Mét sè vÊn ®Ò vÒ t¨ng cêng søc m¹nh qu©n sù
quèc gia ë níc ta hiÖn nay
Trải qua mấy ngàn năm tồn tại và phát triển, không một giai đoạn
lịch sử nào, dân tộc Việt Nam không phải đối mặt với họa xâm lược của
ngoại bang. Do đó, việc chăm lo xây dựng sức mạnh quân sự quốc gia, sẵn
sàng đối phó với âm mưu, hành động xâm lược của các thế lực thù địch,
bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, trở thành yêu cầu khách quan trong
lịch sử dựng nước của ông cha ta và trở thành vấn đề có tính quy luật của
sự tồn tại, phát triển của dân tộc. Ngày nay, chúng ta đang bước vào thời
kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, vì vậy yêu cầu bảo
vệ vững chắc tổ quốc, tạo môi trường hòa bình cho sự phát triển kinh tế
văn hóa xã hội trở nên bức thiết; đồng thời vì thế mà nhiệm vụ bảo vệ tổ
quốc cũng đặt ra những vấn đề mới mẻ và hết sức phức tạp; do đó nghiên
cứu vấ đề tăng cường sức mạnh quân sự quốc gia ở nước ta hiện nay có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
1. Một số vấn đề cơ bản về sức mạnh quân sự quốc gia.
Chủ nghĩa Mác-Lênin quan niệm: sức mạnh quân sự quốc gia là tổng
thể các lực lượng vật chất, tinh thần của một nhà nước và khả năng huy động
những lực lượng ấy nhằm đạt mục đích của chiến tranh hoặc các nhiệm vụ
khác. Như vậy, sức mạnh quân sự quốc gia theo quan điểm Mácxít bao gồm
nhiều yếu tố, nhiều lực lượng và mối quan hệ giữa các yếu tố, các lực lượng
đó tạo thành. Các yếu tố, các lực lượng đó tồn tại dưới hai trạng thái: trạng
thái nhân tố và trạng thái tiềm lực. Trạng thái nhân tố của sức mạnh quân sự
quốc gia phản ánh tiềm lực thực tế mà một nước đã huy động cho một cuộc
chiến tranh hoặc một nhiệm vụ quốc phòng cụ thể. Trạng thái tiềm lực là sự
2
thống nhất giữa số lượng và chất lượng của những lực lượng, phương tiện đã
có hoặc có thể động viên để sử dụng trong chiến tranh.
Trước hết sức mạnh quân sự quốc gia được tạo thành từ một hệ
thống các tiềm lực, bao gồm: tiềm lực kinh tế, tiềm lực xã hội, tiềm lực tinh
thần, tiềm lực khoa học và tiềm lực quân sự. Các tiềm lực đó tồn tại trong
thể thống nhất biện chứng tác động ảnh hưởng lẫn nhau, thâm nhập vào
nhau và chi phối nhau trong sự vận động và phát triển của sức mạnh quân
sự quốc gia. Trong hệ thống tiềm lực đó, tiềm lực kinh tế giữ vai trò nền cơ
sở vật chất cho việc xây dựng và phát triển của các tiềm lực khác và là yếu
tố suy đến cùng quyết định sức mạnh quân sự quốc gia của mỗi nước. Tiềm
lực kinh tế là khả năng về kinh tế mà một nước có thể huy động để đáp ứng
nhu cầu vật chất của xã hội, củng cố quốc phòng và tiến hành chiến tranh.
Do vậy xây dựng một nền kinh tế năng động, độc lập, tự chủ, phát triển bền
vững không chỉ là nhu cầu của quá trình xây dựng, phát triển đất nước, mà
còn là nhu cầu nội tại của việc tăng cường sức mạnh quân sự quốc gia, nhất
là trong thời đại hiện nay.
