2
VẤN ĐỀ NÔNG DÂN BỎ RUỘNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY: THỰC
TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
============
Vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông
dân luôn chiếm vị trí quan trọng trong các chương trình nghị sự của Đảng và
Nhà nước. Trải qua các kỳ đại hội Đảng, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và
nông dân ngày càng được Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn, trên cơ sở đó đề ra
những chủ trương, định hướng đúng đắn, phù hợp với tình hình, yêu cầu trong
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Những thành tựu đạt được trong
những năm đổi mới đất nước vừa qua đã khẳng định tính đúng đắn trong
đường lối, chủ trương phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống
nông dân của Đảng và Nhà nước ta. Nông nghiệp, nông thôn không chỉ tiếp
tục được phát triển, mà còn có những bước phát triển nhảy vọt, góp phần quan
trọng ổn định tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng
cao đời sống của nhân dân. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
khóa X đã xác định: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển linh tế - xã hội bền vững, giữ
vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc và bảo về môi trưồng sinh thái của đất nước”.
Tuy nhiên hiện nay, nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta đang
đứng trước những khó khăn, thách thức mới. Một trong những vấn đề đó là
tình trạng nông dân bỏ ruộng ngày càng nhiều.
1. Thực trạng nông dân bỏ ruộng ở nước ta hiện nay
Việt Nam là nước nông nghiệp, với hơn 70% dân số là nông dân, nguồn
thu nhập chính của đại đa số người dân Việt Nam là từ sản xuất nông - lâm
nghiệp. Chính vì vậy, đất sản xuất nông nghiệp trở nên vô giá và trở thành
3
vấn đề sống còn đối với người nông dân. Ông cha ta đã trải qua biết bao biến
cố, bao cuộc chiến khốc liệt cũng chỉ để giành lấy đất nước, giành lấy ruộng
vườn cho nông dân. Với nông dân, không gì thiết thực hơn là có đất để mưu
sinh. Cơm ăn, áo mặc, làm nhà, mua sắm vật dụng, cưới xin, tiền học cho con,
ma chay giỗ chạp, đóng góp công ích, hội hè… tất cả đều trông mong vào hoa
lợi từ đất đai. Bởi vậy trong tính hiện thực của nó, việc trước hết và trên hết là
làm cho người dân có đất để sinh sống. Nhà sử học Phan Huy Chú đã hoàn
toàn đúng khi nói rằng đất đai là liều thuốc tiên để chữa cái bệnh nghèo đói,
loạn lạc trong dân.
Từ năm 1930, với khẩu hiệu "Người cày có ruộng” và các chính sách
lớn như: tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và tay sai chia cho dân cày;
giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất, Đảng đã huy động được toàn dân, trong
đó 90% là nông dân, đứng dậy làm hai cuộc cách mạng phản đế và phản
phong. Chỉ trong vòng 16 năm (1930-1945) nhân dân ta đã hoàn thành hai sứ
mạng to lớn mà cha ông trước trong gần 100 năm không làm được. Tiếp đến
trong 9 năm kháng Pháp (1946-1954) và 15 năm chống Mỹ (1961-1975),
giành lại Độc lập, Tự do cho Tổ quốc. Tuyệt đại đa số nhân dân đi theo Đảng
là vì Đảng đã làm cho người cày có ruộng. Sau nhiều thay đổi về quản lý đất
đai, đến khi Đảng và Nhà nước thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, khoán
ruộng cho nông dân thì nông dân vô cùng phấn khởi, đã tích cực, chủ động
trong lao động sản xuất, áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật mới, nâng
cao năng suất, sản lượng lúa và hoa màu. Người nông dân do vậy càng yêu
quý, thân thiết gắn bó hơn với ruộng đất mà họ được giao sử dụng.
Niềm phấn khởi, sự gắn bó của nông dân với ruộng đất, cùng với các
chính sách thiết thực, hiệu qủa của Đảng và Nhà nước đã khiến cho nền nông
nghiệp nước ta phát triển vượt bậc. Từ chỗ dân số còn chưa đông nhưng vẫn
phải đi nhập khẩu lương thực từ các nước về để dân đỡ thiếu đói, đến chỗ dân
4
đông lên gấp mấy lần nhưng không những vẫn no, đủ lương thực, thực phẩm
cho toàn dân, mà lại còn xuất khẩu được mỗi năm mấy triệu tấn gạo, đứng
vào hàng nhất nhì thế giới trong các nước xuất khẩu gạo. Những thực tế trên
đã cho thấy tình cảm sâu xa, ý nghĩa quan trọng của sự gắn bó với ruộng đất
của người nông dân Việt Nam như thế nào. Cho nên thực đáng ngạc nhiên,
nếu không muốn nói là đáng lo khi gần đây đã xuất hiện trong nông dân tâm
lý chán ruộng, bỏ cấy cày, ly nông ly hương và một số hộ nông dân đã trả lại
ruộng cho hợp tác xã, dù đó là “bờ xôi ruộng mật”. Sự không tha thiết với
ruộng đất được giao và việc trả ruộng ngày càng trở nên phổ biến và đang có
xu hướng lan rộng tại các địa phương.
