Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO dân tộc học XUNG đột dân tộc, XUNG đột GIỮA NGƯỜI DAYAK và MADURA ở tây KALIMANTAN INDONESIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.93 KB, 18 trang )

XUNG ĐỘT GIỮA NGƯỜI DAYAK VÀ MADURA
Ở TÂY KALIMANTAN (BORNEO), INĐÔNÊXIA
Ở Inđônêxia, vào thập kỷ cuối của thế kỷ trước, xung đột sắc tộc bùng
phát với mức độ và trên quy mô chưa từng thấy. Năm 1995-96 có những cuộc
nổi dậy tại Situbondo, Tasikmalaya và các vùng khác nữa của đảo Jawa.
Những năm tiếp theo, từ 1997 đến 2002 ước tính ít nhất có 10000 người bị
giết hại trong các cuộc bạo lực sắc tộc trên khắp quần đảo(1). Chúng ta đang
nói đến bạo lực ở Maluku, ở Đông Timor, ở Aceh, ở Irian Jaya (Papua). Một
trong những mối xung đột sắc tộc ấy, xung đột giữa người Dayak và Madura
ở Tây Kalimantan (Borneo) là chủ đề của bài viết thu hoạch này. Bài viết sẽ
lần lượt đề cập đến các vấn đề sau: người Dayak và người Madura là ai, tình
tiết những xung đột và cách lý giải những xung đột đó.
1. Để hiểu được những gì diễn ra, trước hết, cần tìm hiểu về hai nhóm sắc
tộc này ở Tây Kalimantan. Người Dayak là cư dân bản xứ, lúc ban đầu chiếm
khoảng 41-43% dân cư, trong khi người Madura chỉ chiếm 2,75%. Người ta
thường dùng thuật ngữ “Dayak” để chỉ hàng trăm tiểu nhóm sống trên đảo
Borneo có phương ngữ và truyền thống văn hóa riêng nhưng liên quan đến nhau.
Đôi khi các nhóm đó cũng khó hiểu được phương ngữ của nhau. Thuật ngữ này
được dùng chính thức để khu biệt họ với các nhóm người khác như người
Melayu, Hoa hay Jawa. Hầu hết người Dayak ở Tây Kalimantan là nông dân,
phát nương làm rẫy, trồng lúa gạo, nhưng rừng vẫn là nguồn quan trọng cung
cấp thuốc men, hoa quả, v.v… Họ ít di trú, đa số theo Thiên chúa giáo, nhưng
vẫn bảo tồn nhiều đức tin và những tập tục bản xứ.
Người Madura có vị thế hoàn toàn khác. Họ đến Tây Kalimantan từ
đảo Jawa theo từng nhóm nhỏ. Con số người di cư tăng dần vào những năm


2
30 và 40 của thế kỷ XX với tư cách nhân công phát rừng và lập đồn điền theo
các hợp đồng và giao kèo. Từ những năm 70 trở đi, con số này tăng lên đáng
kể. Nhiều người Madura sống ở thành phố làm nghề chở xích lô, chở phà, culi


bốc vác, buôn bán vặt, phụ nữ chủ yếu bán rau quả. Còn ở nông thôn, họ làm
ruộng nương như người Dayak. Người Madura là những tín đồ Islam mộ đạo,
đều mong ước trở nên khá giả để có thể hành hương đến Mecca.
Nhìn sơ bộ, giữa người Dayak và người Madura khởi đầu đã có những
điểm khác biệt nổi bật, nếu không nói là đối lập:
+ Người Dayak: dân bản xứ, phần đông theo Công giáo
+ Người Madura: dân di cư, chủ yếu theo Islam
2. Xung đột trên quy mô rộng lớn giữa người Dayak và người Madura
nổ ra tháng 12-1996. Ngày 29-12 một người Madura đâm hai thanh niên
Dayak ở Ledo (Tây Kalimantan). Đây là sự trả thù cho vụ đánh nhau diễn ra
từ ngày 6-12, khởi đầu là chuyện một người Madura quấy rối một cô gái
Dayak. Khi tin tức về vụ đâm người lan truyền, mấy trăm người Dayak bắt
đầu tấn công khu dân cư Madura, thậm chí giương cao những biểu ngữ đòi
đuổi người Madura, đòi lại đất đai mà họ đang ở. Chỉ trong vòng vài ngày
những cuộc tấn công nổ ra ở Sanggau, Ledo và các vùng lân cận dẫn đến sự
phá hoại tập thể một số làng của người Madura. Một số nhóm Madura trả đũa,
nhưng phần lớn trốn chạy vào nơi quân đội đồn trú. Đến ngày 6-1 tình hình
tạm lắng xuống, nhưng rồi sau đó ít ngày, làn sóng bạo lực thứ hai bùng lên,
căng thẳng hơn. Bị một nhóm người Dayak tấn công giáo đường Hồi giáo,
ngày 28-1 một nhóm người Madura tấn công một trường nội trú của đạo
Thiên chúa và đâm chết hai cô bé Dayak. Một nhóm người Madura ở huyện
Salamantan đốt nhà của một số người Dayak mà hầu hết là công chức nhà
nước. Những cuộc tấn công này càng làm cuộc chiến giữa các cộng đồng
người Dayak và Madura căng thẳng thêm. Trong hai tuần liên tục diễn ra các


