫu 8 gần với loài B. tau; hai
mẫu 3 và 7 cùng nhánh với loài B.cucubitae. Hai loài B.tau và B.cucurbitae có


11
khoảng cách di truyền tin cậy (99-100%). 12 mẫu trong nghiên cứu này với 3 mẫu
đã được công bố công bố B.dorsalis, B.carambolae và B.correcta thuộc giống
Bactrocera với haplotype có các nucleotit đặc trưng ATCTCATTACT tại 11 điểm
đột biến trên gien đích.

A

B

Hình 3.2. (A): Mười một điểm đột biến đặc trưng dọc trình tự đoạn ADN 488bp trên gien
COII để phân biệt 2 giống ruồi đục quả Bactrocera và Dacus. Các dấu (.): là các nucleotit
giống với các đột biến điểm của B. dorsalis. Các số 128-396 là vị trí các đột biến điểm.(B):
Điểm đột biến đặc trưng dọc trình tự đoạn ADN 488bp trên gien COII để phân biệt 2 loài

ruồi đục quả B. tau và B.cucurbitae. Các dấu (.): là các nucleotit giống với các đột biến điểm
của B. tau. Các số 114-474 là vị trí các đột biến điểm.

Trong khi các mẫu 3, 7, 8 và 3 loài đã công bố D. vertebratus, B.tau và
B.cucurbitae thuộc giống Dacus vì haplotype đặc trưng tại cùng 11 điểm đột biến
trên đoạn gien đích với giống Bactrocera lại là TCTATTCCTTA. Ở mức độ xác
định loài, 2 loài B.tau và B cucurbitae có khác biệt di truyền tới 99-100%, vì trình
tự đoạn DNA 488bp trên gien COII giữa chúng có tới 15 điểm đột biến đặc trưng.
Như vậy haplotype đặc trưng trên gien đích COII để xác định loài B. tau là
ATATTTATTTCTGAT. Trong khi trình tự tại cùng 15 điểm trên đoạn gien đích là
haplotype đặc trưng của loài B.cucurbitae thứ tự là GCGCCCGCCTCACC.
* Phân tích tương đồng trình tự ADN trên gien đích COII giữa các loài: Mẫu 37,
38, 36, 31, 30 tương đồng từ 97-99% so với loài B.carambolae theo số đăng ký trên
ngân hàng gen AB192420. Mẫu 33 và 39 có mức độ tương đồng 99,2% so với loài
B.dorsalis theo số đăng ký trên ngân hàng gen AB090272. Mẫu 8 đã tương đồng từ
99,39% so với loài B.tau theo số đăng ký trên ngân hàng gen AB192461. Mẫu 3 và
7 tương đồng khoảng 98,81% so với loài B. cucurbitae theo số đăng ký trên ngân
hàng gen EU926790.


12
3.2 Sự phân bố, gây hại của B. carambolae và B. tau
3.2.1 Sự phân bố của Bactrocera carambolae và B. tau: Hai loài RĐQ này có khả
năng phân bố rộng ở nhiều nơi trên thế giới. Có nhiều yếu tố tác động đến sự phân
bố của RĐQ như nguồn thức ăn và các yếu tố khác của môi trường.
3.2.1.1 Ruồi B. carambolae : Để khảo sát về sự phân bố của B.carambolae, luận án
sử dụng bẫy dẫn dụ có methyl eugenol để hấp dẫn RĐQ. Bẫy được đặt trên 8 điểm
trồng cây ăn quả các loại thuộc 4 tỉnh và tp, với 10 bẫy/tỉnh. Do methyl eugenol có
khả năng hấp dẫn nhiều loài RĐQ khác nhau nên trong khảo sát về sự phân bố của
B. carambolae, đề tài kết hợp khảo sát sự phân bố của các loài RĐQ phổ biến khác.

Kết quả ghi nhận sự hiện diện của 3 loài RĐQ trên bẫy methyl eugenol, bao gồm
B. dorsalis, B.correcta và B. carambolae. Trong đó B. dorsalis chiếm tỷ lệ hiện
diện cao nhất (78,09%), kế đến B.correcta (18,44%)và thấp nhất B.carambolae
(3,45%). Kết quả khảo sát cũng cho thấy mặc dù mật số hiện diện khá thấp so với
B. dorsalis và B. correcta, nhưng loài B. carambola cũng được ghi nhận hiện diện
trên khắp các địa bàn khảo sát tương tự như B. dorsalis và B. correcta. Kết quả
khảo sát cho thấy B. carambolae hiện diện khắp địa bàn khảo sát từ tỉnh Tiền
Giang, Bền Tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp đến tp. Cần Thơ. Mật số ruồi vào bẫy rất
cao ở Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp trong khi Vĩnh Long mật số ruồi vào bẫy
thấp có thể do vùng này chủ yếu trồng độc canh các loại cây ăn quả như xoài, bưởi,
cam sành, nhãn... .Trong khi đó thì 3 địa bàn khảo sát Tiền Giang, Bền Tre, Đồng
Tháp và tp. Cần Thơ, hầu hết các vườn khảo sát có trồng xen nhiều loại cây ăn quả
khác nhau đặc biệt xen khế, ổi, mận.
3.2.1.2 Ruồi B. tau: Để khảo sát về sự phân bố của B. tau, luận án sử dụng bẫy có
parapheromon cue-lure. Bẫy được đặt trên 10 điểm trồng rau ăn quả chuyên canh
thuộc Tiền Giang và tp. Cần Thơ với 10 bẫy/tỉnh. Kết quả ghi nhận trên vùng trồng
rau ăn quả có 2 loài ruồi hiện diện, B. cucurbitae hiện diện với tỷ lệ rất cao
(97,97%), loài B. tau chỉ chiếm tỷ lệ hiện diện 2,03%. Kết quả khảo sát cũng cho
thấy B.tau mật số vào bẫy thấp so với B. cucurbitae, nhưng loài B. tau cũng đã
được ghi nhận thường xuyên hiện diện trên các địa bàn trồng khổ qua khảo sát tại
Tiền Giang và tp. Cần Thơ.
3.2.2 Biến động mật số trong năm của B. carambolae và B. tau
3.2.2.1 Ruồi B. carambolae : Khảo sát được thực hiện tại 2 địa bàn: một địa bàn
trồng xoài thuộc xã Hòa Hưng - huyện Cái Bè và một địa bàn trồng thanh long


