Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Hoạt động bảo lãnh ngân hàng và đánh giá hoạt động bảo lãnh của NHTM trong năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.12 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Các hoạt động trao đổi hàng hóa, thương mại, dịch vụ hiện nay không chỉ
diễn ra trong phạm vi lãnh thổ mà còn vươn ra tầm quốc tế. Để phù hợp với xu thế
đó, hệ thống các NHTM cũng không ngừng phát triển và mở rộng, đặc biệt là ở các
nghiệp vụ cấp tín dụng đặc thù, trong đó có nghiệp vụ cấp bảo lãnh thanh tốn
ngân hàng. Bảo lãnh thanh toán ngân hàng là một trong những nghiệp vụ tối quan
trọng của ngân hàng thương mại hiện đại. Vì thế em xin chọn đề: “Phân tích cơ sở
pháp lý của hoạt động bảo lãnh ngân hàng và thực trạng hoạt động bảo lãnh ngân
hàng tại tổ chức tín dụng trong năm 2015” làm đề tài bài tập lớn lớn của mình.
Do kiến thức cịn hạn chế và thời gian tìm hiểu có hạn nên bài làm của e cịn nhiều
thiếu sót, kính mong thầy cơ có những góp ý để e hồn thiện, e xin chân thành cảm
ơn.
NỘI DUNG
A.CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1. Khái niệm Bảo lãnh ngân hàng
Theo điều 361 Bộ luật Dân sự: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi
là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh),
nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực
hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình”.
Theo khoản 18, điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2010: “Bảo lãnh ngân
hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo
lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng
khi khách hàng khơng thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết;
khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận.”
Theo khoản 1, điều 3 thông tư 28/2012/TT-NHNN quy định về bảo lãnh ngân
hàng: “ Bảo lãnh ngân hàng (sau đây gọi là bảo lãnh) là hình thức cấp tín dụng,
theo đó bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản với bên nhận bảo lãnh sẽ thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực


hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh; bên
được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh theo thỏa thuận.”
Theo những quy định pháp luật trên, định nghĩa bảo lãnh ngân hàng đã đề cập hai
nội dung:
Một là, trong bảo lãnh ngân hàng, tồn tại cam kết bằng văn bản giữa tổ chức
tín dụng (người bảo lãnh) với bên có quyền (người nhận bảo lãnh) về việc người
bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài sản thay cho khách hàng (người được bảo lãnh)
khi người này không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của họ đối với


bên có quyền. Nội dung này thể hiện bản chất pháp lí của bảo lãnh ngân hàng,
chính là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự.
Hai là, khách hàng phải nhận nợ với tổ chức tín dụng và có nghĩa vụ hồn trả
cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Đây chính là lí do để người ta cho
rằng bảo lãnh ngân hàng có tính chất như là nghiệp vụ cấp tín dụng.
2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng vừa có những đặc điểm của bảo lãnh nói chung đồng thời
cũng chứa đựng những đặc điểm riêng để phân biệt với những hình thức bảo lãnh
khác.
Thứ nhất, về bản chất pháp lí, bảo lãnh ngân hàng là loại giao dịch thương mại
(hay hành vi thương mại) đặc thù. Tính chất thương mại trong hoạt động bảo lãnh
ngân hàng của tổ chức tín dụng thể hiện ở chỗ hoạt động bảo lãnh này vừa do
chính các tổ chức tín dụng (với tư cách là một loại thương nhân) thực hiện trên thị
trường nhằm mục tiêu lợi nhuận, vừa có tính chất chun nghiệp như một nghề
nghiệp kinh doanh. Cũng do tính chất thương mại của hoạt động bảo lãnh ngân
hàng mà hoạt động này bắt buộc phải làm thủ tục đăng kí kinh doanh tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo quy đinh của pháp luật.
Thứ hai, trong bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng khơng chỉ có tư cách là
người bảo lãnh (giống như bất kì người bảo lãnh bào trong bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ dân sự) mà cịn có thêm tư cách của nhà kinh doanh ngân hàng. Vì thể,

việc quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng bảo lãnh trong quan hệ bảo
lãnh ngân hàng cũng khơng giống hồn tồn với quyền và nghĩa vụ của người bảo
lãnh trong quan hệ bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự. Ví dụ, nếu người bảo lãnh
trong quan hệ bảo lãnh dân sự thơng thường có quyền đưa ra chứng cứ về việc
mình khơng biết khả năng hoàn trả của người được bảo lãnh như thế nào để từ đó
xin tịa án hủy bỏ hợp đồng bảo hãnh thì trái lại, trong bảo lãnh ngân hàng, tổ chức
tín dụng khơng thể đưa ra chứng cứ này vì họ chính là nhà kinh doanh chuyên
nghiệp nên buộc phải biết trước khi quyết định kí kết hợp đồng dịch vụ bảo lãnh
với khách hàng.
Thứ ba, giao dịch bảo lãnh ngân hàng có mục đích và hệ quả là tạo lập hai
hợp đòng, gồm hợp đồng dịch vụ bảo alxnh và hợp đồng bảo lãnh/cam kết bảo
lãnh. Hai hợp đồng này tuy có mối quan hệ nhân quả với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau
nhưng vẫn hoàn toàn độc lập với nhau về cả phương diện chủ thể cũng như phương
diện quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể.
Thứ tư, giao dịch bảo lãnh ngân hàng không phải là giao dịch hai bên hay ba
bên mà là giao dịch “kép”. Sở dĩ có thể quan niệm bảo lãnh ngân hàng là giao dịch
“kép” bởi vì, để đạt được mục đích và động cơ chủ yếu của mình là phát hành cam
kết bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng và gửi cho bên có quyền – bên nhận bảo
lãnh để nhận tiền thù lao dịch vụ (phí bảo lãnh) thì tổ chức tín dụng khơng thể
khơng tiến hành kí kết cả hai loại hợp đồng theo thứ tự: hợp đồng dịch vụ bảo lãnh