3
cuộc tấn công và trả đũa. Chỉ trong một cuộc tấn công đã có 131 người chết
và nhiều nhà cửa của người Madura bị đốt phá. Lực lượng vũ trang can thiệp
bảo vệ người Madura, bắn vào nhóm người Dayak tấn công. Hầu hết bạo lực

diễn ra ở ba huyện Sambas, Sanggau và Pontianak đều nằm gần thủ phủ
Pontianak của Tây Kalimantan, nhưng nhiều người Dayak ở các vùng khác
cũng kéo đến tham gia. Sau các cuộc hỗn chiến, ước chừng 500 người chết và
hơn 20 ngàn người Madura bị mất nhà ở(2), nhưng con số tử vong mà các lãnh
tụ Nhà thờ Thiên chúa giáo đưa ra cao hơn rất nhiều(3).
Bạo lực chống người Madura xảy ra năm 1999 phức tạp hơn, bởi vì ban
đầu nó phát sinh từ xung đột giữa người Madura và người Melayu. Vào ngày
19-1, ngày cuối của tháng Ramadan, khoảng 200 người Madura tấn công vào
làng người Melayu, trả thù những người Melayu đã đánh một người Madura ăn
cắp trong làng Melayu. Tiếp đó, ngày 21, một người lái xe buýt Melayu bị
thương trong cuộc ẩu đả với một người Madura vì người này không chịu trả
tiền đi xe. Ngay ngày hôm sau, có tới 300 người Madura đi truy tìm người lái
xe đó, bị nhóm người Melayu đáp lại bằng súng. Thế là sự náo loạn lan rộng và
khi một người Dayak bị giết, bạo lực lôi cuốn cả người Dayak. Làn sóng bạo
lực kéo dài mấy tuần, cho đến tháng 4. Theo đánh giá của chính phủ, 186 người
chết, tài sản bị phá huỷ nhiều và ít nhất 26 ngàn người Madura phải đi tị nạn(4).
Ở Trung Kalimantan xung đột giữa người Dayak và Madura mà khởi
đầu là cuộc ẩu đả giữa những người Dayak và Madura trong một quán
karaoke tháng 12-2000 cũng gây hậu quả thật tồi tệ. Đến đầu tháng 3 có 486
người chết, hầu hết là người Madura, khoảng 108 ngàn người Madura và sau
đó là toàn thể cộng đồng Madura phải rời bỏ tỉnh này. Bạo lực ở Trung
Kalimantan rõ ràng có liên quan đến bạo lực ở Tây Kalimantan năm 1996-97,
vì người Dayak ở cả Tây và Trung Kalimantan cùng bị tước đoạt về kinh tế
và chính trị như nhau dưới chế độ Trật tự Mới.


4
Ngoài ra, còn xảy ra nhiều cuộc ẩu đả lẻ tẻ khác nữa.
3. Trong lĩnh vực nghiên cứu về xung đột sắc tộc nói chung, hầu hết
các học giả đều nhất trí quan điểm rằng, xung đột nổi lên không phải từ ý thức

thuần tuý về bản sắc của nhóm. Có ba cách tiếp cận phổ biến nhất để giải
thích tại sao đôi khi sắc tộc lại trở thành kênh cho cuộc chiến chính trị và
xung đột. Cách tiếp cận “xây dựng” (Constructivist) nhấn mạnh bối cảnh xã
hội và lịch sử hình thành, làm biến đổi và vạch ra những ranh giới dân dộc
cũng như các nền tảng của xung đột(5). Những người theo thuyết “công cụ”
(Intrumentalist) thì tập trung vào vai trò của élite, tầng lớp tinh tuý nhất, của
dân tộc trong việc đề cao bản sắc dân tộc. Các lãnh tụ có những lời kêu gọi
mùi mẫn về bản sắc dân tộc để tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng trong cuộc
cạnh tranh quyền lực nhà nước, các nguồn lực và những lợi ích cá nhân (6).
Còn người theo thuyết “nguyên thuỷ” (Primodialist) nhấn mạnh sự kế thừa
các đặc điểm dân tộc ngay từ khi ra đời và tính không thể thay đổi của ranh
giới nhóm. Họ cho rằng các nhóm sắc tộc thiên về thái độ thù địch xuất phát
từ bản chất những khác biệt của nhóm mình (7). Song, cả ba cách tiếp cận lại
không đề cập đầy đủ đến mối liên hệ giữa chủ nghĩa dân tộc, các thể chế và
mối quan hệ giữa các nhóm sắc tộc.
Trong trường hợp cụ thể xung đột Dayak-Madura, cũng có thể lý giải
theo nhiều cách. Những người đứng từ góc độ văn hoá nhấn mạnh đến mối
quan hệ đặc biệt không tương hợp giữa người Dayak (cho rằng giết một người
nào đó là tấn công vào toàn thể cộng đồng) và người Madura (luôn mang theo
người vũ khí lạnh và nhanh chóng lao vào cuộc chiến). Hơn nữa, vì người
Madura không tôn trọng các giá trị và phong tục tập quán của người Dayak.
Điều này xuất phát từ thực tế rằng người Dayak chỉ nhằm vào người Madura
chứ không nhằm vào các nhóm người nhập cư nào khác như người Jawa,
Melayu hay Hoa. Tuy nhiên, cách giải thích này phiến diện ở chỗ chỉ mô tả