13
thuộc xã Long Bình Điền - huyện Chợ Gạo. Vườn xoài được trồng độc canh xoài
trong khi đó vườn thanh long được trồng xen mận và ổi. Bẫy được đặt từ tháng
7/2008 đến tháng 7/2009. Kết quả khảo sát ghi nhận ở cùng một thời điểm khảo sát,

số lượng B. carambolae vào bẫy trên các vườn thanh long cao hơn rõ nét so với các
bẫy đặt tại vườn xoài. Trên vườn thanh long mật số cao nhất lên đến 97con/bẫy,
trong khi đó thì trên các vườn xoài mật số cao nhất của B. carambolae cũng chỉ đạt
được 7 con / bẫy. Kết quả điều tra cho thấy các vườn thanh long hầu hết đều bị
nhiễm ruồi nặng do các vườn này trồng nhiều loại cây là ký chủ của B. carambolae
như khế, ổi, và vườn không được vệ sinh, chăm sóc, trong khi đó ở xã Hòa Hưng huyện Cái Bè, các vườn xoài điều tra rất ít bị nhiễm B. carambolae, các vườn này
thường xuyên được làm vệ sinh qua tiêu hủy các quả cây bị nhiễm ruồi. Trên các
vườn xoài, mật số rất thấp trong suốt thời gian điều tra từ 7/2008 đến 7/2009, trái
lại trên vườn thanh long, mật số ruồi đục quả đều rất thấp ở các thời điểm từ tháng
7/2008 đến tháng 2/2009, nhưng sau đó mật số gia tăng từ tháng tháng 3 đến
6/2009, đạt đỉnh cao vào tháng 6/2009, đây thời điểm thu hoạch rộ của nhiều loài
cây ăn quả và thanh long.
3.2.2.2 Ruồi B. tau : Khảo sát sự biến động về số lượng ruồi B. tau được thực hiện
xã Bình Phục Nhất - huyện Chợ Gạo qua phương pháp sử dụng bẫy cue-lure. Bẫy
cũng được đặt từ tháng 7/2008 đến tháng 7/2009. Kết quả khảo sát ghi nhận mật số
B. tau rất thấp trong thời gian từ tháng 7/2008 đến tháng 12/2008, có tháng gần như
không phát hiện có sự hiện diện của B. tau trong các bẫy khảo sát. Cũng tương tự
như ruồi B.carambolae, mật số của B. tau gia tăng từ tháng 1/2009 đến tháng
7/2009. Mật số cao nhất của B. tau vào bẫy là 35 con/bẫy vào tháng 7dl.
3.3 Hình thái và sinh học của B. carambola và B. tau
3.3.1 Ruồi B. carambolae:
a. Đặc điểm hình thái và thời gian phát triển: *Trứng: Màu trắng, thon dài với
chiều dài trung bình là 1,12 mm. Trứng được đẻ riêng lẽ hoặc thành ổ với khoảng
1- 6 trứng. Thời gian của giai đoạn trứng trung bình là 2,0 ± 1,0 ngày.


14
Bảng 3.2 Vòng đời và tỷ lệ chết của B. carambolae (T0C= 26± 1 ; H%=70± 10)
Giai đoạn


Trứng

Vòng đời
Biến động
( ngày )
1-3

Thời gian
(ngày)
2,0 ± 1,00

Số cá thể
quan sát

Tỷ lệ
chết
(%)

100

18,00

Ấu trùng tuổi 1
Ấu trùng tuổi 2

2-5
2-5

3,5 ± 1,29
4,0 ± 1,00


82
77

6,10
2,59

Ấu trùng tuổi 3

4-8

6,0 ± 1,58

75

2,67

73
-

6,84
-

68
-

2,94
-

Nhộng

Trưởng thành – trứng
Vòng đời
Thành trùng
Tuổi thọ thành trùng cái
Tuổi thọ thành trùng đực

7-11
12-21
45-136
56-128

9,0 ± 1,58
16,50 ± 3,03
36,70 ± 4,59
93,33 ± 20,85
99,208 ± 20,29

*Ấu trùng: Ấu trùng có màu trắng hay trắng sữa, sống bên trong quả. Ấu trùng
tuổi 1 có miệng gồm 3 móc có kích thước bằng nhau, trên cơ thể đã có sự hiện
diện của 2 lỗ thở, chiều dài cơ thể trung bình là 1,50 mm. Thời gian trung bình của
tuổi 1 là 3,5 ± 1,29 ngày. Ấu trùng tuổi 2 có miệng gồm có 3 móc, 2 móc bên rộng,
móc ở giữa hẹp. Trên cơ thể của ấu trùng, lỗ khí trước đã xuất hiện (nhưng còn
hẹp), lỗ khí thở sau có 3 cái mở tròn. Ấu trùng tuổi 2 có chiều dài trung bình là
7,92 mm. Thời gian trung bình của tuổi 2 là 4 ± 0,71 ngày. Ấu trùng tuổi 3: Miệng
chỉ còn có 2 móc ở hai bên, móc giữa đã thoái hoá. Trên cơ thể của ấu trùng, lỗ khí
trước đã hiện diện rõ hơn, lỗ khí thở sau có 3 cái móc dài. Ấu trùng tuổi 3 của loài
B. carambolae có chiều dài trung bình là 5,56 mm. Thời gian tuổi 3 trung bình
khoảng 6,0 ± 1,58 ngày. *Nhộng: Màu vàng sáng, dài trung bình là 5,63 mm.Thời
gian nhộng trung bình khoảng 9,0 ± 1,58 ngày.
b.Thời gian tiền đẻ trứng và số lượng trứng đẻ: Thời gian tiền đẻ trứng biến