Nếu những trước, việc bỏ hoang ruộng đất mới xảy ra ở một số tỉnh
như Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Bắc Ninh… chủ yếu trên diện tích
xung quanh các doanh nghiệp, khu, cụm công nghiệp, do đất bị chia nhỏ
không đủ canh tác và chất lượng đất cũng không còn tốt khi ở gần các nhà
máy này. Từ năm 2011 đến nay, ngày càng có nhiều hộ nông dân bỏ ruộng,
thậm chí còn "làm đơn trả ruộng". Tình trạng này xảy ra nhiều ở nhiều tỉnh
trên phạm vi cả nước.
Nghệ An là một trong những địa phương có tổng diện tích bỏ ruộng, trả
ruộng cao trong cả nước, vào khoảng 1.265 ha. Riêng vụ hè thu 2013 vừa qua,
trên địa bàn toàn tỉnh có hơn 950 ha đất người dân không đưa vào sản xuất.
Nam Đàn là một trong những huyện có nhiều diện tích đất để hoang nhất tỉnh
trong sản xuất vụ hè thu 2013 (khoảng 700 ha), nằm chủ yếu ở các xã Nam
Diên, Nam Anh, Nam Trung, Nam Phúc, Nam Cường, Nam Kim và vùng
Bàu Nón, xã Nam Thanh. Sau Nam Đàn là huyện Hưng Nguyên cũng có tới
300 ha đất bỏ hoang hóa trong vụ hè thu này.
Điều đáng nói, Nghệ An không phải là hiện tượng cá biệt. Ngày
14/8/2013, Cổng thông tin Chính phủ đăng tin “Thanh Hóa: Hơn 1.000 hộ
5
dân bỏ ruộng”. Cụ thể, theo thống kê mới nhất từ Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn tỉnh Thanh Hóa, hiện nay, toàn Tỉnh có 1.037 hộ nông dân bỏ
ruộng với 261 ha. Tình trạng nông dân bỏ ruộng diễn ra trên địa bàn 14 xã,
chủ yếu trên địa bàn 3 huyện: Hậu Lộc, Tĩnh Gia, Quảng Xương với tổng
diện tích bị bỏ hoang khoảng 67 ha. Tại tỉnh Quảng Bình, việc nông dân bỏ
ruộng đã lên đến con số hơn 750ha. Đó là theo thống kê sơ bộ, nếu điều tra
chính thức, chắc chắn sẽ nhiều hơn con số đó. Tương tự, ở tỉnh Hà Tĩnh, có
hơn 1.300ha ruộng bị bỏ hoang, hơn 1.000 hộ dân trả lại ruộng do họ chẳng
muốn làm. Trong khi đó, tại Ninh Bình, tổng diện tích đất lúa bỏ trống trong
thời điểm này là gần 487 ha. Đáng chú ý, tại đồng bằng sông Hồng - vùng đất
nông nghiệp trù phú từ bao đời nay đang phải đối mặt với tình trạng nông dân
bỏ ruộng ngày càng tăng. Tổng diện tích đất nông nghiệp bị bỏ hoang tại Thái
Bình là 156,2 ha; Nam Định 323 ha; Hải Dương 148 ha.
Số liệu điều tra sơ bộ của Cục Kinh tế hợp tác, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn (NN&PTNT) cho thấy, ở các vựa lúa của miền Bắc như Nam
Định, Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh cũng đã bắt đầu xuất hiện tình trạng
nông dân bỏ ruộng. Ước tính, diện tích ruộng bị bỏ hoang của các tỉnh phổ
biến 100 ha/tỉnh, cá biệt, như: ở Hải Dương, Hưng Yên số diện tích lên tới
200ha trở lên và xu hướng này còn đang tiếp tục tăng. Đáng chú ý là, nông
dân không chỉ bỏ hoang đất xấu, mà chủ yếu là diện tích làm 2 lúa, hoặc làm
2 lúa 1 màu. Chỉ tính ở khu vực đồng bằng sông Hồng và miền Trung, đã có
tới 6 tỉnh có nông dân bỏ ruộng, thậm chí trả lại ruộng, tổng diện tích khảo sát
sơ bộ lên tới gần 1.000ha. Cũng theo ước tính của Cục Kinh tế hợp tác, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), tối thiểu trong cả nước sẽ
có 6.300 ha đất người dân không còn mặn mà với sản xuất nông nghiệp.
Hiện tượng nông dân bỏ đất dường như chưa có dấu hiệu chấm dứt.