5
theo khuôn mẫu những hành động và cách ứng xử của người Dayak và
Madura mà không xem xét đến bối cảnh chính trị xã hội tạo nên những khuôn
mẫu ấy. Cách giải thích thứ hai tập trung vào những hành động khiêu khích.

Họ lập luận rằng những sự kiện ở Kalimantan gắn liền với các xung đột ở
Jawa và là kết quả của âm mưu khiêu khích gây bất ổn chính trị. Cái được coi
là cớ chính là cuộc tổng tuyển cử năm 1997 và Hội đồng Tư vấn Nhân dân
(MPR) nhóm họp năm 1998. Cách lý giải này mang tính chính trị thuần tuý.
Còn cách giải thích kinh tế nhằm vào sự cạnh tranh kinh tế. Trong số các
nhóm dân di cư, người Hoa giàu có hơn cả, còn hầu hết các nhóm khác đều
nghèo như người Dayak. Nhưng người Dayak không cạnh tranh với người
Hoa, mà với người Madura, vì họ lo mất việc làm ở địa phương (họ chủ yếu
làm ruộng nương) và lo mất đất đai khi người di cư ngày một đông theo
chương trình của chính phủ cũng như di dân tự do. Đất đai họ canh tác từ xa
xưa nay bị tước đoạt, rừng bị giao vào tay các công ty chặt đốn rừng và khai
thác gỗ. Tuy nhiên, cách lý giải này không đề cập đúng mức tới môi trường
thể chế và chính trị, yếu tố gây những mối căng thẳng và những biên giới dân
tộc càng được nhấn mạnh. Cả ba cách lập luận trên riêng rẽ không thể giải
thích thấu đáo những gì đã diễn ra, nhưng mỗi cách góp phần làm cho bức
tranh đầy đủ hơn.
Như vậy, trong trường hợp xung đột giữa người Dayak với người
Madura, cách tiếp cận thể chế-kinh tế-văn hoá là thích đáng. Khi phân tích sự
thay đổi bối cảnh và các thể chế ta có thể hiểu rõ hơn lý do tại sao các nhóm
sắc tộc đôi khi chọn bạo lực hơn là những phương sách hoà bình để giải quyết
những mối bất bình. Tiếp theo ở đây sẽ không nhắc lại những nét không
tương hợp về văn hoá nữa, mà tập trung vào những biến đổi về bối cảnh chính
trị, kinh tế và thể chế.


6
Có thể nói, người Dayak bắt đầu bị “thất sủng” với nhà nước từ cuối
thời kỳ Sukarno và bị coi là “lạc hậu”, “cô lập”, “ban sơ và bị gạt ra ngoài
nhịp độ phát triển xã hội từ thời kỳ Trật tự mới (New Order) của tổng thống
Suharto. Trước đó, từ thời thực dân Hà Lan đô hộ, các nhóm người Dayak có

số lượng lớn, sống thành nhiều nhóm bộ lạc rải rác, sâu trong nội địa của đảo
Kalimantan, trong khi những luật lệ thuộc địa chỉ liên quan tới các miền
duyên hải. Liên minh Dayak (do một nhóm nhỏ người Dayak thành lập năm
1919, có tên gọi Sarekat Dayak, đến năm 1926 đổi thành Pakat Dayak) ủng
hộ người Hà Lan chống lại cộng hoà Inđônêxia để tránh không bị trở thành
một phần của nước Inđônêxia Hồi giáo, vì phần lớn người Dayak theo Thiên
chúa giáo. Theo hiệp định Linggadjati năm 1946, người Hà Lan và nước cộng
hoà Inđônêxia nhất trí cơ cấu liên bang, trong đó lập ra một đơn vị hành chính
bán tự trị có tên gọi Dayak Besar (Đại Dayak). Lãnh thổ mới này tách biệt
khỏi miền Nam Kalimantan do người Banjar thống trị. Và đến hiệp định thứ
hai giữa người Hà Lan và Cộng hoà Inđônêxia năm 1949 thì Dayak Besar đã
trở thành một bang lập hiến. Lần đầu tiên người Dayak có đại diện trong các
thể chế. Nhưng đến năm 1950, khi liên bang được thay thế bằng một quốc gia
nhất thể, người Dayak mất sự đại diện mà họ mới giành được trước đó ít lâu.
Dayak Besar và Đặc khu Tây Kalimantan trở thành một tỉnh của Kalimantan,
bao gồm toàn bộ phần lãnh thổ của Inđônêxia ở đảo Borneo. Chỉ còn rất ít
người Dayak được giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy hành chính. Nhân
vật nổi bật nhất là Tjilik Riwut, người đã từng là lãnh tụ du kích ủng hộ nước
cộng hoà nên được giữ chức vụ cao nhất, huyện trưởng (bupati). Có một số
người ủng hộ Riwut và chính phủ Inđônêxia, song, số đông lại đòi duy trì sự
tồn tại của bang lập hiến Dayak Besar, cho nên, từ đó người Dayak bị mang
tiếng xấu với chính phủ. Hậu quả là người Dayak không có đại diện trong
Nghị viện Quốc gia Lâm thời ở Jakarta. Những năm tiếp theo, người Dayak