Tiềm lực xã hội là khả năng xã hội mà một nước có thể huy động
để giải quyết các nhiệm vụ xã hội, quốc phòng và chiến tranh. Về mặt cấu
trúc tiềm lực xã hội là tổng hòa các mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân
tộc, các tập đoàn xã hội, các tổ chức chính trị xã hội… thành một kết cấu
xã hội bền vững, phản ánh và dựa trên một chế độ chính trị, kinh tế của đất
nước trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Tiềm lực xã hội phản ánh bản
chất giai cấp và khuynh hướng xã hội của sức mạnh quân sự quốc gia; giữ
vai trò chủ đạo, định định sự vận động, phát triển của các tiềm lực khác.
3
Tiềm lực tinh thần là khả năng về tinh thần có thể huy động được
của một nước để tạo thành sức mạnh vật chất hiện thực cho việc giải quyết
các nhiệm vụ đặt ra. Tiềm lực tinh thần được biểu hiện trước hết ở hệ tư
tưởng, chế độ chính trị - xã hội, hệ thống các chính sách đối nội, đối ngoại
của nhà nước; trình độ nhận thức, niềm tin, ý chí quyết tâm, trạng thái tâm
lý của các thành viên trong xã hội trước các nhiệm vụ đặt ra đối với họ.
Tiềm lực tinh thần có quan hệ hữu cơ với các tiềm lực khác và ở mức độ
nhất định có thể quyết định hiệu quả sử dụng các tiềm lực khác. Trong lĩnh
vực quân sự, tiềm lực tinh thần được biểu hiện ở tinh thần sẵn sàng, ý chí
quyết tâm của nhân dân và các lực lượng vũ trang trong việc vượt qua mọi
thử thách để thực hiện nhiệm vụ quân sự, nhiệm vụ chiến đấu.
Tiềm lực khoa học là khả năng về khoa học của một nước có thể
huy động nhằm giải quyết những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của xã hội.
Nội dung của tiềm lực khoa học được xác định trước hết bằng trình độ và
tốc độ phát triển của tất cả các nghành khoa học, cả khoa học tự nhiên, xã
hội, khoa học kỹ thuật, khoa học quân sự…Mức độ huy động tiềm lực khoa
học cho nhiệm vụ quân sự và chiến tranh phụ thuộc trực tiếp vào mục đích,
tính chất của nhiệm vụ quân sự và cuộc chiến tranh, phụ thuộc vào bản chất
chế độ xã hội và trình độ phát triển lực lượng sản xuất của mỗi nước. Tiềm
lực khoa học có vai trò rất to lớn đối với sức mạnh quân sự quốc gia, cung
cấp cơ sở lý luận cho sự phát triển của tiềm lực quân sự và toàn bộ sức
mạnh quân sự quốc gia. Nó thâm nhập vào các tiềm lực khác, giúp cho mối
liên hệ giữa các tiềm lực được tăng cường, từ đó trở thành động lực thúc
đẩy các tiềm lực khác phát triển.
Tiềm lực quân sự là khả năng của một nước trong việc duy trì và
tăng cường sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang trong cả thời bình
4
và thời chiến. Nội dung của tiềm lực quân sự được biểu hiện trước hết ở
khả năng của một nhà nước định hướng cho quá trình xây dựng và phát
triển sức mạnh chiến đấu của quân đội, xác định đúng đối tượng tác chiến,
mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội và những phương thức nhằm đạt
tới mục đích, yêu cầu đó. Tiềm lực quân sự còn biểu hiện ở khả năng của
nhà nước cung cấp con người, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học quân sự
nhằm duy trì và phát triển sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhằm
đáp ứng mọi yêu cầu, nhiệm vụ trong thời bình và thời chiến. Là biểu hiện
tập trung của sức mạnh quân sự quốc gia, tiềm lực quân sự phản ánh và
phụ thuộc vào các tiềm lực khác, song tác động to lớn đối với các tiềm lực
khác. Trong chiến tranh, sự phát triển vững mạnh của tiềm lực quân sự là
bảo đảm tin cậy nhất cho sự tồn tại, phát triển của các tiềm lực khác.
Như vậy sức mạnh quân sự quốc gia là một khái niệm xác định,
nhưng trạng thái hiện thực của nó lại có thể chuyển hóa. Trong điều kiện
thời bình, các tiềm lực cấu thành sức mạnh quân sự quốc gia biểu hiện sự
tồn tại của mình dưới dạng tiềm năng, rất khó xác định một cách chính xác.