Dù chưa thành một phong trào, nhưng việc những người nông dân cả đời
6
bám đất, dồn công, dồn của chăm bẵm từng thửa ruộng không quản nắng
mưa nay bỗng “dứt ruột” bỏ ruộng không thể là điều bình thường. Vì thế,
đây là vấn đề “nóng” không kém gì việc suy thoái kinh tế dẫn đến hàng loạt
doanh nghiệp giải thể hoặc ngừng hoạt động hay chuyện thị trường bất
động sản "đóng băng"…
Ở một khía cạnh nào đó, việc nông dân bỏ ruộng, trả ruộng cũng đang
là cơ hội để thực hiện mạnh mẽ hơn việc dồn điền, đổi thửa, sản xuất tập
trung, tạo điều kiện cơ giới hóa, canh tác đồng bộ trong các khâu sản xuất,
hướng tới một nền sản xuất hàng hoá quy mô lớn. Chúng ta không thể phát
triển nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá với quy mô lớn, sức cạnh tranh cao
nếu cứ tiếp tục giữ quy mô canh tác nhỏ lẻ, manh mún; và cũng không thể xây
dựng được thương hiệu nông sản có sức cạnh tranh cao, nếu mỗi địa phương,
mỗi hộ nông dân tự sản, tự tiêu trên mảnh ruộng nhỏ bé của mình… Đây cũng
là một kiểu thay đổi tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, tạo điều kiện cho
nông dân góp vốn bằng quyền sử dụng đất với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, việc nông dân không còn mặn mà với đồng ruộng thì đây là
vấn đề rất đáng báo động bởi điều này sẽ để lại những hệ lụy nguy hại, có tác
động rất lớn tới nền nông nghiệp nói riêng, cũng như an sinh xã hội nói chung.
Trước hết, hiện tượng này tuy chưa phổ biến nhưng khi mà người nông dân
một nắng hai sương đã và đang “quay lưng” lại với chính những “bờ xôi ruộng
mật” của mình - thứ tư liệu sản xuất tiên quyết mà trước đây ông cha và cả
chính họ ngày nay phải mất cả máu xương bao thế hệ mới giành được, đã có
những tác động không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp và tâm lý người dân khu
vực nông thôn, gây lãng phí trong việc sử dụng quỹ đất nông nghiệp. Nguy cơ
mất an ninh lương thực là nhãn tiền, nếu tình trạng này tiếp tục diễn biến theo
chiều hướng xấu, nhất là trong bối cảnh dân số có xu hướng tăng nhanh, chưa
kể Việt Nam là một trong năm nước sẽ chịu ảnh hưởng nặng nhất của biến đổi
7
khí hậu, mà vùng chịu ảnh hưởng trực tiếp là vựa lúa đồng bằng sông Cửu
Long. Bên cạnh đó còn làm mất cân bằng trong sản xuất nông nghiệp, sẽ không
còn ai làm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nữa. Nông
dân bao đời nay gắn bó với ruộng, giờ bỏ ruộng không có tư liệu sản xuất, hệ
lụy dễ thấy là họ sẽ tràn ra thành phố kiếm việc làm. Trong bối cảnh kinh tế
khó khăn như hiện nay, việc làm đâu dễ kiếm, nhưng những tệ nạn, gây mất an
toàn xã hội lại dễ nảy sinh, gây khó khăn cho công tác quản lý đô thị... Khi
không còn ruộng đồng, người nông dân không còn là nông dân nữa. Họ sẽ là
những công nhân ở các xóm trọ ngoại ô với bữa cơm thiếu chất và cuộc sống tù
đọng về tinh thần. Họ buôn thúng bán bưng trên những vỉa hè bị xua đuổi. Họ
đi trên những con đường không phải của mình, bởi bỏ ruộng đồng, họ vẫn là
nông dân với đôi bàn tay trắng.
2. Nguyên nhân của thực trạng trên.
Theo Cục Kinh tế hợp tác, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(NN&PTNT), qua thực tế làm việc và kiểm tra ở một số địa phương, mặc dù
đất ít nhưng người nông dân vẫn bỏ ruộng. Lý do bỏ ruộng thì có nhiều nhưng
tập trung vào một số nguyên nhân sau:
Một là; thu nhập thấp, "càng làm càng lỗ" là nguyên nhân chính khiến
cho nông dân từ bỏ mảnh ruộng đã gắn bó bao đời với họ.