7
vẫn kiên trì đấu tranh đòi một tỉnh tự trị, tổng thống Sukarno nhân nhượng và
ký sắc lệnh thành lập tỉnh Trung Kalimantan do Riwut làm thống đốc vào
tháng 5-1957. Nguyện vọng của họ đã đạt được.
Ngay khi chế độ Trật tự Mới bắt đầu, người Dayak bị đẩy ra ngoại

biên. Họ mất hầu hết đại diện trong các cơ quan nhà nước cũng như trong
chính quyền trung ương. Dưới chế độ Trật tự Mới không có một thống đốc
nào của Tây Kalimantan là người Dayak, chỉ có một vài huyện trưởng là
người Dayak. Ở cấp độ quốc gia, không có người Dayak nào giữ chức vụ cao
trong nội các, quân đội hay các cơ quan cao cấp của chính phủ.
Hơn nữa, làn sóng dân di cư theo chương trình của chính phủ tràn vào,
chiếm đoạt, khai thác đất đai và rừng ở Kalimantan là mối đe doạ ngày càng
lớn đối với người Dayak.
Như trên đã nói, cùng với người Papua ở đảo Irian Jaya và nhiều nhóm
nhỏ khác ở các vùng sâu vùng xa, người Dayak bị coi là “lạc hậu”, là “những
công dân Inđônêxia không đầy đủ”. Chính phủ, vì không hiểu rằng rừng nhiệt
đới vẫn là nguồn thực phẩm, thuốc chữa bệnh và những thứ thiết yếu của
người Dayak, đã đưa ra những chương trình tái định cư cho họ, chuyển họ từ
vùng sâu về các làng tuân thủ các tiêu chuẩn “Inđônêxia”. Chính quyền thôn
phải học những chuẩn mực quốc gia, cơ cấu mới thay thế những hình thức
cầm quyền và trật tự xã hội truyền thống của địa phương. Cũng vì không nhận
thấy, rằng mặc dù là những người sống bằng phương thức đốt nương làm rẫy,
nhưng người Dayak không hề đốt phá rừng một cách bừa bãi, mà họ rất biết
nâng niu, bảo bệ và quản lý rừng(8), chính phủ đã coi phương thức canh tác lúa
nương và lối sống nhờ vào rừng núi theo tục lệ của họ là không có hiệu quả
và có hại cho môi trường, buộc họ canh tác lúa nước theo kiểu người Jawa và
các nhóm dân di cư khác.


8
Các chính sách quản lý nguồn tài nguyên của Trật tự Mới càng đẩy
người Dayak ra xa hơn. Theo Lâm luật (Undang-Undang Pokok Kehutanan)
No.5 ban hành năm 1967, chính phủ Inđônêxia cho phép chặt đốn rừng rộng
rãi và dài hạn trên khắp lãnh thổ Tây và Trung Kalimantan. Từ đó các đối tác
làm ăn của chế độ không tôn trọng các yêu cầu bảo vệ rừng và dân cư sống

trong rừng. Theo luật pháp, đất đai là sở hữu của nhà nước và người Dayak
không có quyền sử dụng rừng như bấy lâu họ vẫn sử dụng.
Trong những năm 60 của thế kỷ XX làn sóng dân di cư đổ đến
Kalimantan ồ ạt, cả theo chương trình của chính phủ lẫn di dân tự do. Trong làn
sóng ấy, người Madura là nổi bật nhất vì con số tăng nhanh (từ 0,6% năm 1971
tăng lên 2,5% năm 1979). Ở Pontianak, người Madura chiếm 13,09% dân số
trong khi người Dayak là 2,5% năm 1979. Họ nổi bật hơn nữa bởi vì họ sống
thành những cộng đồng tách biệt. Nhiều người khai khẩn những khu vực có
rừng và định cư dọc theo đường cái càng tạo điều kiện cho các công ty chặt
đốn rừng, lập đồn điền cọ dầu và dừa cùng các khu của người nhập cư (9). Hơn
nữa, trong khi người Dayak bị rẻ rúng thì người Madura được coi là nhóm tiến
bộ trong các chính sách của Trật tự Mới. Sự nổi bật này gây cho người Dayak
những oán thán (thực ra là oán hận chính phủ và chế độ Trật tự Mới).
Tuy nhiên, trật tự Mới vững chắc và độc đoán, có lực lượng vũ trang
sẵn sàng đàn áp, cho nên người Dayak yếu thế không thể nhằm thẳng vào
chính quyền để đòi lại quyền lợi cho mình cũng như để trút những nỗi bất
bình vì ngày càng bị đẩy ra khỏi sự phát triển xã hội, họ đành “giận cá chém
thớt”, trút những nỗi bất bình, oán hận vào nhóm người Madura - sự hiện diện
sống động của những biến đổi chính trị-xã hội và kinh tế do Trật tự Mới gây
ra. Và những mâu thuẫn nhỏ giữa các thành viên của hai cộng đồng là cớ để
xung đột bùng phát.