được giao kết trước và hợp đồng bảo lãnh/cam kết bảo lãnh được giao kết sau. Thứ
tự này phản ánh mối quan hệ giữa hai hợp đồng, trong đó hợp động dịch vụ đóng
vai trị là cơ sở pháp lí để tổ chức tín dụng kí kết hợp đồng bảo lãnh; cịn hợp đồng
bảo lãnh/cam kết bảo lãnh được kí kết nhằm thực hiện nghĩa vụ của tổ chức tín
dụng đã phát sinh trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh (ở đây được hiểu là nghĩa vụ
phát hành cam kết bảo lãnh). Việc tổ chức tín dụng giao kết hai hợp đồng này tuy
đều nhằm hướng tới mục đích chung và có động cơ thống nhất nhưng mặt khác,
điều này cũng phản ánh sự độc lập của hai hành vi pháp lí khác nhau, dù rằng cả

hai hành vi đó đều do một chủ thể là tổ chức tín dụng thực hiện trên nguyên tắc tự
nguyện và bình đẳng.
Thứ năm, theo thông lệ quốc tế, bảo lãnh ngân hàng là giao dịch không thể
đơn phương hủy ngang bởi những người đại diện có thẩm quyền của tổ chức tín
dụng bảo lãnh. Đặc điểm này được sự công nhận bởi pháp luật của nhiều quốc gia
trên thế giới về bảo lãnh ngân hàng tuy nhiên chưa được phản ánh trong pháp luật
thực định của Việt Nam về bảo lãnh nói chung và bảo lãnh ngân hàng nói riêng,
khiến cho chế định về bảo lãnh ngân hàng trong pháp luật Việt Nam thiếu sự tương
đồng với chế định về bảo lãnh ngân hàng trong pháp luật các nước cũng như pháp
luật quốc tế, tập quán và thông lệ quốc tế về bảo lãnh ngân hàng.
Thứ sáu, bảo lãnh ngân hàng là giao dịch được xác lập và thực hiện dựa trên
chứng từ. Tính chất chứng từ của bảo lãnh ngân hàng thể hiện ở chỗ khi tổ chức tín
dụng phát hành cam kết bảo lãnh cũng như khi người nhận bảo lãnh thực hiện
quyền yêu cầu hay khi tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ của người bảo
lãnh, các chủ thể này đều bắt buộc phải thiết lập bằng văn bản. Những văn bản này
không chỉ là bằng chứng chứng minh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao
dịch bảo lãnh mà còn là cơ sở pháp lí để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình đối với bên kia. Chẳng hạn, khi người nhận bảo lãnh yêu cầu tổ chức tín
dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay người được bảo lãnh, họ phải xuất trình các
chứng từ phù hợp với nội dung của cam kết bảo lãnh thì mới được trả tiền; ngược
lại, tổ chức tín dụng bảo lãnh cũng phải dựa vào văn bản bảo lãnh (là một loại
chứng từ) do mình phát hành và đối chiếu với các chứng từ do người nhận bảo lãnh
thiết lập và xuất trình để xác định việc địi tiền của người nhận bảo lãnh có hợp lệ
khơng và mình có phải trả tiền theo u cầu đó hay khơng.
Thứ bảy, bảo lãnh ngân hàng là loại hình bảo lãnh vơ điều kiện (hay cịn gọi
là bảo lãnh độc lập). Tính chất vơ điều kiện của bảo lãnh ngân hàng thể hiện ở chỗ
tổ chức tín dụng bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đối với người nhận bảo lãnh
ngay sau khi người này đã xuất trình các chứng từ phù hợp với nội dung của thư
bảo lãnh hay cam kết bảo lãnh do tổ chức tín dụng phát hành mà khơng phụ thuộc
vào việc người được bảo lãnh có khả năng tự thực hiện nghĩa vụ của họ hay khơng.

Sự ghi nhận tính chất vơ điều kiện trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng là đảm bảo
tương đối chắc chắn cho lợi ích của người nhận bảo lãnh, đồng thời cũng là lợi thế


của bảo lãnh ngân hàng so với các hình thức bảo lãnh khác khơng phải do tổ chức
tín dụng thực hiện. Nhờ lợi thế này, các tổ chức tín dụng tỏ ra là người có khả năng
cung cấp dịch vụ bảo đảm tốt nhất trên thị trường và dường như sự bảo đảm bằng
bảo lãnh của các tổ chức tín dụng bao giờ cũng được người nhận bảo lãnh ưu
chuộng hơn sự bảo đảm bằng bảo lãnh của các chủ thể khác, do tính chất độc lập,
vơ điều kiện và không thể hủy ngang của bảo lãnh ngân hàng.
3. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng
-Bảo lãnh ngân hàng là chức năng bảo đảm: đây là chức năng chính của bảo
lãnh ngân hàng, nó cung cấp cho người thụ hưởng một sự bảo đảm chắc chắn với
quyền lợi của họ.
-Bảo lãnh ngân hàng là công cụ tài rợ vốn: Không chỉ là bảo đảm, bảo lãnh cịn
là cơng cụ tài trợ cho người được bảo lãnh. Thông qua bảo lãnh, người được bảo
lãnh không phải xuất vốn, hỗ trự thu hồi vốn nhanh, được vay nợ hoặc được kéo
dài thời gian thanh tốn tiền hàng hóa, dịch vụ… Do vậy, mặc dù không trực tiếp
cấp vốn cho vay nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp khách hàng được hưởng những
lợi nhuận về vốn như trong trường hợp cho bay.
-Bảo lãnh ngân hàng có chức năng đơn độc hồn thành hợp đồng: Bảo lãnh
ngân hàng cho phép người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán khi người được
bảo lãnh vi phạm hợp đồng cam kết trong thời gian có hiệu lực của bảo lãnh và
ngân hàng có quyền địi lại khoản tiền này. Do đó, ngân hàng ln phải theo dõi,
kiểm tra, giám sát và đôn đốc việc thực hiện hợp đồng cảu bên được bảo lãnh.
Người được bảo lãnh luôn phải chịu một áp lực cho việc bồi hoàn bảo lãnh khi
khơng hồn thành hợp đồng đã ký kết.
4. Vài trò của bảo lãnh ngân hàng
-Đối với doanh nghiệp: Bảo lãnh ngân hàng thúc đẩy cạnh tranh, mở rộng sản
xuất của doanh nghiệp. Nhờ có bảo lãnh ngân hàng, doanh nghiệp có điều kiện tìm