Theo tính toán của Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn năm
2011, tại Đồng bằng sông Cửu Long nơi được coi là vựa lúa của cả nước,
bình quân mỗi hộ dân là 4 nhân khẩu, trong đó có 2 lao động, được giao
khoảng 5,5 sào ruộng, thì tổng thu nhập mỗi năm chỉ đạt khoảng 22 triệu
đồng. Trừ khoảng 48% chi phí (thuê công làm đất, mua giống, phân bón vô
cơ, thuốc bảo vệ thực vật, dịch vụ thủy lợi, công gặt tuốt lúa...) thì 1 hộ còn
gần 13 triệu đồng/năm. Như vậy giá trị ngày công (tiền lãi) bình quân 1 lao
động/hộ chỉ khoảng 45.000 đồng/công (tính 24 công/tháng), thấp hơn rất
8
nhiều so với giá trị ngày công của vùng. Ở miền Trung hay miền Bắc, mức
thu nhập từ nông nghiệp còn thấp hơn nhiều. Hiện ở khu vực Đồng bằng sông
Hồng, giá thuê nhân công 1 ngày là 150.000 - 200.000 đồng, chưa kể ăn uống,
sinh hoạt nên người ta thu về cũng được từ 2,5 - 3 triệu đồng. Bên cạnh đó,
các khoản đóng góp cho việc cấy trồng lại nhiều. Cụ thể, năm 2011, nhiều xã
ở Đồng bằng sông Hồng đóng góp bình quân khoảng 1,6 - 1,7 triệu
đồng/hộ/năm, gồm các khoản: tiền bảo vệ đồng ruộng, tiền thu làm giao thông
nông thôn, nội đồng, kiên cố hóa kênh mương, vệ sinh môi trường, quỹ
khuyến học, quỹ nông dân... Giá vật tư đầu vào ngày càng tăng mà giá sản
phẩm nông nghiệp ngày càng giảm. Chỉ tính năm năm trở lại đây, giá phân
bón vô cơ tăng bình quân gấp hai lần, thuốc bảo vệ thực vật tăng 2,04 lần, giá
nhân công làm đất, tuốt lúa tăng 2,3 lần, trong khi giá lúa chỉ tăng 1,2 lần,
thậm chí có thời điểm còn giảm sâu. Tiền bán thóc đã ít, những chi phí như
thuê cày, bừa, giống, phân bón, thuốc trừ cỏ, thuê tuốt lúa… gần như lấy hết
lợi nhuận của người nông dân. Đó là còn "mưa thuận gió hòa", không bị sâu
bệnh, nếu không, có năm mất cả công lẫn vốn. Vì thế, nông dân không thiết
tha gì với đồng ruộng, nhiều người dân đã bỏ ruộng, thậm chí họ còn “làm
đơn trả ruộng”.
Hai là; người nông dân muốn trả ruộng là do các khoản đóng góp ở
nông thôn hiện nay vẫn cao.
Theo báo cáo của 46 tỉnh, thành phố và kết quả điều tra của Cục Hợp
tác xã và Phát triển nông thôn, số lượng, mức thu các khoản đóng góp của hộ
nông dân rất cao. Bình quân mỗi hộ phải chịu từ 30 đến 40 khoản đóng góp,
với mức 250 nghìn đến 800 nghìn đồng/năm. Nhiều nơi, hộ nông dân chịu
hơn 20 khoản đóng góp do xã và các tổ chức thu, mức thu bình quân 300
nghìn đến 500 nghìn đồng/hộ/năm và khoảng 10 khoản phí dịch vụ do hợp tác
xã thu, với mức 200 nghìn đến 300 nghìn đồng/hộ/năm. Cụ thể, tại Đồng bằng
9
sông Hồng có 26 khoản đóng góp, mức thu 350-500 nghìn đồng/hộ/năm; khu
vực Trung du miền núi phía Bắc có 28 khoản đóng góp với mức 250-450
nghìn đồng/hộ/năm; khu vực Duyên hải Nam Trung bộ: 28 khoản và Đồng
bằng sông Cửu Long 25 khoản, với 300-700 nghìn đồng/hộ/năm. Hai khoản
nông dân phải đóng nặng nhất là xây dựng giao thông nông thôn và trường
học, bình quân 672-872 nghìn đồng/hộ/năm, rồi đến các khoản thu phí dịch
vụ thuỷ lợi, bảo vệ thực vật, bảo vệ đồng điền… Nhà nước đã giảm hoặc thôi
thu các khoản phí trước đây quy định nông dân phải đóng góp, tưởng đâu sẽ
nhẹ đỡ cho cuộc sống của nông dân, nào ngờ họ lại phải gánh chịu các khoản
đóng góp mà xã và hợp tác xã đặt ra, thường là bổ theo số diện tích ruộng mỗi
hộ nhận khoán của hợp tác xã. Thu nhập từ cấy ruộng đã quá ít, chi phí giống
vốn, phân bón đã quá cao, lại còn phải đóng tiền mấy chục khoản phí cao, thì
nông dân chán ruộng, bỏ hoang ruộng và trả lại ruộng cũng là điều dễ hiểu.
Ba là, do thiếu nhân lực.
Do sức hút tự nhiên của các khu đô thị nên hiện nay, hầu hết thanh niên
nông thôn, thậm chí là phụ nữ, đàn ông còn sức lao động, đều cố gắng vượt
khỏi lũy tre làng của mình để đến và mưu sinh tại thành phố. Mặc dù làm việc
rất vất vả nhưng thu nhập của họ cao hơn làm ruộng. Theo tính toán của nhiều
người, một sào ruộng nếu chăm sóc tốt, có thể thu hoạch được khoảng hơn 2
tạ thóc. Với giá thóc như hiện nay, mỗi tạ bán được khoảng 1 đến 1,2 triệu
đồng. Số tiền này chỉ bằng tiền công một tuần làm phụ hồ hoặc ba buổi “chạy
chợ”. Hơn nữa, đi làm ở thành phố cũng thích hơn làm ruộng nên ở làng quê
hiện nay nhiều ngôi làng vắng bóng lao động chính, mà chủ yếu là ông già, bà
già, phụ nữ, trẻ em.