9
Như vậy, chế độ Trật tự mới đã tạo ra những loại người bị đẩy ra ngoại
biên, mất hết sự kiểm soát không chỉ kinh tế, mà cả chính trị trong khu vực cư
trú của mình, đẩy họ vào ngõ cụt.
Bạo lực xảy ra năm 1997-98 là khi chế độ của Suharto đã gần đến hồi
kết và cuộc khủng hoảng chính trị đang đến. Trong bối cảnh ấy, người Dayak
cho rằng bạo lực có thể mang đến những khả năng lấy lại thế cân bằng đã

mất. Và sau khi chế độ Trật tự Mới sụp đổ, sự bất ổn chính trị tác động đến tất
cả các vùng của Inđônêxia cũng là cơ hội để người Dayak chấm dứt ba thập
kỷ bị tước đoạt quyền lợi chính trị và kinh tế.
Nói tóm lại, để có thể hiểu rõ hơn những điều kiện dẫn đến bạo lực,
ngoài những đặc điểm văn hoá tộc người, cần tìm hiểu về sự hình thành các
thể chế, các mối quan hệ dân tộc do chúng tạo nên và sự biến đổi của chúng.
Qua xung đột giữa người Dayak và Madura ở Tây Kalimantan, có thể rút ra
mấy kết luận sau:
Những khát vọng, mối bất bình và sự sợ hãi hầu hết bắt nguồn từ bối
cảnh chính trị, kinh tế, xã hội hay văn hoá bị biến đổi. Sự biến đổi về thể chế
chính trị làm tăng khả năng xảy ra bạo lực và bạo lực là một trong các kênh
để giải quyết những bức xúc.
Mối lo sợ bị dân tộc khác thống trị, áp bức là một động lực vươn tới
quyền lực.
Đôi khi élite đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hay nối
kết các sự kiện dẫn đến bạo lực. Ở đây nói đến hai cấp độ, cả cấp độ sắc tộc
(dân tộc) và cấp độ trung ương.
Về xung đột Dayak-Madura có lẽ còn có thể đề cập từ các góc độ khác
nữa, chẳng hạn xung đột tôn giáo giữa người Hồi giáo và Thiên chúa giáo
(người Madura chủ yếu theo Hồi giáo còn phần lớn người Dayak theo Thiên
chúa giáo), chủ nghĩa dân tộc, v.v... Thiết nghĩ, bài học rút ra từ xung đột ở


10
Tây Kalimantan có thể hữu ích phần nào cho việc giải quyết những bất ổn ở
Tây Nguyên Việt Nam.
4. Xử lý mối quan hệ dân tộc từ góc độ lợi ích các dân tộc. Việt Nam là
một quốc gia đa dân tộc, người Kinh chiếm 86,2%; 53 dân tộc anh em khác,
với khoảng 14 triệu người, chiếm 13,8% dân số cả nước. Các dân tộc thiểu số
cư trú trên địa bàn rộng, chủ yếu ở miền núi, vùng cao, vùng trung du, nơi có

khoảng 3.000 km đường biên giới giáp với các nước Trung Quốc, Lào, Campu-chia, được coi là "phên dậu" của quốc gia, có ý nghĩa quan trọng đối với
phát triển kinh tế - xã hội và an ninh, quốc phòng của đất nước.
Xử lý một cách đúng đắn mối quan hệ dân tộc trong một quốc gia đa dân
tộc để các dân tộc cùng đoàn kết, phát triển, chống lại âm mưu ly khai, tự trị là
vấn đề rất quan trọng, liên quan đến sự sống còn của chế độ. Điều này đòi hỏi sự
tham gia của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của
Đảng, quản lý của Nhà nước, cùng thực hiện một chính sách dân tộc nhất quán,
liên quan đến toàn bộ các lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội.
Nắm chắc và toàn diện các vấn đề trong nước, quốc tế để xử lý đúng
đắn mối quan hệ dân tộc, thực hiện bình đẳng, tăng cường đoàn kết, giúp đỡ
nhau, có chính sách hỗ trợ các dân tộc thiểu số khó khăn. Giải quyết hài hòa
mối quan hệ lợi ích giữa các dân tộc, chúng ta mới tập hợp, đoàn kết được các
dân tộc, duy trì thống nhất đất nước và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Cụ thể tập
trung các lĩnh vực:
Về chính trị: Bảo đảm quyền làm chủ của các dân tộc, chú trọng đào
tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số, để đội ngũ này ngày
càng có khả năng gánh vác nhiều hơn công việc của địa phương; tăng số
lượng đại biểu của các dân tộc thiểu số trong Quốc hội và Chính phủ. Trang
bị nhân lực, vật lực giúp mỗi dân tộc thiểu số dần dần tự quản lý được mọi
công việc của mình, với sự hỗ trợ của các dân tộc anh em. Thực hiện tốt Quy