động từ 12-21 ngày. Số lượng thành trùng đẻ trứng đầu tiên sau khi vũ hóa 17 ngày
chiếm tỷ lệ cao nhất (35,0%); kế đến 16 ngày (15,0%), 18 ngày và 14 ngày
(10,0%).Trung bình trưởng thành ruồi cái đẻ khoảng 408 ± 9,15 trứng.
c.Vòng đời: Trong điều kiện phòng thí nghiệm, vòng đời của B. carambolae trung
bình là 41± 9,84 ngày, với thời gian trứng là 2,0 ± 1,0 ngày (1-3 ngày), thời gian


15
phát triển của ấu trùng tuổi 1, tuổi 2, tuổi 3 lần lượt là 3,5 ± 1,29 ngày; 4,0 ± 1,0
ngày; 6,0 ± 1,58 ngày và thời gian nhộng là 9,0 ± 1,58 ngày. d. Tỷ lệ sống sót:
Trong điều kiện phòng thí nghiệm, nuôi trên thức ăn nhân tạo (đu đủ tươi 947g +
50,5g Torula + 2,5g Nipagin), tỷ lệ trứng nở đạt đến 82,0%; tỷ lệ sống sót của ấu
trùng tuổi 1, tuổi 2, tuổi 3 và nhộng lần lượt là 93,9; 97,41 và 97,33%, và 93,16%.
e. Sự sinh sản:* Số trứng đẻ: Trong điều kiện phòng thí nghiệm, nuôi trên thức ăn
nhân tạo (đu đủ tươi 947g + 50,5g Torula + 2,5g Nipagin) trung bình 1 trưởng
thành ruồi cái đẻ khoảng 408 ± 9,15 trứng. * Nhịp điệu đẻ trứng: Khảo sát về nhịp
điệu đẻ trứng của loài ruồi đục quả B. carambolae ghi nhận: 12 ngày sau vũ hóa, B.
carambolae bắt đầu đẻ, số lượng trứng đẻ tăng từ ngày 12/7 cho đến 30/7, với số
lượng trứng đẻ trung bình/ngày lên đến 32 trứng sau đó lượng trứng giảm dần và
kết thúc vào 72 ngày sau khi đẻ trứng lần đầu tiên.
3.3.2 Ruồi Bactrocera tau: a. Đặc điểm hình thái và thời gian phát triển:
*Trứng: Trứng hình thon dài, màu trắng, dài trung bình là 1,29 mm.Trứng được đẻ
riêng rẽ hoặc thành ổ khoảng 1- 4 trứng và được đẻ dưới vỏ quả khổ qua. Thời
gian của giai đoạn trứng trung bình khoảng 1,5 ± 0,70 ngày. *Ấu trùng: Có màu
trắng hay trắng sữa. Vào tuổi 1, lỗ khí thở trước chưa có, lỗ khí thở sau có 2 cái đã
mở tròn, mốc miệng có 3 cái bằng nhau, ấu trùng tuổi 1 có chiều dài trung bình là
1,427 mm. Thời gian tuổi 1 trung bình khoảng 1,5 ± 0,70 ngày. Vào tuổi 2, lỗ khí
thở trước xuất hiện nhưng còn hẹp, lỗ khí thở sau có 3 cái mở tròn, mốc miệng có 2
cái rộng hai bên và một cái hẹp ở giữa, ấu trùng tuổi 2 có chiều dài trung bình là
8,62mm. Thời gian tuổi 2 trung bình khoảng 2,5 ± 0,71 ngày. Vào tuổi 3, lỗ khí thở

trước rộng, lỗ khí thở sau có 3 cái mở dài, mốc miệng chỉ còn 2 cái rộng hai bên và
cái ở giữa đã thoái hoá, ấu trùng tuổi 3 có chiều dài trung bình là 5,79mm.Thời
gian tuổi 3 trung bình khoảng 3,0 ± 1,00 ngày..*Nhộng: Có chiều dài trung bình là
5,69 mm.Thời gian hóa nhộng trung bình khoảng 7,5 ± 1,29 ngày ; b. Thời gian
tiền đẻ trứng: Thời gian tiền đẻ trứng trung bình khoảng 14,0 ± 2,73 ngày. Số
lượng thành trùng đẻ trứng đầu tiên sau khi vũ hóa 14 ngày có tỷ lệ cao nhất (30,0
%); 16 ngày chiếm tỷ lệ 15,0 %; 12, 13, 17 ngày và ngày 18 có tỷ lệ là 10,0%, các
thời gian còn lại chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 5,0%. c. Vòng đời: Trong điều kiện
phòng thí nghiệm (T0C= 26±1; H%=70± 10), vòng đời trung bình của B. tau là
28,45 ± 3,61 ngày, với thời gian trứng là 1,5 ± 0,70 ngày, thời gian phát triển của
ấu trùng tuổi 1, tuổi 2, tuổi 3 lần lượt là 1,5 ± 0,70 ngày ; 2,5 ± 0,71 ngày ; 2,5 ±


16
0,71 ngày, thời gian nhộng là 7,5 ± 1,29 ngày. d. Tỷ lệ sống sót: Trong điều kiện
phòng thí nghiệm, nuôi trên thức ăn nhân tạo (khổ qua tươi 947g + 50,5g Torula +
2,5g Nipagin), tỷ lệ trứng nở đạt đến 76,0%; tỷ lệ sống sót của ấu trùng tuổi 1, tuổi
2, tuổi 3 và nhộng lần lượt là 85,53; 92,31; 93,33 và 80,36%.