Bên cạnh đó, sự hình thành của các khu công nghiệp cũng hút hết lao
động thanh niên đến làm việc, do thu nhập cao hơn làm ruộng. Theo Kết quả
điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2012 tại 12 tỉnh vừa được Viện nghiên
10
cứu Quản lý Kinh tế Trung ương công bố vào ngày 07/8/2013, hiện nay, thu
nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp và ngoài kinh doanh hộ gia đình đóng
góp khoảng 30-40% trung bình thu nhập ròng tại hầu hết các tỉnh. Xu hướng
tìm kiếm việc làm mới có lẽ cũng là nguyên nhân chính tạo nên làn sóng di cư
ở các vùng nông thôn khi có tới 20% số hộ gia đình có ít nhất một người di cư
đi tìm việc làm. Thiếu nhân lực, nhiều hộ gia đình đã phải bỏ ruộng, trả ruộng
vì không kham nổi diện tích canh tác.
Bốn là, ruộng đất của chúng ta đang trong tình trạng rất manh mún,
phân tán gây khó trong tổ chức sản xuất.
Gần 30 năm sau đổi mới, ruộng đất nhỏ lẻ được chia theo khoán hộ
năm xưa đã góp phần làm đổi đời nông dân, nông nghiệp nước nhà thì nay
đã không còn phù hợp trong sự phát triển đi lên của nền sản xuất hàng hóa,
cơ giới hóa. Ai cũng được chia đất nên ruộng đất chia cho đầu người quá ít,
chỉ vài sào ruộng nhưng có nhiều mảnh, mỗi mảnh vài ba thước, lại nằm
cách xa nhau. Đồng manh mún, bờ vùng, bờ thửa “ăn” hết đất, điều này
khiến người dân khó có thể áp dụng các thiết bị máy móc vào sản xuất, do
đó làm cho chi phí sản xuất tăng, trong khi hiệu quả thu được lại thấp. Nói
cách khác, lợi thế đầu tư và phát triển nông nghiệp theo bề rộng và nhờ sự
giải phóng tâm lý những ngày đầu được giao ruộng đã tới giới hạn, cần được
thay bằng yêu cầu tích tụ tập trung ruộng đất và đầu tư phát triển theo bề sâu
trong nông nghiệp.
Ngoài ra còn do điều kiện sản xuất nông nghiệp quá khó khăn (thiếu
nước, đất xấu, hộ gia đình khó khăn, thiếu vốn sản xuất); do công nghiệp hóa,
đô thị hóa dẫn đến ô nhiễm môi trường đất, nước; do chính sách về đất đai và
những chính sách dành cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn đúng đắn
nhưng còn nhiều bất cập, xa thực tiễn (như: tình trạng giá vật tư nông nghiệp
không ngừng leo cao trong khi giá bán nông sản ngày càng thấp là do chính
11
sách chưa tốt cũng như công tác chỉ đạo, điều hành chưa như mong đợi; Nghị
quyết 26 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về: “Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn” cũng đã có được đến 5 năm, nhưng tác động đến người nông dân
lại không nhiều, bởi khủng hoảng kinh tế thế giới đã để lại những tác động
không nhỏ, khiến chính sách đối với lĩnh vực này chưa đạt được như mục tiêu
đề ra)… khiến người nông dân không mặn mà với ruộng đồng.
3. Để người nông dân gắn bó với ruộng đồng.
Đảng và Nhà nước đã có nhiều quan tâm hỗ trợ và chính sách thiết yếu
cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, để người
nông dân an tâm gắn bó, có tích lũy, thu nhập ổn định và thật sự biến "Tấc đất
tấc vàng", cần có thêm những đột phá trong nhận thức và hành động.
Một là, nâng cao thu nhập cho người nông dân.
Với 70% số dân làm nông nghiệp và các ngành nông lâm, thủy sản luôn
là những ngành xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam, có thể thấy kinh tế nông
nghiệp đã và đang làm tốt vai trò "bệ đỡ” của nền kinh tế. Song, nghịch lý ở
đây là, người nông dân – thành phần trọng yếu trong kinh tế nông nghiệp lại
đang có cuộc sống hết sức bấp bênh vì thu nhập từ những hạt lúa, vườn rau,
con cá… quá thấp. Vì vậy, chủ thể của nền nông nghiệp chính là người nông
dân cần được đảm bảo một cuộc sống no ấm, đủ đầy trên mảnh vườn thửa
ruộng của mình. Nếu điều này được đảm bảo, họ sẽ không bao giờ từ bỏ
mảnh đất quê hương, từ bỏ tư liệu sản xuất quý giá này để tha phương cầu
thực. Do đó, vấn đề mấu chốt ở đây là cần phải nâng cao thu nhập cho người
nông dân từ chính mảnh vườn thửa ruộng của họ, để họ sống được bằng nghề
làm nông nghiệp. Để giải quyết vấn đề này cần phát huy vai trò, sự liên kết
chặt chẽ của “4 nhà”: Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp
nhằm bảo đảm cho việc sản xuất nông nghiệp có lãi.