11
chế Dân chủ ở cơ sở, xóa bỏ những quy định mang tính bất bình đẳng, loại bỏ
thành kiến giữa các dân tộc. Các dân tộc được tự do bày tỏ nguyện vọng và
mong muốn của mình.
Về kinh tế: Phát triển kinh tế, tập trung xóa đói, giảm nghèo vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Khuyến khích đồng bào chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng sản xuất hàng hóa, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Tổ chức định
canh, định cư; phát triển chăn nuôi, cây công nghiệp, trồng rừng; đầu tư xây

dựng kết cấu hạ tầng, tăng cường cho đồng bào tiếp cận với khoa học - kỹ
thuật trong sản xuất.
Về văn hóa - xã hội: Có chính sách bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ
viết của các dân tộc thiểu số, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như: các
làn điệu dân ca, lễ hội... Tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo và phong tục tập quán
của các dân tộc thiểu số; xử lý thỏa đáng mâu thuẫn và vấn đề ảnh hưởng tới
quan hệ dân tộc. Làm tốt công tác định canh, định cư và thành thị hóa vùng
đồng bào dân tộc thiểu số; bảo đảm quyền lợi chính đáng của các dân tộc theo
pháp luật. Chú trọng công tác giáo dục, phát triển loại trường thanh niên dân
tộc vừa học vừa làm; xóa bỏ các hủ tục lạc hậu. Đẩy mạnh công tác chăm sóc
sức khỏe, giữ vệ sinh môi trường...
Về đoàn kết các dân tộc: Tuyên truyền, giáo dục đoàn kết, phát huy
tinh thần dân tộc, trong đó coi chủ nghĩa yêu nước là hạt nhân, làm cho mối
quan hệ giữa dân tộc đa số và thiểu số ngày càng gắn bó sâu sắc. Kiên quyết
tấn công và phòng ngừa các hoạt động chia rẽ, ly khai, phá hoại của các thế
lực lợi dụng vấn đề tôn giáo được tiến hành ở trong nước và ngoài nước.
5. Khối đại đoàn kết keo sơn - nhân tố phá vỡ âm mưu chia rẽ của các
thế lực thù địch. Truyền thống đoàn kết của dân tộc ta được hình thành từ trong
cội nguồn lịch sử sâu xa. Người Việt Nam ý thức rằng, mình sinh ra cùng một
bọc trứng, gắn với nhau bởi nghĩa "đồng bào", dù sống ở đâu đều có chung một


12
cội nguồn, một ngày giỗ Tổ Hùng Vương. Truyền thống đó được hun đúc qua
bề dày lịch sử chống ngoại xâm và xây dựng đất nước, đã tồn tại như một quy
luật sinh tồn của dân tộc. Ở thời kỳ nào nhân dân đoàn kết "trên dưới một lòng"
thì đất nước hưng thịnh, thời kỳ nào "lòng người ly tán, chia rẽ và loạn ly" là
lúc dân tộc suy vong, thù trong giặc ngoài, có nguy cơ mất nước.
Học tập tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đoàn kết là truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các

chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình"(10). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội do Đại hội VII đã khẳng định: "Đoàn kết là truyền thống quý báu
và bài học lớn của cách mạng nước ta"(11). Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh:
"Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ
nhau cùng phát triển, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần,... giữ gìn, làm
giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc" (12).
Những thành tựu nước ta gặt hái được trong những năm qua, với sự phát triển
về kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng, có điều kiện tiên quyết từ
chiến lược đoàn kết các dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, đoàn kết các dân tộc và giải
quyết vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển là một hiện tượng lịch sử lâu
dài. Do đặc điểm nước ta là quốc gia đa dân tộc, một số nguyên nhân như:
vấn đề lịch sử, sự khác nhau giữa các tộc người được hình thành trong quá
khứ, quá trình phát triển kinh tế, văn hóa... nên công tác dân tộc của Đảng và
Nhà nước chưa thể được giải quyết ngay trong một thời gian ngắn.
Sau khi “chiến tranh lạnh” kết thúc, ảnh hưởng của nhân tố dân tộc,
nhân tố tôn giáo trong môi trường quốc tế ngày càng tăng lên với trào lưu tư
tưởng và hoạt động của chủ nghĩa dân tộc sôi động ở một số khu vực. Các thế
lực ly khai, cực đoan tôn giáo và khủng bố cấu kết, lợi dụng nhau, càng làm