Hình 3.3 Vòng đời của ruồi B.carambolae

Hình 3.4 Vòng đời của ruồi B.tau


17
Bảng 3.3 Vòng đời và tỷ lệ chết của loài B. tau (T0C= 26± 1; H%=70± 10)
Giai đoạn

Trứng
Ấu trùng tuổi 1

Ấu trùng tuổi 2
Ấu trùng tuổi 3
Nhộng
Trưởng thành – trứng
Vòng đời
Thành trùng
Tuổi thọ thành trùng cái
Tuổi thọ thành trùng đực

Vòng đời
Biến động
( ngày )
1-2
1-2
2-3
2-4
6-9
10-18
40-118
48-116

Thời gian
(ngày)
1,5 ± 0,70
1,5 ± 0,70
2,5 ± 0,71
2,5 ± 0,71
7,5 ± 1,29
14,0 ± 2,73
28,45 ± 3,61

74,61 ± 25,93
75,12 ± 22,54

Số cá
thể
quan sát

Tỷ lệ
chết
(%)

100
76
65
60
56
45
-

24,0
14,47
7,69
6,67
19,64
8,89
-

e. Sự sinh sản: * Số trứng đẻ: Trong điều kiện nuôi trên thức ăn nhân tạo (khổ qua
tươi 947g + 50,5g Torula + 2,5g Nipagin) trung bình 1 trưởng thành ruồi cái đẻ
khoảng 87± 2,33 trứng. * Nhịp điệu đẻ trứng: Kết quả khảo sát ghi nhận ở 10 ngày

sau khi vũ hóa, B. tau bắt đầu đẻ trứng, số lượng trứng đẻ gia tăng từ ngày 1/8 cho
đến 15/8 với số lượng trứng trung bình/ngày lên đến 7 trứng, sau đó lượng trứng
giảm dần và kết thúc vào 74 ngày sau khi đẻ trứng lần đầu tiên.
3.3.3 Tác động của cây ký chủ và thức ăn:
a. Sự hấp dẫn của mùi quả cây ký chủ đến B. carambolae: Tác động của mùi
quả đến sự hấp dẫn của RĐQ được đánh giá qua số lượng trứng được đẻ trên vị trí
có mùi quả. Kết quả cho thấy B. carambolae bị hấp dẫn mạnh bởi khế, ổi, mận so
với xoài và thanh long và B. tau bị hấp dẫn mạnh bởi khổ qua, mướp, cao hơn so
với bầu, bí đao và dưa leo.
b.Tác động của thức ăn đến khả năng đẻ trứng và tỷ lệ trứng nở của B.
carambolae: Thức ăn sử dụng công thức A (men USA Torula 120g, đường 482g,
nước 10ml) + đậu nành có số lượng trứng và tỷ lệ trứng đẻ cao hơn đối chứng một
cách rõ nét.
3.3.4 Khả năng chống chịu nhiệt của B.carambolae: Khi xử lý trần ở nhiệt độ
46,50C, thời gian xử lý càng dài thì tỷ lệ ấu trùng còn sống càng thấp. Ở 15 phút sau
xử lý nhiệt, trên trứng non và ấu trùng tuổi 1 không ghi nhận có sự khác biệt về tính


18
chống chịu nhiệt giữa 2 loài ruồi khảo sát; tuy nhiên vào giai đoạn trứng già, loài
B.dorsalis chống chịu nhiệt tốt hơn loài B. carambolae. Kết quả này tương tự như
kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hữu Đạt và Nguyễn Văn Tuất (2007).
3.4 Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả của các biện pháp phòng trừ RĐQ trước
thu hoạch:
3.4.1 Biện pháp hóa học:
a. Đánh giá hiệu quả của thuốc trừ sâu để phòng trừ RĐQ của nông dân: Kết
quả điều tra ghi nhận trên cả 3 nhóm quả (xoài, thanh long và khổ qua), tỷ lệ quả
nhiễm RĐQ đều thấp trên các lô có sử dụng thuốc so với đối chứng.
b. Hiệu lực các loại thuốc bảo vệ thực vật phòng trừ RĐQ trên khổ qua: Tất cả
4 nghiệm thức sử dụng thuốc (Success 25 EC, Vineem 1500 EC, Regent 5SC,