kiếm đối tác, tham gia ký kết và thực hiện hợp đồng không tốn nhiều thời gian và
kinh phí, đồng thời hạn chế rủi do đến với bên nhận bảo lãnh. Khi được ngân hàng
bảo lãnh thì doanh nghiệp phải chịu một khoản phí bảo lãnh, điều này địi hỏi các
doanh nghiệp phải có biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiêp.
-Đối với ngân hàng: Bảo lãnh ngân hàng đem lại lợi ích trực tiếp cho ngân hàng
thong qua cho phí bảo lãnh, phí này đóng góp vào lợi nhuận của ngân hàng, nó
chiếm tỷ trọng khơng nhỏ so với tỷ trọng các lợi nhuận thu được từ các nghiệp vụ
khác của ngân hàng hiện nay. Ngoài ra, bảo lãnh ngân hàng góp phần khơng nhỉ
tring việc mở rộng quan hệ của ngân hàng với khách hàng


II.Pháp luật về hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Hoạt động bảo lãnh ngân hàng hiện nay được điều chỉnh bởi Luật ngân
hàng, Luật các tổ chức tín dụng 2010, Thơng tư về hoạt động bảo lãnh ngân hàng
cảu Ngân hàng Nà nước Việt Nam số 28/2012TT-NHNN.
Vấn đề điều chỉnh pháp lý đối với nghiệp vụ bảo lãnh của cá tổ chức tín
dụng là một vấn đề phức tạp vừa mang tính kỹ thuật pháp lý, vừa mang tính kỹ
thuật nghiệp vụ, bao gồm việc xác định chủ thể, hình thức và nội dung bảo lãnh,
trình tự thủ tục bảo lãnh và các loại hình bảo lãnh.
1.Chủ thể trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng
•Bên bảo lãnh: là các tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh bao
gồm Các tổ chức tín dụng thành lập và hoatj động theo Luật tổ chức tín dụng và
Các ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cho phép hoạt động thanh toán quốc tế
được thực hiện các loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức tín dụng và
cá nhân nước ngoài.
Xét về điều kiện củ thể, một tổ chức tín dụng chỉ được phép thực hiện
nghiệp vụ bảo lãnh đối với khách hàng khi thỏa mãn các điều kiện sau:
-Có tư cách pháp nhân và có người đại diện hợp pháp. Trong nghiệp vụ bảo
lãnh, người đại diện hợp pháp cho tổ chức tín dụng bảo lãnh chỉ có thể là Tổng

giám đốc, giám đốc (đại diện đương nhiên) hoặc phó tổng giám đốc, phó giám đốc
(đại diện theo ủy quyền). Riêng người được ủy quyền về nguyên tắc không được
ủy quyền lại cho người khác.
-Được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với
khách hàng (điều kiện này thường được ghi rõ ttrong giấy phép thành lập và hoạt
động của tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nươc cấp).
•Bên được bảo lãnh: là khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh.
Khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân trong
và ngoài nước, trừ những cá nhân sau đây:
a.Thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm sốt, Tổng giám đốc (Giám đốc),
Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) của tổ chức tín dụng;
b.Cán bộ, nhân viên của tổ chức tín dụng đó thực hiên thẩm định, quyết định
bảo lãnh;
c. Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát,
tồ ng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tồng giám đốc (Phó giám đốc);
Việc áp dụng quy định đối với người được bảo lãnh là bố, mẹ, vợ, chồng,
con của Giám đốc, Phó Giám đốc chi nhánh của tổ chức tín dụng do tổ chức tín
dụng xem xét quyết định.
Theo quy định của pháp luật, không phải mọi tỏ chức, cá nhân đều được các
tổ chức tín dụng bảo lãnh. Căn cứ vào các điều khoản của quy chế và nghiệp vụ
bảo lãnh của tổ chức tín dụng, những điều kiện đó bao gồm:


(1)Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dan sự theo quy
định của pháp luật;
(2) Mực đích đề nghị tổ chức tín dụng bảo lãnh là hợp pháp;
(3)Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ được tổ chức tín dụng bảo
lãnh trong thời hạn cam kết;
(4)Trường hợp khách hàng là tổ chức hoặc cá nhân nước ngồi thì các điều
kiện nêu trên phải tuân thủ quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam.