Vì vậy trước khi xảy ra chiến tranh, các bên tham chiến, tùy theo mục đích
của mình có thể khuếch trương hoặc che giấu sức mạnh thật của mình. Khi
đất nước chuyển sang thời chiến, sức mạnh quân sự cũng bắt đầu chuyển
hóa từ trạng thái tiềm năng sang hiện thực thành những nhân tố trực tiếp
quyết định tiến trình và kết cục của chiến tranh.
Sức mạnh quân sự quốc gia không phải là đại lượng bất biến mà nó
luôn luôn nằm trong trạng thái vận động và biến đổi. Bởi nó là tổng thể các
lực lượng vật chất và tinh thần của xã hội, nên sự thịnh hay suy của tình
hình kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội... đều có thể làm tăng cường hoặc
suy giảm sức mạnh quân sự quốc gia. Thậm chí, ngay cả khi chỉ có một yếu
5
tố thay đổi cũng có thể làm cho sức mạnh quân sự quốc gia tăng lên hay
giảm đi. Đồng thời, sức mạnh quân sự của mỗi quốc gia luôn luôn biểu
hiện trong tương quan so sánh với sức mạnh quân sự quốc gia của các quốc
gia khác và biểu hiện rõ nhất trong so sánh với sức mạnh quân sự quốc gia
với các nước là đối tượng tác chiến. Do vậy, bao giờ cũng phải được xem
xét một cách cụ thể trong những quan hệ xác định, trong không gian và
thời gian cụ thể, vì thế sức mạnh quân sự quốc gia của một nước có thể
chiếm ưu thế so với nước này nhưng lại có thể thua kém so với nước khác.
Hơn nữa, sức mạnh quân sự quốc gia bao giờ cũng gắn liền với nhiệm vụ
mà nó cần giải quyết; trong nhiệm vụ này, nó có thể đáp ứng và giải quyết
hiệu quả, nhưng trong nhiệm vụ khác rất có thể nó lại trở nên bất cập,
không thoả mãn được với yêu cầu nhiệm vụ. Cho nên, việc xây dựng sức
mạnh quốc gia ở mỗi giai đoạn phải dựa trên nhận thức đầy đủ tương quan
so sánh, khả năng quân sự trên thế giới mà trực tiếp là sức mạnh quân sự
của đối tượng tác chiến.
2. Một số vấn đề về tăng cường sức mạnh quân sự quốc gia ở
nước ta hiện nay.
2.1. Tăng cường sức mạnh quân sự quốc gia của nước ta hiện nay
vừa là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, vừa là vấn đề có tính cấp thiết.
Một là, xuất phát từ vai trò của sức mạnh quân sự quốc gia đối với
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN:
Sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước hiện nay, đòi hỏi chúng ta
cùng một lúc phải thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng
thành công CNXH và bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN, hướng tới mục tiêu
6
Dõn giu, nc mnh, xó hi cụng bng, dõn ch, vn minh(1). thc hin
mc tiờu ú ng, Nh nc ta phi lónh o, t chc phỏt huy sc sỏng to
lao ng ca ton dõn. quỏ trỡnh ny tr thnh hin thc, t nc phi cú
nn hũa bỡnh lõu di, bn vng. Mt nn hũa bỡnh nh th l kt qu tng hp
ca nhiu nhõn t, trong ú tng cng sc mnh quõn s quc gia cú vai trũ
quan trng c bit. Mt khỏc, s ln mnh ca cỏc tim lc, cng nh ton b
sc mnh quõn s quc gia cũn cú giỏ tr nh mt nhõn t kớch thớch s phỏt
trin ca kinh t - xó hi, trc tip to ra li th trong quan h quc t trờn cỏc
lnh vc ca i sng xó hi, cng c nim tin ca nhõn dõn vo s lónh o
ca ng, s thng li ca con ng XHCN nc ta.