Alpha 10 SC) và dầu khoáng SK99 đều có tỷ lệ quả nhiễm RĐQ thấp so với đối
chứng. Nghiệm thức sử dụng thuốc Alpha 10 SC và dầu khoáng SK99 có tỷ lệ quả
nhiễm lần lượt 3,32%, 4,50%, khác biệt rất có ý nghĩa so với nghiệm thức nông dân
và đối chứng .
3.4.2 Kỹ thuật canh tác:
a. Giống và tỷ lệ nhiễm RĐQ: * Xoài: Xoài Cát có tỷ lệ quả nhiễm chiếm cao
nhất (11,20 %), kế đến giống xoài Bưởi (7,40 %), xoài cát Chu (6,170 %), thấp
nhất xoài cát Hòa Lộc (5,00 %).*Khổ qua: Cả hai giống khổ qua khảo sát bị nhiễm
RĐQ, giống khổ qua địa phương nhiễm nặng hơn giống khổ qua xanh F1.
b. Kỹ thuật xen canh và mức độ nhiễm RĐQ: (+) Trên cây xoài: Các vườn xoài
trồng xen với 2 loại cây ký chủ chính của RĐQ như mận, ổi, quả xoài bị nhiễm ruồi
cao nhất (12,05%) và vườn xoài xen với bưởi có tỷ lệ nhiễm ruồi thấp nhất chỉ đạt
8,10%. (+) Trên thanh long: Vườn trồng chuyên canh cây thanh long có tỷ lệ nhiễm
ruồi tương đối thấp hơn vườn xen canh. Các cây trồng xen trong vườn thanh long
có tỷ lệ quả nhiễm RĐQ rất cao như mận (100 %), mận (99,60%).
c. Hiệu quả của biện pháp vệ sinh vườn đối với sự gây hại của RĐQ: + Vườn
xoài: Vào năm 2008, tỷ lệ nhiễm ruồi đục quả chỉ đạt 5,5% trên vườn có vệ sinh,
trong khi vườn không vệ sinh, tỷ lệ nhiễm ruồi lên đến 16,70%, gấp 3 lần vườn có
vệ sinh.


19
+ Vườn thanh long: Trên các vườn có áp dụng các biện pháp vệ sinh đồng ruộng,
tỷ lệ nhiễm ruồi rất thấp so với vườn không vệ sinh vườn.
d. Hiệu quả của màng phủ nông nghiệp trong quản lý RĐQ: Tỷ lệ quả nhiễm
trên vườn có màng phủ là 3,7 % (năm 2005) và 4,20 % (năm 2008), còn ở vườn
không sử dụng màng phủ có tỷ lệ quả nhiễm là 14,00 % (năm 2005) và 13,50 %
(năm 2008).
e. Biện pháp bao quả: Trong 4 loại bao khảo sát (bao giấy dầu, bao keo áo, bao
Đài Loan và bao keo vải), quả sử dụng bao Đoài Loan có chỉ số a (biểu thị cho màu

đỏ) cao nhất, màu sắc của vỏ đỏ nhất. Các nghiệm thức còn lại khác biệt không có
ý nghĩa với nhau. Độ brix, và các chỉ số b và l giữa các nghiệm thức và đối chứng
cũng khác biệt không có ý nghĩa.
3.4.3 Nghiên cứu hiệu quả của các chất hấp dẫn đối với RĐQ
3.4.3.1 Tuyển chọn các nhóm protein hấp dẫn các loài ruồi phổ biến ở ĐBSCL
a. Thành phần của các nguồn protein: Không có sự khác biệt đáng kể về % hàm
lượng NH4+, đường tổng số (brix) và độ pH của 3 dạng protein có nguồn gốc khác
nhau (mận, khổ qua và protein thủy phân từ bả hèm bia). Tuy nhiên hàm lượng
protein tổng số cao nhất thuộc về protein thủy phân từ bả men bia, cao gần gấp 2
lần protein từ quả khổ qua chín, và cao gấp 3 lần protein từ mận chín.
b. Các loại axít amin có trong protein trích từ quả mận, khổ qua và protein
thủy phân từ bả hèm bia: Kết quả phân tích cho thấy tyrosine có hiện diện trong
protein thủy phân từ bả men bia tương tự như ghi nhận của Tsiropoulos (1986). Kết
quả còn ghi nhận sự hiện diện của các axít amin khác như methionine,valine,
leucine, threonine, isoleucine, đây là những chất hấp dẫn mạnh đối với thành trùng
ruồi cái. Hầu hết các axít amin trong protein thủy phân từ bả hèm bia có hàm lượng
cao hơn rõ nét so với protein thủy phân từ quả mận chín và khổ qua chín.
3.4.3.2 Hiệu quả hấp dẫn của SOFRI protein đối với RĐQ
* Xác định độ độc của thuốc bảo vệ thực vật đối với RĐQ khi phối trộn với
protein thủy phân: Nghiệm thức protein thủy phân phối trộn với 3ml và 4ml
fipronil có hiệu quả hấp dẫn và diệt ruồi B. carambolae cao nhất, khác biệt có ý
nghĩa so với các nghiệm thức phối trộn ở liều lượng 2ml và 5ml. Khi phối trộn với


20
thuốc fipronil ở liều lượng 5ml, tính hấp dẫn giảm đi rất nhanh. Hiệu quả ở liều
lượng 3ml và 4ml được thể hiện trong suốt 4 thời điểm quan sát (1, 3, 5, 10 phút).
* Nghiên cứu kỹ thuật sử dụng hiệu quả protein thủy phân
Khảo sát về vị trí phun và liều lượng protein thủy phân sử dụng hiệu quả trên
cây xoài: Phun protein ở vị trí ¾ chiều cao tán lá (từ đỉnh ngọn cây trở xuống) có