•Bên nhận bảo lãnh: là các tổ chức, cá nhân trong và ngồi nước có quyền
thụ hưởng bảo lãnh của tỏ chức tín dụng.
Khi tham gia hợp đồng bảo lãnh với các tổ chức tín dụng bên nhận bảo lãnh
phải thỏa mãn những điều kiện chủ thể do pháp luật quy định nhằm góp phần đảm
bảo sự hiện hữa của hợp đồng. Các điều kiện đó bao gồm:
-Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với người bảo lãnh
là một tổ chức thì tổ chức đó phải có người đại diện hợp pháp đủ năng lực và thẩm
quyền.
-Có các giấy tờ tài liệu hay bằng chứng khác chứng minh quyền chủ nợ
trong một nghĩa vụ cần bảo đảm.
2. Phân loại bảo lãnh ngân hàng
Phân loại theo phương thức bảo lãnh:
Bảo lãnh trực tiếp: là hình thức ngân hàng trực tiếp thanh tốn tiền bảo lãnh
cho người thụ hưởng mà không thong qua một trung gian nào, sau đó truy địi nợ
từ người được bảo lãnh, Việc phát hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng có thể
thong qua một ngân hàng trung gian có thể là ngân hàng đại lý hoặc ngân hàng thụ
hưởng nhưng đều gọi chung là ngân hàng thong báo.
Bảo lãnh gián tiếp: là hình thức bảo lãnh qua đó người yêu cầu bảo lãnh
không liên hệ trực tiếp với ngân hàng phát hành mà thông qua một ngân hàng trung
gian là ngân hàng phục vụ mình hoặc ngân hàng có điều kiện thuận lựi hơn trong
việc giao dịch với ngân hàng phát hành.
Đồng bảo lãnh: là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một nghĩa
vụ của khách hàng thong qua một tổ chức tín dụng đầu mối.
Phân loại theo mục đích bảo lãnh
Bảo lãnh thanh tốn: là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh
về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp
khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh tốn của
mình khi đến hạn.
Bảo lãnh dự thầu: là cam kết của tổ chức tín dụng với bên mời thầu, để bảo
đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng phải nộp

phạt do vi phạm quy định đấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đầy đủ tiền phạt
cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.


Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết cyar tổ chức tín dung với bên hận
bảo lãnh, bảo đảm việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng theo hợp
đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng
và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện
khơng đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm (bảo lãnh bảo hành): là cam kết của
tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng
các thỏa thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận
bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi thường
cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì tổ
chức tín dụng sẽ thực hiện thay.
Bảo lãnh trả tiền ứng trước (bảo lãnh hồn thanh tốn): là cam kết của tổ
chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng
trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp
khách hàng vi phạm hợp đồng và phải hoàn trả tiền ứng trước mà khơng hồn trả
hoặc hồn trả khơng đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.
Bảo lãnh hải quan: là loại bảo lãnh mà trong đó ngân hàng bảo đảm cho bên
nhận bảo lãnh về nghĩa vụ nộp thuế với cơ quan hải quan có thẩm quyền. Trường
hợp khách hàng khơng tái xuất hàng hóa, khơng nộp thuế hoặc nộp thuế khơng đầy
đủ, đúng hạn thì ngân hàng phải thực hiệ nghĩa vụ bảo lãnh.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán: là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam
kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán,
nhận mua một phần hay tồn bộ chứng khốn của tổ chức phát hành để bán lại,
hoặc mua số chứng khốn cịn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành,
hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khốn ra cơng chúng.
Bảo lãnh phát hành trái phiếu: là việc ngân hàng bảo lãnh cam kết với tổ

chức phát hành về việc thực hiện các thủ tục trước khi phát hành trái phiếu, phân
phối trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái
phiếu còn lại chưa phân phối hết.
Bảo lãnh đối ứng” là cam kết cuat tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh đối ứng)
với bên bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính cho bên bảo lãnh, trong
trường hợp bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh và trả thay cho khách hàng của bên
bảo lãnh đối xứng với bên nhận bảo lãnh.
“Xác nhận bảo lãnh” là cam kết của tổ chức tín dụng (bên xác nhận bảo lãnh)
đối với bên nhận bảo lãnh, về việc bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
của bên bảo lãnh đối với khách hàng.
Hình thức và nội dung của giao dịch bảo lãnh ngân hàng
•Hình thức: Pháp luật quy định việc bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng phải được lập thánh văn bản. Bao gồm các hình thức sau: Hợp đồng bảo lãnh,
4.


thư bảo lãnh và các hình thức khác pháp luật không cấm và phù hợp với thông lệ
quốc tế.
Theo khoản 3 Điều 2 Quy chế bảo lãnh ngân hàng thì cam kết bảo lãnh được
thực hiện thông qua:
-Hợp đồng bảo lãnh: “là thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng và bên
nhận bảo lãnh hoặc giữa tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách và các bên
liên quan (nếu có) về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.”
-Hợp đồng cấp bảo lãnh “là văn bản thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng với khách
hàng và các bên liên quan (nếu có) về quyền và nghĩa vụ của các bên rong việc
thực hiện bảo lãnh của tổ chức tín dụng cho khách hàng.”
•Nội dung: Các bên tham gia bảo lãnh Ngân hàng phải thỏa thuận rõ ràng các
điều khoản trong đơn xin bảo lãnh và văn bản bảo lãnh như điều khoản xác định

chủ thể kí kết hợp đồng; điều khoản về đối tượng hợp đồng (bao gồm việc xác định
nghĩa vụ được bảo lãnh, mức phí bảo lãnh, phạm vi bảo lãnh); điều khoản về thời
gian bảo lãnh…
Ví dụ: Nội dung của hợp đồng bảo lãnh gồm:
+ Tên, địa chỉ của bên bảo lãnh, khách hàng và thời gian ký hợp đồng;
+ Số tiền, thời hạn bảo lãnh và phí bảo lãnh;
+ Điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;
+ Hình thức bảo đảm cho nghĩa vụ của khách àng đối với tổ chức tín dụng
bảo lãnh, giá trị tài sản làm đảm bảo;
+ Quyền và nghĩa vụ của các bên;
+ Quy định về hoàn trả của khách hàng sau khi tổ chức tín dụng thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh;
+ Chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của các bên;
+ Những thỏa thuận khác.
5. Phạm vi bảo lãnh ngân hàng của các tổ chức tín dụng
Trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng của cá tổ chức tín dụng, phạm vi bảo lãnh
được hiểu là giới hạn của nghĩa vụ tài sản mà bên bảo lãnh (tổ chức tín dụng) cam
kết sẽ thực hiện thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) đơi với bên có quyền.
Theo quy định tại Điều 9 Thông tư về hoạt động bảo lãnh ngân hàng cảu Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam số 28/2012TT-NHNN Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo
lãnh một phần hoặc tồn bộ các nghĩa vụ sau đây:
(1)Nghĩa vụ trẩ nợ gốc, lãi vay và các chi phí khác có liên quan đến khoản vay;
(2)Nghĩa vụ thanh toán tiền mua vật tư, hàng hóa, máy móc, thiết bị và các
khoản chi phí để thực hiện các dự án hoặc phương án đầu tư, phương án sản xuất,
kinh doanh hoặc dịch vụ đời sống;