12
Đối với Nhà nước, phải có chính sách phát triển nông nghiệp phù hợp.
Trước mắt vẫn phải giúp cho phần lớn nông dân sản xuất nông nghiệp có lãi,
để họ yên tâm gắn bó với ruộng đồng, qua các biện pháp như thu mua lương
thực, thực phẩm theo giá cả hợp lý, bảo đảm cho nông dân trồng lúa có lãi từ
30% trở lên. Đồng thời cần phải tăng cường quản lý Nhà nước đối với thị
trường phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, các giống nhập ngoại…, chống hàng
giả nhằm đảm bảo lợi ích cho người dân, không để thương lái bắt chẹt nông
dân về giá cả mua nông sản cũng như giá bán và chất lượng vật tư nông
nghiệp, thức ăn chăn nuôi. Cần đa dạng hóa các phương thức hỗ trợ trực tiếp
và gián tiếp về vật tư, giống má trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, trợ giá các loại giống cây mới có chất lượng cao và hiệu quả thương
mại, cung ứng phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc theo giá hợp lý với
phương thức trả chậm cho nông dân; nghiên cứu đổi mới cách thức mua trữ,
giữ ổn định giá, bảo đảm đầu ra ổn định cho nông sản và bảo đảm lợi ích hỗ
trợ từ ngân sách Nhà nước đến với người dân; khuyến khích các loại hình và
sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp phù hợp.
Ngoài ra, về lâu dài, cần có cần có cơ chế chính sách khuyến khích DN
đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, nhất là trong xây dựng vùng nguyên liệu.
Qua đó, tạo ra mối liên kết bền vững giữa DN và nông dân. Đối với những
vùng chuyên canh trồng lúa phải có cơ chế chính sách khuyến khích mạnh mẽ
doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, tham gia xây dựng vùng
nguyên liệu tập trung gắn với chế biến và tiêu thụ nhằm tạo ra liên kết bền
vững giữa doanh nghiệp với nông dân và các tổ chức nông dân tại vùng. Từ
đó khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, kỹ thuật canh tác lạc hậu, chất
lượng nông sản thấp, tiêu thụ với giá rẻ.
Đối với nhà khoa học: cần đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học công
nghệ trong sản xuất nông nghiệp. Đã có nhiều nông dân năng động sáng tạo,
13
vươn lên làm giàu. Nhưng hầu hết nông dân không thể quyết định được việc
tăng năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh của nông sản. Trong khi đó,
hiện nay Khoa học công nghệ đã và đang có vai trò quyết định trong việc tăng
năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, ứng
dụng khoa học - công nghệ trong nông nghiệp vẫn là một "lỗ hổng" lớn, dẫn
đến hàm lượng "chất xám" trong nông sản thấp; những nghiên cứu về gói kỹ
thuật hạn chế; nghiên cứu về bảo quản, xử lý sau thu hoạch rất ít và tác động
trong sản xuất chưa cao. Từ năm 2008 đến nay, Nhà nước đã đầu tư hơn
3.930 tỷ đồng cho nghiên cứu khoa học, ứng dụng vào phát triển nông nghiệp,
song hoạt động này vẫn còn nhiều hạn chế và nhiều lĩnh vực thấp kém so với
các nước trong khu vực. Do vậy, trách nhiệm đặt ra đối với các nhà khoa học
là phải nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp
để nâng cao năng xuất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Ngày 10-6-2013,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 899/QÐ-TTg về việc phê duyệt
Ðề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và
phát triển bền vững. Theo đó, ngành trồng trọt sẽ được tái cơ cấu theo hướng
phát triển sản xuất quy mô lớn, tập trung gắn với bảo quản, chế biến và tiêu
thụ theo chuỗi giá trị trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm và lợi thế của từng
vùng, miền. Ðẩy mạnh áp dụng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ
cao, nhằm tăng năng suất, chất lượng, giảm giá thành và thích ứng với biến
đổi khí hậu. Tập trung đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, đặc biệt là chế
biến sâu và bảo quản sau thu hoạch theo hướng hiện đại, nhằm giảm tổn thất
sau thu hoạch và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm. Đây là yếu tố quan
trọng nhất quyết định đến việc nâng cao thu nhập cho người nông dân.