hiệu quả cao nhất, khác biệt rõ nét với các nghiệm thức còn lại và sử dụng protein
thủy phân ở liều lượng 20 ml (dung dịch protein pha / cây) có hiệu quả diệt ruồi
cao và kinh tế nhất.
* Nghiên cứu xây dựng mô hình IPM để quản lý RĐQ
- Hiệu quả mô hình IPM trên xoài, thanh long, khổ qua: Khảo sát liện tục trong 2
năm 2008-2009, ghi nhận tỷ lệ quả nhiễm ruồi trên các lô IPM đều rất thấp so với
đối chứng trên cả 3 nhóm vườn khảo sát. Trên xoài, sản lượng thu hoạch trung bình
trên vườn có áp dụng IPM là 16.609,00kg/ha, các vườn đối chứng của nông dân
chỉ đạt 13.685 kg/ha. Trên cây thanh long, sản lượng thu hoạch trung bình trên
vườn có áp dụng IPM là 25.740,0 kg/ha trong khi năng sất trung bình trên các vườn
của nông dân chỉ đạt 19.708,7 kg/ha. Và tương tự trên cây khổ qua, sản lượng thu
hoạch trung bình trên vườn có áp dụng IPM là 8248,4 kg/ha, các vườn đối chứng
của nông dân chỉ đạt 6059,0 kg/ha.
- Hiệu quả của mô hình IPM khi áp dụng trên diện rộng
Mô hình IPM trên diện rộng được thực hiện trên các vườn cây sơ ri tại Gò
Công - Tiền Giang. Kết quả khảo sát ghi nhận vào thời điểm áp lực của Bactrocera
ngoài đồng thấp do đã kết hợp phun Sofri protein với biện pháp vệ sinh, hiệu quả
của mô hình IPM rất cao, trên các mô hình IPM tỷ lệ quả nhiễm ruồi rất thấp, chỉ
chiếm 5%, trong khi đó trên lô đối chứng có tỷ lệ quả nhiễm ruồi rất cao (53%).


21
- Đề xuất mô hình IPM với chế phẩm Sofri protein là biện pháp chủ đạo để quản lý
RĐQ: Mô hình IPM cần được áp dụng trên một diện tích từ 20 ha đến 300 ha, với
các biện pháp như: * Biện pháp canh tác: Xử lý ra hoa đồng loạt xoài và thanh
long và gieo sạ đồng loạt (khổ qua) để có thể thu hoạch cùng thời điểm; * Vệ sinh
vườn: Vệ sinh vườn cần được thực hiện trước và sau thu hoạch; * Trồng xen:
không nên trồng xen mận, ổi, khế trong các vườn xoài và thanh long; * Bẫy methyl
eugenol hoặc cue-lure: Khi mật số ruồi quá cao, có thể sử dụng các loại bẫy
methyl eugenol (xoài, thanh long) hoặc cue-lure (khổ qua) để hạ mật số ruồi, trước

khi sử dụng Sofri protein; * Sử dụng Sofri protein; * Tổ chức thành nhóm nông
hộ và lập các đội phun chuyên nghiệp phun Sofri protein.
3.5 Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả của các biện pháp xử lý nhiệt để phòng trừ
RĐQ sau thu hoạch.
3.5.1 Hiệu quả của phương pháp xử lý hơi nóng và ngâm nước nóng trong
phòng trừ RĐQ sau thu hoạch trên quả xoài: Thí nghiệm được thực hiện với các
nhiệt độ khác nhau và được bắt đầu từ nhiệt độ tâm 46,50C trong thời gian từ 5 đến
20 phút đối với phương pháp xử lý hơi nóng. Kết quả tối ưu của nghiệm thức xử lý
hơi nước nóng sẽ làm cơ sở cho phương pháp xử lý ngâm nước nóng.
a. Xử lý quả bằng hơi nước nóng: Kết quả ghi nhận cho thấy xử lý ở nhiệt độ tâm
để diệt trứng thì không còn ghi nhận có sự hiện diện của nhộng và thành trùng trên
quả sau khi xử lý, điều này chứng tỏ trứng ruồi đã chết hoàn toàn. Như vậy, để đạt
hiệu quả cao trong việc xử lý trứng hiện diện trong quả xoài cát Hoà Lộc, có thể
chọn nghiệm thức xử lý là 46,50C trong 20 phút; 48,50C trong 15 phút; 50,50C trong
15 phút.
b. Xử lý quả bằng biện pháp ngâm nước nóng: Khi ngâm quả xoài vào nước
nóng ở các nhiêt độ và thời gian khác nhau thì các nghiệm thức 46,50C trong 30
phút; 46,50C trong 35 phút; và 46,50C trong 40 phút đều giết hầu hết trứng ruồi.
3.5.2 Ảnh hưởng của việc xử lý nhiệt đến chất lượng quả xoài khi bảo quản ở
nhiệt độ 25 0C.
3.5.2.1 Biện pháp xử lý hơi nước nóng:


22
a. Màu sắc vỏ quả: Vào 3 ngày xử lý, giá trị L của các nghiệm thức xử lý ở nhiệt
độ càng cao thì giá trị L càng lớn so với đối chứng không xử lý. Giữa quả xử lý ở
46,50C trong 20 phút và đối chứng không có sự khác biệt. Tuy nhiên khi xử lý quả
ở nhiệt độ 48,50C trong 15 phút, đã có khác biệt so với đối chứng. Sự khác biệt này
càng rõ hơn ở nhiệt độ 50,50C trong 15 phút sau 6 ngày bảo quản.Tương tự, giá trị
a của vỏ quả ở các nghiệm thức xử lý nhiệt (từ - 14,37 đến - 11,26) đều lớn hơn so