13
cho vấn đề dân tộc, mâu thuẫn dân tộc có cục diện ngày càng phức tạp. Trong
những năm gần đây, trên thế giới đã xảy ra nhiều cuộc xung đột sắc tộc cướp
đi sinh mạng hàng triệu người ở các quốc gia trên thế giới.
Xét trên một bình diện chung, những xung đột dân tộc nảy sinh là do
mâu thuẫn về lợi ích. Trong một quốc gia đa dân tộc, nhất là các quốc gia phát
triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, các dân tộc lớn thông qua đại biểu của
mình, giữ vị trí thống trị trong cơ cấu quyền lực, dẫn đến chi phối nhất định

về phân phối của cải vật chất, ban hành các quy chế pháp lý có lợi cho mình,
làm các dân tộc thiểu số bị thiệt thòi buộc họ phải đứng lên đấu tranh đòi lại
những quyền lợi. Bên cạnh đó, ở nhiều quốc gia, xung đột giữa các dân tộc là
do những vấn đề về lịch sử và âm mưu của chủ nghĩa đế quốc mới. Với học
thuyết "một quốc gia, một dân tộc", chúng gây ra chia rẽ, xung đột, kích động
chủ nghĩa ly khai, mục đích tạo ra các cuộc chiến tranh giúp chúng được
hưởng lợi ích từ những xung đột, mâu thuẫn đó.
Đối với nước ta, mục tiêu của các thế lực thù địch luôn tìm cách phá
hoại là chia rẽ dân tộc, nhất là chia rẽ đồng bào các dân tộc thiểu số với đồng
bào Kinh, kích động ly khai, tự trị, làm suy yếu, đi đến thôn tính nền độc lập
của nhân dân ta. Chia rẽ các dân tộc với Đảng, Nhà nước và chế độ, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân. Để thực hiện âm mưu chống phá cách mạng Việt
Nam, các thế lực thù địch đã và đang tiến hành nhiều phương thức, thủ đoạn.
Trước đây, chúng thường hoạt động bí mật, lén lút, ta khó phát hiện, nay
chuyển sang phương thức mới, núp dưới chiêu bài "dân chủ, nhân quyền",
vừa bí mật, vừa "công khai hóa, quốc tế hóa", kêu gọi bên ngoài can thiệp,
gắn vấn đề dân tộc với tôn giáo, tăng cường phát triển giả đạo Tin Lành ở các
vùng dân tộc thiểu số để tập hợp quần chúng tín đồ. Hoạt động ở từng dân
tộc, từng vùng dân tộc có khác nhau, thay đổi tùy theo tình hình, khả năng,
nhưng nổi lên trong giai đoạn hiện nay là chúng triệt để lợi dụng những điều


14
kiện mới của thế giới, trong nước để đẩy mạnh các hoạt động chống phá bằng
"Diễn biến hòa bình", khi có thời cơ, điều kiện thì hoạt động bạo loạn chính
trị. ý đồ của chúng là kết hợp tổ chức lực lượng từ bên ngoài với tạo dựng lực
lượng ở bên trong, phối hợp cấu kết trực tiếp, chặt chẽ, thường xuyên. Thực
tiễn ở Tây Nguyên vừa qua cho thấy, sự chỉ đạo, hậu thuẫn trực tiếp của các
đối tượng bên ngoài là một yếu tố thúc đẩy bọn phản động trong nước hoạt
động chống phá.

Lợi dụng những khó khăn về đời sống và một số khuyết điểm, thiếu sót
trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, các chính sách kinh tế - xã
hội của ta, các thế lực phản động tìm cách khơi các mâu thuẫn, xung đột trong
quá khứ nhằm kích động sự chống đối của người dân tộc thiểu số với người
Kinh. Mặt khác, chúng lợi dụng chính sách đổi mới và tôn trọng tự do tín
ngưỡng của Đảng, Nhà nước ta để đẩy mạnh hoạt động, thông qua các hoạt
động làm từ thiện, du lịch, hợp tác... nhằm chuyển tiền, kinh sách, sử dụng
các phương tiện thông tin đại chúng phát tán, tuyên truyền đạo trái pháp luật;
kết hợp thủ đoạn giúp đỡ vật chất, thăm hỏi, động viên tinh thần, tài trợ cho
con em những người theo đạo để lôi kéo phát triển đạo, kích động chia rẽ dân
tộc, xuyên tạc, vu cáo, đả kích chế độ ta...
Trước âm mưu thâm độc lợi dụng vấn đề dân tộc của chính quyền Mỹ
và các thế lực thù địch quốc tế, các quốc gia đều rất cảnh giác. Với nước ta,
Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc của
một quốc gia có 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số. Tạo sự bình
đẳng, đoàn kết tương trợ, giúp nhau cùng phát triển. Tập trung đầu tư phát
triển vùng miền núi, dân tộc, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ tri thức người
dân tộc, góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy quyền bình đẳng giữa các dân tộc đã
cơ bản được thực hiện trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế, văn