14
Đối với doanh nghiệp: cần có sự liên kết lâu bền, chặt chẽ với người
nông dân. Hiện nay người nông dân vẫn đang phải "tự bơi” với sản phẩm
của mình. Cơ chế thị trường tuy có tạo thêm giá trị cho nông sản mang tính
thương phẩm để dễ bán, song thường là đầu ra của các sản phẩm nông sản
phần lớn vẫn phụ thuộc vào các thương lái - khâu trung gian. Do đó, dù có
được mùa người nông dân vẫn lo âu, thấp thỏm, không quyết được giá cả về
sản phẩm do mình làm ra, người quyết định giá lại chính là khâu trung gian
này. Điệp khúc "được mùa rớt giá, được giá mất mùa” đã trở thành nỗi ám
ảnh của người nông dân. Do vậy, nếu như có sự kết hợp giữa người nông
dân và doanh nghiệp một cách lâu bền, chặt chẽ, có hợp đồng thu mua theo
kế hoạch, tạo cho người nông dân tâm lý ổn định, trồng cây gì, nuôi con gì
đều biết nơi mình sẽ tiêu thụ là ở đâu?… nghĩa là tạo một mối liên hệ khép
kín, thì chắc chắn người nông dân sẽ yên tâm sản xuất, bản thân doanh
nghiệp cũng sẽ không lo thiếu nguyên liệu. Và khi sự liên kết giữa nông dân
và doanh nghiệp chặt chẽ, thì khâu trung gian - thương lái sẽ không còn và
tình trạng ép giá sẽ hết "đất sống”. Điều này cũng đã được nhấn mạnh trong
đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp vừa được Chính phủ phê duyệt mới đây.
Theo đó, hệ thống tổ chức sản xuất, thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm sẽ
được cơ cấu lại theo hướng khuyến khích doanh nghiệp liên kết, ký hợp
đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản với nông dân; phát triển các nhóm nông dân
hợp tác tự nguyện, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị…
Người nông dân cần đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu, vật nuôi, cây trồng;
đẩy mạnh học tập, ứng dụng khoa học công nghệ, cách làm mới, mang lại
hiệu quả trong sản xuất để từ đó nâng cao năng xuất, chất lượng sản phẩm,
giảm bớt chi phí đầu vào, tăng thu nhập… Đó chính là những nền tảng căn
15
bản để tăng thu nhập từ nông nghiệp, gắn bó những nông dân có tay nghề cao
với đồng ruộng.
Hai là, nhanh chóng khắc phục tình trạng đất đai manh mún hiện nay.
Thực tế cho thấy, rất nhiều người vẫn cần đất để sản xuất theo quy mô
lớn, nhưng họ lại không có đất hoặc phải thuê với giá cao. Đã có nhiều nhà
đầu tư rất muốn đầu tư vào nông nghiệp, nhưng họ không mua được đất, Nhà
nước không hỗ trợ nên họ phải thuê ruộng đất của nông dân và thuê ND làm,
vì thế độ rủi ro vẫn rất cao. Ngược lại, nhiều hộ không có nhu cầu làm ruộng
hoặc đã “thoát ly” nhưng vẫn cứ giữ ruộng. Hơn nữa, có rất nhiều nơi công
nghiệp đã thu hút hết thanh niên, ở nhà chỉ có người già, trẻ con, nhưng họ
vẫn không muốn bán ruộng đất, không muốn chuyển nhượng vì giá chuyển
nhượng cũng còn quá thấp. Chính vì vậy họ vẫn phải giữ ruộng, nhưng lại
làm không có hiệu quả trong khi đó những người muốn đầu tư vào lại không
có ruộng. Ruộng đất nhỏ lẻ, manh mún theo từng hộ hiện đã không còn phù
hợp cho phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, cơ giới hóa.
Do vậy trước mắt, một mặt cần tiếp tục quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp
một cách khoa học và hiệu quả, giữ ổn định quỹ đất (nhất là bảo đảm chỉ tiêu
3,8 triệu ha đất lúa để bảo đảm an ninh lương thực). Mặt khác, khuyến khích
người dân và doanh nghiệp tự nguyện tích tụ, tập trung, dồn điền, đổi
thửa; tạo điều kiện cho nông dân được chuyển nhượng ruộng đất, để ruộng đất
thực sự là tư liệu sản xuất cần thiết của những nông dân có nhu cầu và có khả
năng đầu tư thâm canh, mở rộng canh tác và kinh doanh nông nghiệp bằng cơ
giới và công nghệ cao, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Việc thực hiện dồn điền, đổi thửa sẽ khắc phục được tình trạng ruộng
đất manh mún, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung phù hợp với
điều kiện đất đai, lợi thế canh tác từng địa phương (vùng sản xuất lúa, mía,
cây màu, rau, hoa, ...); hoàn thiện hệ thống giao thông, kênh mương nội đồng;
16
tạo thuận lợi để các hộ nông dân có điều kiện cơ giới hóa, ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất; làm tăng hiệu quả, giá trị
sản xuất nông nghiệp; đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp - nông thôn; tăng thu nhập cải thiện đời sống nhân dân, góp phần
thực hiện đạt tiêu chí xây dựng nông thôn mới.