Hai l, xut phỏt t tỡnh hỡnh th gii t ra:
i hi X ca ng ch rừ, mc dự trong nhng nm ti hũa bỡnh,
hp tỏc, phỏt trin vn l xu th ln (2) trờn th gii, song Nhng cuc
chin tranh cc b, xung t v trang, xung t dõn tc, tụn giỏo, chy ua
v trang, hot ng can thip, lt , ly khai, hot ng khng b, nhng
tranh chp v biờn gii, lónh th, ti nguyờn thiờn nhiờn tip tc din ra
nhiu ni vi tớnh cht ngy cng phc tp (3). Thc tin tỡnh hỡnh chớnh tr
th gii nhng nm qua cú nhng bin ng ht sc phc tp; ch ngha
quc ó can thip thụ bo bng quõn s vo cỏc quc gia cú ch quyn
nh: Nam T, Apganitxtan, Irc... Tỡnh hỡnh khng b v cuc chin chng
khng b lan rng khp ton cu e do nn c lp v an ninh ca nhiu
quc gia. Li dng cuc chin chng khng b, M sn sng tn cụng bt
c nc no c coi l khụng thõn thin, bt ho vi M, nc ta
cng khụng phi l ngoi l. Vỡ vy vn tng cng sc mnh quõn s
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb CTQG. Hà Nội. 2006, tr.41.
Sd, tr.21.
3 Sd, tr.21.
1
2
7
quốc gian đủ sức ngăn chặn các hoạt động của chủ nghĩa khủng bố và các
hành động lợi dụng chống khủng bố của chủ nghĩa đế quốc, can thiệp vào
công việc nội bộ nước ta là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Ba là, Chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ cùng bọn phản
động trong nước đang tiếp tục thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” kết
hợp với bạo loạn lật đổ nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thủ đoạn của Đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch ngày càng đa dạng,
phức tạp và hết sức khó lường. Tực hiện chiến lược: “Diễn biến hòa bình”,
chúng tìm mọi cách chống phá ta trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị,
quân sự, văn hoá, ngoại giao... hòng làm suy yếu và sụp đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Thực tiễn đời sống, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội...
những năm qua đã chứng tỏ “diễn biến hoà bình” thực sự là nguy cơ đe doạ
sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chống “diễn biến hoà
bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ trở thành nhiệm vụ cấp thiết và cấp bách của
toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đặc biệt, từ sau thất bại trong chiến tranh
Việt Nam, đế quốc Mỹ chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chống phá nước ta, thậm
chí chúng còn coi Việt Nam là một trong những trọng điểm chống phá.
Hơn nữa, ngày nay để thực hiện âm mưu bá chủ thế giới, chủ nghĩa đế
quốc đang tạo ra một cuộc chạy đua vũ trang mới. Chúng đang ra sức tìm
cách tạo ra các thế hệ vũ khí mới và xây dựng quân đội có sức cơ động nhanh,
sức chiến đấu cao... nhằm chiếm ưu thế tuyệt đối trong chiến tranh. Thực tế,
Mỹ đang trở thành siêu cường số một thế giới, với sức mạnh kinh tế và quân
sự hơn hẳn các nước khác. Các cuộc chiến tranh gần đây do Mỹ và đồng minh
của Mỹ gây nên là những cuộc chiến tranh công nghệ cao, với các loại vũ khí
trang bị hiện đại và tối tân và chiếm ưu thế tuyệt đối trên chiến trường.
8
Do vậy, nếu xảy ra chiến tranh trong tương lai do chủ nghĩa đế
quốc tiến hành, đó sẽ là cuộc chiến tranh công nghệ cao, tính chất quyết
liệt và sự tàn khốc là chưa từng có. Nó đòi hỏi chúng ta phải có tiềm lực
quốc phòng và khả năng quân sự tương ứng mới có thể bảo vệ vững chắc
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó là vấn đề rất nghiêm túc và là thách thức rất
lớn đối với nước ta.
Bốn là, khu vực Châu Á - Thái Bình dương và Đông Nam Á tiềm
ẩn những nhân tố gây mất ổn định, như tranh chấp về ảnh hưởng quyền
lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước lớn.