15
hoá, xã hội. Những thành tựu trong hơn 20 năm đổi mới ở vùng miền núi, nơi
các dân tộc thiểu số sinh sống đã khẳng định điều đó. Hiện nay các tỉnh miền
núi, dân tộc tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm trên 10%. Nông nghiệp và
các cây công nghiệp thế mạnh phát triển mạnh. Có 60-70% diện tích nông
nghiệp được tưới tiêu. 95% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã, đời sống
của người dân được cải thiện.
Mạng lưới y tế có hầu hết ở các xã, 90% trẻ em được tiêm chủng phòng

bệnh. 90% địa bàn có đồng bào dân tộc được phủ sóng phát thanh và 70% số
vùng được phủ sóng truyền hình. Hệ thống chính sách giáo dục được hoàn
thiện. Chế độ cử tuyển ở bậc đại học, cao đẳng, trung học được thực hiện với
hàng ngàn sinh viên, học sinh. Hàng trăm trường dân tộc nội trú do ngân sách
quốc gia cấp hoạt động hiệu quả. Tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ
bản ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững. Thực tế đó khẳng định:
Trong khi vấn đề dân tộc ở nhiều nước trên thế giới diễn biến phức tạp đã và
đang gặp nhiều khó khăn, thì kết quả thực hiện công tác dân tộc cùng những
đổi thay to lớn trong đời sống xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi ở Việt Nam là một minh chứng trước cộng đồng thế giới về sự đúng
đắn trong đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam ta.
Tăng cường vận động quần chúng thực hiện chính sách dân tộc trong
giai đoạn cách mạng hiện nay là rất quan trọng và cần thiết; là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó vai trò công
tác dân vận của các lực lượng vũ trang, của quân đội là to lớn, vẻ vang và
cũng là trách nhiệm nặng nề. Nhiệm vụ trọng tâm của công tác vận động
đồng bào các dân tộc thiểu số là làm cho đồng bào hiểu đúng và tự giác thực
hiện tốt những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Thực hiện quân với dân một ý chí. Cần nắm được diễn biến tư tưởng,
tâm tư, nguyện vọng và phong tục tập quán của đồng bào; giải quyết tốt


16
những vấn đề thực tiễn đặt ra phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc, từng
vùng, tránh tư tưởng chủ quan, áp đặt, máy móc, hình thức và cách làm không
phù hợp. Kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang với các cấp ủy, chính
quyền các cấp, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong tổ chức vận động
đồng bào các dân tộc thực hiện tốt nhiệm vụ xóa được đói, giảm được nghèo,
ổn định và cải thiện đời sống, sức khỏe cho đồng bào các dân tộc; nâng cao
dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng cơ

sở chính trị rộng khắp, vững mạnh ở các vùng dân tộc.
Coi trọng việc đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số ; quán triệt phương châm : chân thành, tích
cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc; sử dụng nhiều hình thức vận động
phù hợp với đặc thù của từng dân tộc, từng địa phương. Cán bộ, bộ đội công
tác ở vùng dân tộc và miền núi phải thấm nhuần phong cách : "Trọng dân,
gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân". Lực lượng vũ trang
làm dân vận không chỉ nhằm phát huy vai trò của bản thân lực lượng vũ trang
đối với nhiệm vụ chiến lược của Đảng là thường xuyên củng cố, tăng cường
mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, chính quyền với nhân dân mà chính thông
qua công tác dân vận, lực lượng vũ trang nâng cao được ý thức, tình cảm phục
vụ nhân dân, phát huy bản chất Bộ đội Cụ Hồ. Đây là trường học thực tế tốt
nhất để rèn luyện bộ đội.


17

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Theo số liệu của Bertrand Jacques, 2004. Nationalism and Ethinic
Conflict in Indonesia, Cambridge University Press, p. 1.
2. Các số liệu đánh giá chủ yếu lấy từ báo cáo của Human Rights
Watch (HRW) năm 1997, Indonesia: Communal Violence in West
Kalimantan.
3. Theo Internet.
4. Petebang, Edi, and Eri Sutrisno, 2000 Konflik Etnik Di Sambas, Cet.
1 [Jakarrta]: Institut Studi Arus Iformasi, p. 16.
5. Quan điểm này có trong: Young, Crawford, 1976. The Politics of
Cultural Pluralism, Madison: University of Wisconsin Press; Tambiah,
Stanley Jeyaraja, 1996… Leveling Crowds: Ethnonationalist Conflicts and
Collective Violence in South Asia, Berkeley: Comparative Studies in Religion

and Society, University of California Press; Brass, Paul R., 1997. Theft of an
Idol: Text and Context in the Representation of Collective Violence,
Princeton, NJ: Princeton Studies in Culture/Power/History, Princeton
University

Press;

Anderson,

Benedict

R.

O’G.,

1983.

Imagined

Communities: Reflection on the Origin and Spread of Nationalism, London:
Verso (xuất bản lần thứ hai năm 1991).
6. Xem: Brass, Paul R. (ed.), 1985. Ethnic Groups and the State,
London: Croom Helm; Snyder, Jack L. , 2000. From Voting to Violence:
Democratization and Nationalist Conflict, New York: Norton.
7. Xem Geerttz, Cliford, 1973. The Interpretation of Cultures, New
York: Basic Books.
8. Theo Internet.


18

9. Theo Bertrand Jacques, 2004. Nationalism and Ethnic Conflict in
Indonesia, Cambridge University Press, p. 55.
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 12, tr 497
11. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 5
12. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001, tr 46



×