(3)Nghĩa vụ thanh toán các khoản thuế, các nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà
nước;
(4)Nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia dự thầu;

(5)Nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia qua hệ hợp đồng với bên nhận bảo
lãnh, như thực hiện hợp đồng, bả đảm chất lượng sản phẩm, nhận và hoàn trả tiền
ứng trước;
(6)Các nghĩa vụ hợp pháp khác do các bên thỏa thuận.
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng
•Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng bảo lãnh
Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, do tổ chức tín dụng phải giao kết
hai loại hợp đồng với hai chủ thể khác nhau nên chủ thể này sẽ có hai tư cách pháp
lý khác nhau ttrong quan hệ pháp luật độc lập với cơ cấu quyền và nghĩa vụ pháp
lý khác nhau.
-Bên bảo lãnh có quyền:
Chấp nhận hoặc từ chối đề nghị cấp bảo lãnh của khách hàng hoặc hên bảo lãnh
đối ứng;
Đề nghị bên xác nhận bảo lãnh đối với khoản bảo lãnh của mình cho khách
hàng;
Yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu thông tin có lien quan đến việc thẩm
định bảo lãnh và tài sản bảo đảm (nếu có);
Yêu cầu khách hàng có các iện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ được tổ chức tín
dụng bảo lãnh (nếu cần);
Thu phí bảo lãnh theo thỏa thuận;
Hạch toán ghi nợ và yêu cầu khách hàng hoặc bên bảo lãnh đối ứng hoàn trả số
tiền mà bên bảo lãnh đã trả thay.
Xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng theo thỏa thuận và quy định của pháp
luật.
Khởi kiện theo quy định của pháp luật khi khách hàng, bên bảo lãnh đối ứng vi
phạm nghĩa vụ đã cam kết;
Có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của mình cho tổ chức tín dụng khác nếu
được các bên có liên quan chấp thuận bằng văn bản.
-Bên bảo lãnh có nghĩa vụ:
Thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh;

Hoàn trả đầy đủ tài sản bảo đảm (nếu có) và các giấy tờ có liên quan cho khách
hàng khi tiến hành thanh lý hợp đồng cấp bảo lãnh.
•Quyền và nghĩa vụ của khách hàng được bảo lãnh
Với tư cách là bên hưởng dịch vụ bảo lãnh, khách hàng được bao lãnh sẽ có các
quyền và ghĩa vụ sau đây:
-Khách hàng có quyền:
6.


Đề nghị tổ chức tín dụng cấp bảo lãnh cho mình;
u cầu tổ chức tín dụng thực hiện đúng cam kết bảo lãnh và các thỏa thuận
trong Hợp đồng bảo lãnh;
Khởi kiển theo quy định của pháp luật khi tổ chức tín dụng vi phạm nghĩa vụ đã
cam kết;
Có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của mình nếu được các bên có liên quan
chấp thuận bằng văn bản.
-Khách hàng có nghĩa vụ:
Cung cấp đầy đủ, chính xác và trung thực các tài liệu và các thông tin theo yêu
cầu của tổ chức cấp tín dụng bảo lãnh;
Thực hiện đúng hạn và đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh;
Thanh tốn đầy đủ và đúng hạn phí bảo lãnh cho tổ chức tín dụng theo thỏa
thuận;
Nhận nợ và hồn trả cho tổ chức tín dụng số tiền tổ chức tín dụng đã trả thay,
bao gồm cả gốc, lãi và các chi phí trực tiếp phát sinh từ việc thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh;
Chịu sự kiểm tra, kiểm sốt và báo cáo tình hình hoạt động có liên quan đến
giao dịch bảo lãnh cho tổ chức tín dụng bảo lãnh.
•Quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh
Trong quan hệ hợp đồng bảo lãnh với tổ chức tín dụng bảo lãnh, người nhận
bảo lãnh phải chứng minh họ là chủ nợ của khách hàng được bảo lãnh, do đó họ

mới có thể thiết lập được tư cách đồng thời là chủ nợ của tổ chức tín dụng bảo
lãnh. Chỉ với tư cách là chủ nợ của khách hàng được bảo lãnh, đồng thời cũng là
chủ nợ của tổ chức tín dụng bảo lãnh thì bên bảo lãnh mới có quyền yếu cầu tổ
chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ này thay cho người được bảo lãnh khi
người này không thực hiện đúng nghĩa vụ của họ đối với mình. Khi thực hiện
quyền năng này đối với tổ chức tín dụng bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh phải chứng
minh rằng việc địi tiền của mình là hồn toàn phù hợp với các điều kiện thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh như đã được ghi nhận trong cam kết bảo lãnh.
Thực hiện bảo lãnh ngân hàng
Thời hạn và nghĩa vụ bảo lãnh
Thời hạn bảo lãnh được xác định từ khi phát hành bảo lãnh cho đến thời điểm
chấm dứt bảo lãnh được ghi trong cam kết bảo lãnh. Trường hợp cam kết bảo lãnh
không ghi cụ thể thời điểm chấm dứt bảo lãnh thì thời điểm chấm dứt bảo lãnh
được xác định tại thời điểm nghĩa vj bảo lãnh chấm dứt.
Nghĩa vụ bảo lãnh cỏa tổ chức tín dụng chấm dứt trong các trường hợp sau
(Điều 21 Thông tư 28/2012TT-NHNN):
(1) Nghĩa vụ của bên được bảo lãnh chấm dứt.
(2) Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh.
(3) Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.