Khu vực Đông Bắc Á có những nhân tố mất ổn định không dễ giải
quyết, như vấn đề hạt nhân của Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên;
vấn đề lịch sử giữa Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc, tác động đến
quan hệ giữa các nước trong khu vực. Khu vực Đông Nam Á, khủng bố
vẫn là một nhân tố gây mất ổn định ở một số nước. Một số nước Đông
Nam Á, như Thái Lan, Phi Líp Pin đang có bất ổn về chính trị, xã hội, đây
chính là cái cớ để các nước lớn tác động, can thiệp. Đặc biệt vấn đề tranh
chấp Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa, Trường sa…giữa Trung Quốc
với Việt Nam và các nước trong khu vực đang tạo ra những bất đồng,
cũng như tiềm ẩn những nhân tố gây bất ổn giữa các nước.
Tình hình thế giới, khu vực đòi hỏi chúng ta phải tăng cường sức
mạnh quân sự quốc gia. Bởi vì nhiệm vụ quốc phòng an ninh, nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc vừa hết sức quyết liệt, vừa hết sức phức tạp và trở nên cực kỳ
cấp bách đối với nước ta. Đòi hỏi chúng ta phải có thái độ quan điểm,
đường lối và chính sách đúng đắn nhằm tăng cường sức mạnh quân sự quốc
gia để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, như Lênin từng viết:
9
Khi chỳng ta tr thnh i biu ca giai cp thng tr, l giai cp bt u
t chc ch ngha xó hi, thỡ chỳng ta yờu cu mi ngi phi cú thỏi
nghiờm tỳc i vi vic quc phũng (1).
Nm l, xut phỏt t thc trng sc mnh quõn s quc gia nc
ta hin nay.
Trong nhng nm qua tuy ng, Nh nc v nhõn dõn ta ht sc
chm lo s nghip quc phũng, bo v T quc. Cựng vi s phỏt trin
kinh t - xó hi, sc mnh quõn s quc gia, sc mnh chin u ca quõn
i ó c tng cng; chỳng ta cú u th v tim lc xó hi v tim lc
chớnh tr tinh thn, cú kinh nghim v ngh thut chin tranh; cú ng li
chin tranh nhõn dõn v quc phũng ton dõn, cho phộp huy ng ti a
cho nhim v bo v T quc; nhng do nhng nguyờn nhõn khỏch quan
v ch quan, sc mnh quõn s quc gia ca nc ta hin nay ang tn ti
nhng yu kộm, bt cp. Trc ht: Sc mnh tng hp v kh nng sn
sng chin u ca cỏc lc lng v trang cha c phỏt huy y (2)
V khớ trang b ca quõn i cha c hin i hoỏ, kh nng mua sm,
sn xut v khớ trang b phc v cho quc phũng cũn rt hn ch. Cụng
nghip quc phũng cha phỏt trin, ngõn sỏch quc phũng tuy ó tng
nhng nhỡn chung cũn thp, cha tho món c yờu cu nhim v. Vic
kt hp kinh t vi quc phũng ó c tng cng nhng hiu qu cha
cao. Vi nn kinh t nhiu thnh phn vn hnh theo c ch th trng cú
s qun lý ca nh nc thỡ kh nng chuyn i nn kinh t t mc ớch
dõn sinh sang mc ớch quc phũng chc chn khú khn hn; v chc chn
rng cụng tỏc ng viờn kinh t cho nhim v quc phũng cng phc tp
hn. Bờn cnh ú, tuy ó cú nhng chuyn bin tớch cc nhng nn kinh t
1
2
V.I.Lê nin. Toàn tập. NXB Tiến bộ Matxcơva. 1978. Tập 36. Tr. 358.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb CTQG. Hà Nội. 2006, tr.64.
10
ca nc ta vn cũn trỡnh rt thp so vi th gii, sc sng v sc bn
vng ca nn kinh t ca nc ta trong chin tranh (nu xy ra) vn l vn
nan gii. Hn na, ngay trong tim lc xó hi v tim lc tinh thn mt u th ca chỳng ta cng ang t ra nhiu vn cn phi gii quyt.