với đối chứng (- 15,58) sau 3 ngày bảo quản. Sự khác biệt này càng được thể hiện
rõ sau 6 ngày bảo ở nhiệt độ xử lý 48,50C và 50,50C (- 8,37 và - 5,56) so với mẫu
đối chứng (- 10,48). Giá trị b cũng biến đổi tương tự như giá trị a trong quá trình
bảo quản. Kết quả cho thấy xử lý quả ở nhiệt độ càng cao càng làm tăng nhanh sự
biến đổi màu của vỏ khi bảo quản.
b. Màu sắc thịt quả: Sau 3 ngày bảo quản ở nhiệt độ 250C, giá trị L của xoài cát
Hòa Lộc xử lý bằng phương pháp hơi nước nóng ở các chế độ nhiệt không khác biệt
so với đối chứng không xử lý. Nhưng sau 6 ngày bảo quản, thì sự khác biệt thể hiện
rõ giữa đối chứng với quả xử lý ở nhiệt độ 48,50C và 50,50C. Sau 9 ngày bảo quản,
giá trị L của mẫu quả xử lý ở nhiệt độ 48,50C và 50,50C (69,15 và 64,32) đều giảm
nhanh so với mẫu đối chứng (70,05). Lúc này màu của thịt quả đã chuyển dần sang
màu tối. Tương tự, xử lý ở nhiệt độ càng cao và thời gian bảo quản càng dài thì giá
trị a, b của quả càng tăng. Tuy nhiên, đến ngày thứ 9 do quả xử lý ở nhiệt độ cao
(48,50C và 50,50C) nên trong quá trình bảo quản quả, thịt của quả đã chuyển dần từ
vàng tươi sang vàng sẫm, vì vậy giá trị b và a của các mẫu này giảm đột ngột so với
mẫu đối chứng. Đồng thời một số quả xử lý ở 2 nhiệt độ này bị hư.
c. Sự hao hụt trọng lượng quả: Đối với xoài cát Hòa Lộc, việc xử lý hơi nóng ở
các chế độ nhiệt làm tăng sự hao hụt trọng lượng quả trong quá trình bảo quản.
Nhiệt độ xử lý càng cao thì phần trăm hao hụt xảy ra càng nhiều. d. Độ chắc của
thịt quả: Nghiệm thức đối chứng có chỉ số độ chắc cao nhất, mặc dù không khác biệt
có ý nghĩa về mặt thống kê ở các thời điểm bảo quản 3 và 6 ngày, nhưng có khác
biệt rõ nét với nghiệm thức bảo quản 9 ngày.
e. Chỉ tiêu sinh hóa: Sau khi xử lý hơi nóng, độ brix của quả xoài cát Hòa Lộc ở
tất cả các nghiệm thức xử lý nhiệt đều cao (20,10 – 21,75%) so với mẫu đối chứng
không xử lý (21,02%) sau 6 ngày tồn trữ ở nhiệt độ 250C. Hàm lượng axit giảm ở
các nghiệm thức xử lý ở nhiệt độ cao. Nhiệt độ cao cũng làm giảm hàm lượng vitamin


23
C. f. Tỷ lệ quả hư : Sau 9 ngày bảo quản, nghiệm thức 46,50C trong 20 phút cho tỷ

lệ quả bị hư thấp nhất (44,44%), so với các nghiệm thức còn lại. Ở nghiệm thức
48,50C và 50,50C, tỷ lệ quả bị hư gần như không khác biệt so với đối chứng. Kết
quả này cho thấy, xử lý nhiệt ở chế độ nhiệt hợp lý sẽ làm giảm tỷ lệ quả bị hư
hỏng đồng thời không làm giảm hàm lượng vitamin C trong quá trình bảo quản.

3.5.2.2 Biện pháp ngâm nước nóng:
a. Màu sắc của vỏ và thịt quả: Sự biến đổi màu sắc của vỏ và thịt của quả giữa
mẫu được xử lý ở nhiệt độ 46,50C trong thời gian 40 phút và mẫu đối chứng (không
xử lý nhiệt) khi bảo quản ở nhiệt độ 250C ghi nhận các giá trị L, a, b của vỏ và thịt
quả của các mẫu có xử lý nhiệt độ có tăng so với mẫu đối chứng, nhưng sự khác
biệt không có ý nghĩa về thống kê.
b. Sự hao hụt trọng lượng quả: Biện pháp ngâm quả trong nước nóng 46,50C
không làm ảnh hưởng đến trọng lượng quả so với đối chứng.
c. Độ chắc thịt của quả: Độ chắc thịt của quả xoài ngâm nước nóng 46,50C và
bảo quản ở 250C giảm nhanh qua thời gian bảo quản nhưng không khác biệt so với
đối chứng.
d. Chỉ tiêu sinh hoá: Độ brix, hàm lượng axít, vitamin C giảm của quả nhanh sau 3
ngày xử lý nhưng đến ngày thứ 6, 9 thì sự khác biệt không còn ý nghĩa. Hàm lượng
đường khử, đường tổng số, chỉ số pH cũng không khác biệt giữa các mẫu có xử lý
nhiệt và không xử lý.
e.Tỷ lệ quả bị hư: Sau 9 ngày bảo quản, ghi nhận các quả được xử lý ở 46,50C
trong 40 phút có tỷ lệ hư hỏng thấp hơn đối chứng.
3.5.2.3 So sánh tác động của hai phương pháp xử lý quả bằng hơi nước nóng và
ngâm nước nóng đến chất lượng quả:
a. Tác động của hai phương pháp xử lý quả đến các giá trị L, a, b: Qua so sánh
ghi nhận màu sắc của quả sau khi xử lý nhiệt bằng hai phương pháp và bảo quản ở
nhiệt độ phòng, không ghi nhận có sự khác biệt ý nghĩa về các giá trị L, a, b ở từng
thời điểm phân tích.