Ba là, phải có sự hoàn thiện, chỉnh sửa Luật Đất đai, Nghị định
42/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa. Từ đó có
chính sách đất đai phù hợp để những người dân nếu không còn nhu cầu sử
dụng đất nông nghiệp được tự nguyện trả ruộng. Đồng thời khuyến khích hộ
dân có nhu cầu canh tác được tích tụ ruộng đất để phát triển sản xuất lớn. Đối
với trường hợp cố tình bỏ ruộng mà không chịu giao trả thì cần có chế tài
thích hợp để thu hồi hoặc chuyển quyền sử dụng, bảo đảm sử dụng có hiệu
quả nguồn tài nguyên đất nông nghiệp. Bên cạnh đó cũng cần linh hoạt trong
chuyển đổi diện tích canh tác lúa không hiệu quả sang trồng những cây có giá
trị cao hơn: ngô, khoai, rau màu... Nhu cầu cho nguyên liệu thức ăn chăn nuôi
rất cao, thu nhập từ các cây này cũng cao hơn rất nhiều, trong khi hàng năm
chúng ta tốn rất nhiều tiền để nhập nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Vì vậy, cần
chuyển từ việc bảo vệ đất lúa sang bảo vệ đất nông nghiệp, tránh việc thu đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế một cách bừa bãi.
Bốn là, cần tăng quy mô, đa dạng hóa cơ cấu nguồn vốn và nâng cao
hiệu quả đầu tư công cho nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; tăng nguồn
tín dụng lãi suất thấp, điều kiện vay thuận lợi và minh bạch hơn cho các hộ
nông dân và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp vào nông nghiệp, nông thôn.
Năm là, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần tăng cường
chỉ đạo, rà soát, giảm thiểu danh mục và mức độ đóng góp, giảm gánh nặng
các khoản đóng góp cho nông dân; thúc đẩy tiến độ và nâng cao chất lượng
xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là các công trình thủy lợi, kênh
17
mương, giao thông, trường học và trạm y tế; phát triển các cơ sở chế biến
nông sản và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm cho nông dân; đồng thời, đẩy mạnh
đào tạo lao động, mở mang ngành nghề, dịch vụ tạo việc làm mới cho nông
dân; kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ địa phương nói riêng,
cũng như năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước các cấp có liên quan đến nông
nghiệp, nông dân và nông thôn nói chung...
Sáu là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục lòng “yêu nghề” cho
nông dân.
Nghề nông là công việc vất vả, cực nhọc, lam lũ; người làm nông chân
lấm tay bùn, “một nắng hai sương” đòi hỏi sự chịu khó, cần mẫn. Cho nên
trong xã hội, và cả trong những người nông dân thứ thiệt vẫn có tâm lý cho
rằng đây là nghề thấp hèn trong xã hội, nghề không được “vẻ vang” cho lắm,
là nghề cuối cùng, “bắt buộc phải làm” khi người ta không thể tìm được một
công việc nào khác. Cho nên, tư tưởng của một bộ phận nông dân không ổn
định, không trăn trở với đồng ruộng, không “yêu nghề”. Có lẽ chưa bao giờ
người nông dân lại tỏ ra bi quan với đồng ruộng như hiện nay. Không những
vậy, do công việc vất vả cực nhọc, thu nhập lại thấp nên họ thường định
hướng cho con em của mình “tránh xa” đồng ruộng, “tránh xa” nghề nông.
Do vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta phải đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên
truyền để giúp nông dân tự hào về nghề của mình, yêu và bám ruộng đồng,
sống và chết vì đồng ruộng. Bởi để có đồng ruộng, nhiều thế hệ người nông
dân Việt Nam đã từng phải đánh đổi không chỉ mồ hôi, công sức mà còn có
cả sương máu. Và còn bởi đồng ruộng là tất cả đối với người nông dân, là
cuộc sống của người nông dân, là nền tảng để tạo ra mọi giá trị văn hóa, lối
sống của họ xưa kia, bây giờ, và mãi mãi sau này. Khi không còn ruộng đồng,
họ không còn là nông dân nữa. Có làm được điều này thì những giải pháp trên
18
mới phát huy tác dụng một cách hiệu quả nhất, mới làm cho người nông dân
yêu quý ruộng đồng, gắn bó với ruộng đồng một cách bền chặt.
*
*
*
Ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng nhất đối với người nông dân,
là máu thịt, là tâm hồn của nông dân. Muôn đời là thế. Nhưng người nông dân
đã làm đơn trả ruộng. Nông dân bỏ ruộng không chỉ đi ngược lại với truyền
thống của người nông dân, không chỉ là sự lãng phí đất đai, ảnh hưởng đến
vấn đề an ninh lương thực, mà còn tác động đến sự phát triển kinh tế, xã hội
đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đó chắc chắn không
phải một việc bình thường, đó là bi kịch lớn nhất của nông thôn. Khi không
còn ruộng đồng, người nông dân không còn là nông dân nữa. Chính vì vậy, sự
việc người nông dân bỏ ruộng, trả ruộng là một hiện tượng đáng lưu ý. Tình
trạng trên đòi hỏi Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng cần sớm nghiên
cứu, phân tích, đánh giá, xác định đúng nguyên nhân để định ra đường lối,
chủ trương; xây dựng mới, bổ sung, hoàn chỉnh cơ chế, chính sách, đặc biệt là
pháp luật về đất đai để tháo gỡ khó khăn cho nông dân, bảo đảm cho việc sản
xuất nông nghiệp có lãi, giúp người nông dân gắn bó với đồng ruộng, phát
triển nông nghiệp bền vững.