Tỡnh trng suy thoỏi v t tng chớnh tr, o c, li sng, bnh c hi,
ch ngha cỏ nhõn v t quan liờu, tham nhng, lóng phớ trong mt b phn
cỏn b, cụng chc din ra nghiờm trng (1). Tỡnh hỡnh khiu kin phc tp
kộo di, dõn ch nhiu ni cũn manh tớnh hỡnh thc, nhng vn dõn
tc, tụn giỏo cha c gii quyt trit ang nh hng khụng tt n
khi i on kt ton dõn, n tim lc xó hi v tim lc tinh thn trong
sc mnh quõn s quc gia.
Nh vy, t yờu cu bo v T quc trong thi k mi, t õm mu
th on v kh nng quõn s ca ch ngha quc, t thc trng sc
mnh quõn s nc ta hin nay, vn tng cng sc mnh quõn s quc
gia l yờu cu khỏch quan, cp bỏch i vi nc ta.
2.2. Quỏn trit v thc hin nhng vn cú tớnh nguyờn tc
rong xõy dng sc mnh quc gia nc ta hin nay
- Tng cng s lónh o ca ng i vi vic xõy dng sc
mnh quõn s quc gia. Quỏn trit y cỏc quan im, ng li ca
ng v bo v T quc xó hi ch ngha trong thi k mi. c bit l cỏc
quan im ca i hi IX, i hi X ca ng v xõy dng sc mnh quõn
s quc gia. ú l nhng quan im ch o trong xõy dng sc mnh quõn
s quc gia trong tỡnh hỡnh mi. Tng cng vai trũ qun lý ca nh nc
trong s nghip xõy dng quõn s, cng c quc phũng, bo v T quc xó
hi ch ngha. Khụng ngng xõy dng v tng cng cng c khi i
1
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb CTQG. Hà Nội. 2006, tr. 65.
11
đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc trong sự nghiệp quốc
phòng và an ninh. Đây chính là yếu tố quyết định, định hướng trong xây
dựng sức mạnh quân sự quốc gia.
- Quán triệt và thực hiện tốt quan điểm toàn diện và đồng bộ trong
xây dựng sức mạnh quân sự quốc gia, không được xem nhẹ hay tuyệt đối
hoá bất kỳ một yếu tố nào. Tuy nhiên, phải quán triệt quan điểm trọng tâm,
trọng điểm, phải tập trung giải quyết những mặt yếu, khâu yếu, đồng thời
phải phát huy những mặt mạnh có ưu thế trong sức mạnh quân sự quốc gia
của nước ta.
- Trên cơ sở linh hoạt, mềm dẻo, phải thống nhất đánh giá đối
tượng, đối tác, từ đó có biện pháp để đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa
ta với đối phương, đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, xác định
đúng yêu cầu nhiệm vụ để xây dựng sức mạnh quân sự quốc gia một cách
phù hợp, bảo đảm đủ sức mạnh đánh thắng kẻ thù. Nghị quyết Trung ương
VIII Khoá IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới xác định:
Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu
nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của
chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu
của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng
đấu tranh. Đây là nguyên tắc, là tiêu chí để xác định đối tượng, đối tác của
ta trong xây dựng sức mạnh quân sự quốc gia. Tuy nhiên cần phải có cách
nhìn biện chứng về vấn đề này, trên cơ sở đó, chủ động dự báo đúng các
tình huống chiến lược có thể xảy ra, nhằm xây dựng sức mạnh quân sự
quốc gia đúng hướng để tạo điều kiện mọi mặt cho việc ngăn ngừa và đối
phó có kết quả.
12
- Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ quốc phòng an ninh.