(4) Hiệu lực của cam kết bảo lãnh đã hết.
(5) Bên nhận bảo lãnh miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên bảo lãnh.
(6) Nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt trong các trường hợp khác theo quy định của
pháp luật.
(7) Theo thỏa thuận của các bên.
Điều 21 Thông tư 28/2012TT-NHNN cũng quy định rõ ràng các trường hợp
được miễn nghĩa vụ bảo lãnh tại Điều 19 như sau: Trong trường hợp bên nhận bảo
lãnh miễn thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên bảo lãnh vẫn phải thực
hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc

pháp luật quy định phải liên đới thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Trong trường hợp một trong số các tổ chức tín dụng liên đới cho một nghĩa vị
của khách hàng được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì tố
chức tín dụng khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ,
Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng bảo lãnh
-Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận áp dụng hoặc không áp dụng các
biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng đối với tổ chức tín dung bảo lãnh.
-Các biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng đối với tổ chức tín dụng
bảo lãnh bao gồm: Cầm cố, thế chấp, bảo lãnh của bên thứ ba, ký quý và các biện
pháp bảo đảm khác theo quy định của pháp luật.
Phí bảo lãnh
Điều 17 Thơng tư 28/2012TT-NHNN quy định về phí bảo lãnh như sau:
(1) Bên bảo lãnh thỏa thuận mức thu phí bảo lãnh đối với bên được bảo lãnh.
Trong trường hợp có bảo lãnh đối ứng hoặc xác nhận bảo lãnh, mức phí bảo lãnh
do các bên thỏa thuận trên cơ sở mức phí bảo lãnh được bên được bảo lãnh chấp
thuận.
(2) Trường hợp thực hiện đồng bảo lãnh, các bên thỏa thuận, thống nhất mức
phí bảo lãnh từng bên được hưởng trên cơ sở thỏa thuận về tỷ lệ tham gia đồng bảo
lãnh và mức phí thu được của bên được bảo lãnh.
(3) Trường hợp tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bảo lãnh cho
một nghĩa vụ liên đới thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thỏa
thuận với từng khách hàng về mức phí phải trả trên cơ sở nghĩa vụ liên đới tương
ứng của mỗi khách hàng.
(4) Trường hợp đồng tiền bảo lãnh là ngoại tệ, các bên thỏa thuận thu phí bảo
lãnh bằng ngoại tệ hoặc quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá bán của bên bảo lãnh
tại thời điểm thu phí.
(5) Trong thời hạn bảo lãnh, các bên có thể thỏa thuận điều chỉnh mức phí.
7. Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng bảo lãnh và cách thức xử lý
Cũng tương tự như giải quyết tranh chấp trong các vấn đề khác thì giải quyết
tranh chấp trong bảo lãnh ngân hàng có 4 biện pháp sau đây

-Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng;


-Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải;
-Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài;
-Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án.
B.THỰC TRẠNG VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG TẠI TỔ CHỨC TÍN
DỤNG NĂM 2015
I. Khái qt tình hình chung
Các ngân hàng có uy tín lớn trong nghiệp vụ bảo lãnh ở Việt Nam có thể kể
đến như: Ngân hàng Ngoại thương Vietcombank, Ngân hàng Công thương
Incombank, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển BIDV… Phần lớn các khoản vay của
doanh nghiệp là các ngành sản xuất vật chất, xây dựng cơ bản… giúp doanh
nghiệp duy trì sản xuất, nhập được kỹ thuật cơng nghệ hiện đại, giảm giá thành,
tăng tính cạnh tranh của hàng hóa, thúc đấy tăng trưởng kinh tế… .
Các ngân hàng lớn đã cung cấp cho khách hàng các loại hình bảo lãnh đáp
ứng được các địi hỏi của bên thứ ba, qua đó thực hiện tốt nhất khả năng kinh
doanh cũng như trong các công việc khác, bao gồm các loại bảo lãnh sau: (1) Cho
cá nhân như cam kết thu xếp tài chính: Dung trong sản phẩm cho vay du học nước
ngồi, trong đó các ngân hàng cam kết sẽ hỗ trợ cho khách hàng một khoản tài
chính để thanh tốn chi phí phải trả cho con em du học nước ngoài. (2) Cho hộ
kinh doanh cá thể: Bảo lãnh vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp
đồng, bảo lãnh hồn tạm ứng. Lợi ích của khách hàng khi được bảo lãnh từ các
ngân hàng này là: ngân hàng sẵn sang đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, linh
hoạt trong việc thương lượng về điều kiện bảo lãnh sao cho phù hợp với nhu cầu
cuẩ khách hàng, linh hoạt trong việc thương lượng về điều kiện bảo lãnh sao cho
phù hợp với nhu cầu của khách hàng, khách hàng có thể gia hạn, sửa đổi nội dung
hoặc hủy thư bảo lãnh khi có nhu cầu; thư bảo lãnh của các ngân hàng này được
nhiều ngân hàng và doanh nghiệp trong và ngoài nước chấp nhận; bảo lãnh của các
ngân hàng này giúp tưng độ tn cậy của khách hàng đối với đối tác của mình giúp