24
b. Sự hao hụt trọng lượng quả: Phương pháp xử lý bằng ngâm quả trực tiếp vào
nước nóng có tỷ lệ trọng lượng hao hụt tăng cao so với mẫu đối chứng và xử lý
bằng hơi nóng.
c. Chỉ tiêu sinh hóa: Độ brix của quả xử lý bằng phương pháp ngâm nước nóng
tăng cao hơn so với phương pháp xử lý bằng hơi nóng, nhưng khác biệt không có ý
nghĩa thống kê. Hàm lượng vitamin C của phương pháp xử lý bằng cách ngâm trực
tiếp trong nước nóng giảm nhiều hơn so với phương pháp xử lý bằng hơi nóng và đối
chứng, Đường tổng số của quả có xử lý nhiệt tăng so với đối chứng không xử lý,
điều này cho thấy nhiệt đã thúc đẩy quá trình chuyển hoá các chất bên trong tế bào
làm quả mau chín. Đối với phương pháp xử lý bằng cách ngâm trực tiếp nước nóng
thì đường tổng số tăng nhanh hơn so với phương pháp xử lý hơi nóng ở thời điểm 3
và 6 ngày sau bảo quả.
d. Độ chắc của thịt quả: Độ chắc thịt quả của hai phương pháp xử lý không có sự
khác biệt ý nghĩa so với mẫu đối chứng.
e. Tỷ lệ quả bị hư và dánh giá cảm quan về mùi vị quả: Ở cả hai biện pháp xử
lý, tỷ lệ % quả bị hư đều giảm so với đối chứng. Đánh giá cảm quan về mùi vị của
các quả xoài đã xử lý bằng biện pháp ngâm nước nóng ghi nhận giữa nghiệm thức
có xử lý và đối chứng không xử lý có sự khác biệt rõ nét về mùi vị. Mùi vị của các
quả xoài đã qua xử lý bằng biện pháp ngâm nước nóng ít thơm hơn so với quả
không xử lý để chín tự nhiên. Tuy nhiên mùi vị của quả được xử lý hơi nóng ở
nhiệt độ 46,50C trong thời gian 20 phút không khác biệt so với đối chứng.
KẾT LUẬN
1. Kết quả điều tra trên 21 loại quả được trồng phổ biến của vùng ĐBSCL ghi nhận
tất cả các loại cây khảo sát (chuối, cam, bưởi, đu đủ, khế, mận, ổi, nhãn, sa pô, sơ
ri, xoài, táo, thanh long, bí đao, bầu, mướp, khổ qua, dưa gang, bí đỏ, đậu đũa và cà
chua) đều bị nhiễm RĐQ. Quả nhiễm RĐQ nặng nhất là mận, ổi, táo, bầu, khế,
mướp với tỷ lệ nhiễm ruồi trung bình là 94,0; 92,0; 77,4; 70,0; 63,6 và 60,2%. Quả
nhiễm ruồi thấp nhất là cam, đu đủ, nhãn, đậu đũa, cà chua và bí đỏ.
2. Bằng phương pháp sử dụng bẫy hấp dẫn và phân tích trực tiếp trên quả bị hại, 5

loài ruồi đã được phát hiện, bao gồm Bactrocera dorsalis, B. correcta, B.
carambolae, B. cucurbitae và B. tau. Trong đó B. dorsalis hiện diện phổ biến nhất.


25
3. Khảo sát về sự khác biệt của trình tự gen vùng cytochrome oxydase II (COII)
của DNA ty thể cho thấy B. carambolae thuộc phức hợp B. dorsalis và có quan hệ
gần với B. dorsalis, trong khi đó thì giữa B. tau và B. cucurbitae có khoảng cách di
truyền tin cậy (99-100%). Ba loài B. dorsalis, B. carambolae và B. correcta với
haplotype có các nucleotit đặc trưng ATCTCATTACT tại 11 điểm đột biến trên
gien đích, còn B. tau và B. cucurbitae có haplotype đặc trung tại cùng 11 điểm đột
biển trên đoạn gien đích với giống Bactrocera lại là TCTATTCCTTA. Mức tương
đồng về trình tự giữa phức hợp B. dorsalis (B. dorsalis và B. carambolae) trên
Genbank tương đồng với các mẫu B. carambolae vùng ĐBSCL lên đến 97,85%.
Trong khi B. tau có mức độ tương đồng với B. tau trên Genbank là 99,39%.
4.Tại vùng ĐBSCL, ký chủ chính của B. carambolae là khế, mận, ổi, sơ ri , xoài và
thanh long. B. tau chỉ được phát hiện trên rau quả như mướp, khổ qua và đậu đũa.
5. Mặc dù được ghi nhận đều khắp trên các tỉnh điều tra vùng ĐBSCl, nhưng tỷ lệ
quả bị nhiễm bởi B. carambolae không cao, biến động từ 4-18%. Ổi có tỷ lệ trái
nhiễm B. carambolae cao nhất, đạt 18%, kế đến là sơ ri, mận, khế, xoài và thanh
long. B. tau nhiễm khá cao trên mướp (34%), đậu đũa (29%) và khổ qua (24%).
6. Trong điều kiện nuôi tự động (T 0C= 26± 1; H%=70± 10), thời gian vòng đời của
B. tau khá ngắn (28,45± 3,61 ngày) so với B. carambolae ( 36,70± 4,59 ngày).
7. Các biện pháp hóa học, vệ sinh vườn, sử dụng màng phủ nông nghiệp (cây khổ
qua) đều có thể làm giảm sự gây hại của ruồi đục quả nhưng hiệu quả của các biện
pháp này không bền vững.
8. Trong các loại bao trái khảo sát, bao Đài Loan có chất lượng tốt nhất đối với trái
thanh long. Quả được bao với bao Đài Loan có màu sắc đỏ hơn các loại bao khác.
9. Trong các loại protein được sử dụng để khảo sát tính hấp dẫn đối với ruồi đục
quả, protein thủy phân từ bả men bia có khả năng hấp dẫn B.dorsalis, B.

carambolae và B. tau cao nhất. Protein thủy phân từ bả hèm bia khi phối trộn với
fipronil (3ml) cho hiệu quả diệt ruồi cao và kinh tế. Ngoài đồng, sử dụng Sofri
protein (protein thủy phân từ bả hèm bia phối trộn với 3m fipronil(5%) đạt hiệu quả
rất cao khi phun ở vị trí 3/4 chiều cao của tán lá (từ đỉnh ngọn trở xuống).


×