2.3. Một số giải pháp cơ bản tăng cường sức mạnh quân sự quốc
gia của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất, Tập trung phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản
xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Việc tăng cường tiềm lực kinh tế nói chung và tăng cường tiềm lực
kinh tế quân sự nói riêng là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó tạo ra
cơ sở vật chất và khả năng kinh tế cho toàn bộ hoạt động tư tưởng và tổ
chức của Đảng và Nhà nước; là cơ sở tạo nên sự thống nhất và ổn định xã
hội, là tiền đề để phát triển khoa học nói chung và khoa học quân sự nói
riêng. Đặc biệt nó còn bảo đảm nhu cầu vật chất cho sự nghiệp xây dựng và
chiến đấu của quân đội. Ph.Ăngghen khẳng định “Toàn bộ việc tổ chức,
phương thức tác chiến và do đó thắng lợi hay thất bại của quân đội đều phụ
thuộc vào điều kiện vật chất có nghĩa là điều kiện kinh tế” (1). Do đó nhiệm
vụ phát triển kinh tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo nên sức
mạnh quân sự quốc gia của nước ta. Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta phải
đổi mới toàn diện và đồng bộ hệ thống cơ chế, chính sách, tháo gỡ mọi
vướng mắc, khai thông mọi nguồn lực, giải phóng triệt để sức sản xuất,
khuyến khích đầu tư, làm giàu chính đáng. Trong đó vấn đề cốt tử là phải
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế và nâng cao hiệu
quả và vai trò của kinh tế nhà nước.
1
C.M¸c vµ Ph. ¡ngghen. Toµn tËp. NXB CTQG. Hµ Néi.1994. TËp 20. Tr. 241.
13
Đồng thời, phát triển kinh tế phải gắn liền với nhiệm vụ củng cố quốc
phòng an ninh, kết hợp tốt kinh tế với quốc phòng, tránh tuyệt đối hoá lợi ích
kinh tế mà coi nhẹ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Các công trình được xây
dựng trong các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, nhất là những vùng trọng điểm
phải phù hợp với quy hoạch từng ngành, từng vùng và khi cần thiết phải có khả
năng chủ động ứng phó với mọi tình huống để bảo vệ chủ quyền và an ninh
quốc gia. Mặt khác, vừa phải đầu tư đúng mức cho phát triển công nghiệp quốc
phòng, vừa phải tận dụng năng lực của công nghiệp quốc phòng phục vụ phát
triển kinh tế. Đầu tư phát triển kinh tế xã hội, ổn định dân cư ở các vùng xung
yếu; hoàn thiện chiến lược quốc phòng và an ninh phù hợp với tình hình mới,
phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội, mở rộng kinh tế đối ngoại.
Thứ hai, Nâng cao vai trò của hệ thống chính trị XHCN, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đây là vấn đề có ý nghĩa then chốt trực tiếp tăng cường tiềm lực xã hội,
tiềm lực tinh thần, đồng thời cũng là động lực thúc đẩy các tiềm lực khác phát
triển, phục vụ tốt cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc. Trong việc nâng cao vai trò của hệ thống chính trị thì vấn đề có ý nghĩa
quyết định là nâng cao vai trò và hiệu lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng,
nâng cao vai trò và hiệu lực tổ chức quản lý, điều hành của Nhà nước.
Thực tế cách mạng Việt Nam đã chứng minh vai trò lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng đại diện và bảo vệ
lợi ích cho mọi tầng lớp nhân dân lao động và của cả dân tộc, Đảng tập hợp xung
quanh mình khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo thành sức mạnh tổng hợp giành
hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế hiện nay, đòi hỏi Đảng phải tự chỉnh đốn, đổi mới
14
phương thức và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; làm tốt
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ
nghĩa cá nhân. Phải tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, công tác tổ chức, xây dựng
củng cố các tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh. Trong đó vấn đề cấp bách là thực
hiện có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và lãng phí;
tăng cường dân chủ và kỷ luật trong Đảng; khắc phục tình trạng suy thoái về tư
tưởng, chính trị đạo đức, lối sống, làm trong sạch Đảng, lấy lại uy tín và củng cố
lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN vững
mạnh, thực sự là công cụ hữu hiệu trong quản lý linh tế, quản lý, điều hành xã
hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Trong đó cần tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, khắc
phục tình trạng cồng kềnh, kém hiệu quả trong bộ máy hành chính. Tiếp
tục hoàn thiện thể chế; cơ chế, chính sách; nâng cao phẩm chất, năng lực của
đội ngũ cán bộ công chức.