cho các giao dịch có triển vọng hơn. Ngồi ra, trong từng loại bảo lãnh, khách hàng
có những lợi ích riêng. Chẳng hạn như trong bảo lãnh vay vốn, khách hàng có thể
vay vốn quy mơ lớn, thời gian vay dài, giúp cho khách hàng vay vốn trong các giao
dịch mà việc bảo đảm vay vốn là bắt buộc. Trong bảo lãnh thanh tốn, khách hàng
có thể mua bán trả chậm, chập nộp thuế nhà nước trong thời hạn cho phép, các hợp
đồng thuê tài sản, đại lý tiêu thụ, cung cấp dịch vụ trả tiền sau… .
Trong bảo lãnh sự thầu, các ngân hàng giúp cho khách hàng có đủ điều kiện
để tham gia vào một giao dịch đấu thầu mà bắt buộc hải có bảo lãnh của ngân
hàng; trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp
hoặc không nộp đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng thực hiện nghĩa
vụ cam kết; chuyên viên khách hàng sẵn sang hướng dân khách hàng lựa chọn dịch
vụ bảo lãnh cũng như hoàn tất thu tục với ngân hàng.


Các ngân hàng thương mại đã có uy tín hơn trong nghiệp vị bảo lãnh, bởi
các quy định rõ ràng, rành mạch về nghiệp vụ này nghiệp vụ này như: quy trình
thực hiện thủ tục bảo lãnh được hướng dẫn tận tình đến khách hàng, phí bảo lãnh
được quy định chính xác, cơng khai.
Tuy nhiên, trong những tháng vừa qua, các ngân hàng đã phải đối mặt với
những tồn tại khó khăn từ phía bên được bảo lãnh dẫn đến khó có khả năng thu lời
như: các doanh nghiệp có sở sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, không cạnh tranh
được với thị trường; nhiều máy móc thiết bị được đầu tư từ chi phí bảo lãnh khơng
sử dụng hết cơng suất, khơng đủ ngun liệu sản xuất; hàng hóa sản xuất ra có nơi
khơng tiêu thụ được… Bê bối trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng xảy ra tại nhiều
ngân hàng dẫn đến hàng loạt những rủi ro trong khả năng thanh khoản
II. Thực trạng bảo lãnh ngân hàng tại ngân hàng Đông Á
Sau đây em xin liên hệ với 1 ngân hàng cụ thể - Ngân hàng Đông Á, để có
một góc nhìn thực tế hơn về hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
1. Khái quát về hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại ngân hàng Liên Việt
Postbank

a) Tình hình hoạt động kinh doanh nghiệp vụ cấp bảo lãnh
Nhìn chung, dịch vụ bảo lãnh vẫn là một dịch vụ truyền thống và có ưu thế
của LienVietPostBank, đặc biệt là bảo lãnh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Trong
các năm qua, phần lớn các chi nhánh của LienVietPostBank đều chiếm thị phần
bảo lãnh lớn trên địa bàn. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các ngân hàng, đặc
biệt là các NHTM cổ phần bắt đầu quan tâm và đẩy mạnh dịch vụ này. Tuy nhiên
dịch vụ bảo lãnh vẫn là chủ lực của khối bán buôn và cũng là dịng sản phẩm có
mức thu cao.
Nhìn chung, hoạt động bảo lãnh trong năm 2015 của LienVietPostBank đều
có sự tăng trưởng trên các mặt doanh số, số lượng và phí bảo lãnh. Chất lượng hoạt
động bảo lãnh tương đối tốt, không xảy ra rủi ro và rất ít xảy ra tình trạng ngân
hàng phải trả nợ thay bắt buộc. Nguồn thu từ phí bảo lãnh đang ngày càng trở
thành nguồn thu lớn, thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu dịch vụ rịng của
tồn hệ thống. Các loại hình bảo lãnh có sự phát triển đa dạng, bên cạnh các loại
bảo lãnh truyền thống, có uy thế của LienVietPostBank như bảo lãnh thực hiện hợp
đồng trong các lĩnh vực xây dựng cơ bản… các hình thức bảo lãnh phát hành, bảo
lãnh thanh toán trái phiếu bước đầu được triển khai và chú trọng phát triển. Trong
các năm 2015, LienVietPostBank đã cung cấp các hợp đồng bảo lãnh lớn với rất
nhiều công ty lớn trên cả nước.
b) Mạng lưới hoạt động và mức phê duyệt cấp bảo lãnh của từng đơn vị
kinh doanh.
Việc xem xét phê duyệt cấp bảo lãnh tại Ngân hàng Bưu điện Liên Việt
được thực hiện trên cơ sở đảm bảo tuân thủ quy định của Luật các Tổ chức Tín
dụng hiện hành và các quy định có liên quan của Pháp luật và nội bộ ngân hàng.


Cấp phê duyệt chỉ được thực hiện phê duyệt, phê duyệt cấp bảo lãnh trong
phạm vi Mức phê duyệt được giao trên cơ sở Tờ trình của Cấp đề xuất phê duyệt
tín dụng và các hồ sơ liên quan. Cấp phê duyệt đồng thời là cấp có thẩm quyền phê
duyệt điều chỉnh các nội dung đã được phê duyệt của khoản cấp bảo lãnh. Người