Đồng thời, cần phải chăm lo khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Phải ưu tiên giải quyết dứt điểm những vấn đề xã hội bức xúc, khắc
phục tình trạng khiếu kiện kéo dài; kết hợp đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo
dục nhân dân, xây dựng cơ sở chính trị kết hợp với phát triển kinh tế xã hội, xóa
đói giảm nghèo, nâng cao mức sống, dân trí cho đồng bào nhất là đồng bào các
dân tộc ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo. Thực hiện tốt dân chủ trong
đảng và toàn xã hội. Có chính sách tôn giáo, chính sách dân tộc đúng đắn, kịp thời
phát hiện, ngăn chặn mọi âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Mở
rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân.
15
Thứ ba, Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ, chú trọng phát
triển khoa học công nghệ quốc phòng, quân sự; đảm bảo cho việc tăng cường sức
mạnh quân sự quốc gia.
Thực tế hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra với tốc
độ nhanh chưa từng thấy, đang thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực, các quan hệ và
mọi hoạt động của đời sống xã hội, trở thành một động lực hết sức quan trọng
thúc đẩy sự phát triển mọi mặt đời sống xã hội; do đó chúng ta phải có quan điểm,
đường lối và chính sách đúng đắn để phát triển khoa học và công nghệ. Phải đầu
tư đúng mức cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và giáo dục đào tạo.
Xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học mạnh, ứng dụng kịp thời và có
hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất đời sống và quốc phòng
an ninh. Đồng thời phải có cơ chế, chính sách khuyến khích và tôn vinh đối với
hoạt động sáng tạo khoa học. Đầu tư phát triển khoa học một cách cân đối, hài
hoà, bao gồm cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học cơ bản và khoa học
ứng dụng... làm cho khoa học theo kịp những đòi hỏi của đời sống và đi trước
cuộc sống, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển và tạo điều kiện để củng cố quốc
phòng an ninh.
Thứ tư, Xây dựng Quân đội nhân dân Việt nam cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Quân đội là lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân, của thế trận
chiến tranh nhân dân, vì vậy để Quân đội không ngừng lớn mạnh và hoàn thành
chức năng nhiệm vụ của mình, cần chăm lo xây dựng một cách toàn diện, lấy xây
dựng về chính trị làm cơ sở. Trong điều kiện hiện nay, đi đôi với việc tăng cường
cơ sở vật chất kỹ thuật, từng bước hiện đại hoá vũ khí trang bị, cần làm tốt công
tác xây dựng tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, đảm
16
bảo cho Quân đội trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; đồng thời
có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần đáp ứng và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
được giao. Không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, nâng cao trình độ trình
độ chiến đấu và sức chiến đấu của Quân đội, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và
hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới
và lợi ích quốc gia dân tộc. Đối với đội ngũ cán bộ Quân đội, cần hướng vào xây
dựng bản lĩnh chính vững vàng, có trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ
ngày càng cao; có phẩm chất đạo đức lối sống lành mạnh, giản dị; kế thừa và phát
huy truyền thống vẻ vang của Đảng, của dân tộc; có năng lực chỉ huy và tác chiến
thắng lợi trong bất cứ tình huống nào.
Tóm lại, xây dựng và tăng cường sức mạnh quân sự quốc gia ở nước ta là
vấn đề có tính quy luật, vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa cấp thiết hiện
nay. Để tăng cường sức mạnh quân sự quốc gia của nước ta hiện nay, chúng ta
phải có quan điểm, có đường lối, chính sách đúng đắn, khoa học, vừa phản ánh,
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, củng cố quốc phòng, vừa phù
hợp với điều kiện, khả năng kinh tế xã hội ở nước ta. Trong đó, việc tập trung phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học công nghệ, tăng cường vai trò và hiệu lực
của hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại là những
vấn đề có ý nghĩa trực tiếp nhất đối với viêc tăng cường sức mạnh quân sự quốc
gia ở nước ta hiện nay.