nào ra quyết định cấp bảo lãnh thuộc phạm vi thẩm quyền của mình thì chịu trách
nhiệm cá nhân đối với quyết định đó. Đối với các khoản cấp bảo lãnh khơng có tài
sản bảo đảm thì trong trường hợp khách hàng khơng trả được nợ thì người phê
duyệt cấp bảo lãnh khơng có bảo đảm bằng tài sản phải chịu trách nhiệm cá nhân
của Ngân hàng bằng cách tự chi trả đối với giá trị các khoản cấp bảo lãnh không
thu hồi được bằng tài sản cá nhân nếu cá nhân đó khơng tn thủ quy định của
Ngân hàng; nếu có cổ phiếu của Ngân hàng thì sẽ thu hồi cổ phiếu và chuyển thành
cổ phiếu quỹ cho Ngân hàng. Nếu sau đó thu hồi được các khoản cấp bảo lãnh đã
cấp cho Khách hàng thì Ngân hàng sẽ trả lại tài sản đã thu hồi.
Mức phê duyệt bao gồm cả đồng Việt Nam và ngoại tệ quy đổi (theo tỷ giá
chuyển khoản bình quân của Ngân hàng tại thời điểm cấp bảo lãnh lần cuối). Tùy
từng thời điểm, HĐQT và HĐTD HS sẽ quyết định mức phê duyệt cho từng cấp
phê duyệt trên cơ sở đánh giá năng lực quản lý rủi ro tín dụng của từng Giám đốc
ĐVKD bao gồm tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn của ĐVKD, kinh nghiệm của Giám đốc
ĐVKD và các cá nhân thực hiện công việc cấp tín dụng, mức độ tuân thủ của
ĐVKD,… Mức phê duyệt được xác định cụ thể cho từng Giám đốc ĐVKD theo
loại TSBĐ, từng sản phẩm và các tiêu chí khác theo quy định của Ngân hàng.
Song các trường hợp cấp bảo lãnh sau khơng tính trong mức phê duyệt:
Phần tiền cầm cố tại Ngân hàng; Chứng chỉ tiền gửi, thẻ tiết kiệm, giấy tờ có giá
do Ngân hàng phát hành; Chứng chỉ tiền gửi, thẻ tiết kiệm, giấy tờ có giá do tổ
chức tín dụng khác phát hành.
2. Các loại hình bảo lãnh thanh tốn và quy trình thực hiện tại Ngân
hàng Bưu điện Liên Việt
a) Bảo lãnh thanh toán thơng thường và bảo lãnh thanh tốn tiền ứng trước
Bảo lãnh thanh tốn ngân hàng thơng thường và bảo lãnh thanh toán tiền
ứng trước là một trong những thế mạnh của Ngân hàng Bưu điện Liên Việt. Để
thống nhất trình tự, thủ tục thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh trong nước đối với khách
hàng tại toàn hệ thống Ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt, Tổng Giám đốc đã
ban hành quy trình bảo lãnh ngân hàng nói chung và trong đó có quy định quy
trình thực hiện hoạt động bảo lãnh thanh tốn ngân hàng thơng thường và bảo lãnh

thanh tốn tiền ứng trước. Quy trình này được áp dụng thống nhất tại tất cả các đơn
vị kinh doanh trên toàn hệ thống Ngân hàng Bưu Điện Liên Việt.
b) Bảo lãnh thanh toán đối ứng
Cũng giống như bảo lãnh thanh tốn thơng thường, song đặc trưng của bảo
lãnh thanh tốn đối ứng là ngoài việc thẩm định hồ sơ khách hàng thì phải thẩm
định bên bảo lãnh đối ứng và nội dung cam kết bảo lãnh đối ứng. Theo đó, cần


đánh giá về nội dung bảo lãnh đối ứng trên các khía cạnh bảo lãnh đối ứng do bên
bảo lãnh đối ứng phát hành phải đảm bảo nguyên tắc mọi nghĩa vụ của Ngân hàng
Bưu điện Liên Việt đều được ghi nhận và đảm bảo tương ứng bằng nghĩa vụ của
bên bảo lãnh đối ứng, bao gồm các nội dung như trị giá bảo lãnh đối ứng luôn luôn
lớn hơn hoặc bằng trị giá của bảo lãnh trực tiếp mà bên bảo lãnh đối ứng yêu cầu
Ngân hàng Bưu điện Liên Việt phát hành. Đồng thới, thời hạn của bảo lãnh đối
ứng luôn dài hơn thời hạn của bảo lãnh trực tiếp ít nhất 07 ngày làm việc. Bảo lãnh
đối ứng có thể có hiệu lực vơ thời hạn, tuy nhiên, ngày hết hạn của bảo lãnh trực
tiếp phải được nêu rõ, hoặc có thể tính tốn được chính xác thời hạn hiệu lực của
Bảo lãnh trực tiếp. Về điều kiện địi tiền phải là vơ điều kiện, nêu rõ các chứng từ
cần xuất trình để địi tiền và khơng yêu cầu các bằng chứng của giao dịch cơ sở.
Đặc biệt, tất cả các chi phí liên quan tới bảo lãnh đều do Bên bảo lãnh đối ứng trả,
không chấp nhận quy định các loại phí này do Bên yêu cầu trả.
Thông thường, trên thực tế phát sinh cho thấy khi phát hành bảo lãnh thanh
toán đối ứng cho Bên bảo lãnh là ngân hàng nước ngoài, để dễ được chấp nhận và
tiện lợi trong xử lý giao dịch, thông thường nên lựa chọn dẫn chiếu đến URDG 758
làm quy tắc áp dụng. Đồng thời có thể thấy Bảo lãnh trả theo yêu cầu (Demand
Guarantee) tuân thủ theo URDG 758 thì Bảo lãnh đối ứng (Counter Guarantee)
cũng tuân thủ theo URDG 758 trừ phi bảo lãnh đối ứng loại trừ URDG 758. Tuy
nhiên, Bảo lãnh trả theo yêu cầu không mặc nhiên tuân thủ URDG 758 khi Bảo
lãnh đối ứng dẫn chiếu URDG 758 làm quy tắc áp dụng.
c) Bảo lãnh thanh toán thuế

Bảo lãnh thanh toán thuế là một sản phẩm đặc trưng của Ngân hàng Bưu
điện Liên Việt, theo đó sản phẩm bảo lãnh thanh tốn thuế ra đời nhằm đa dạng
hóa sản phẩm bảo lãnh trong nước của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của
khách hàng trong hoạt động nhập khẩu hàng hóa.Đồng thời với bảo lãnh thanh toán
thuế sẽ giúp khách hàng tiết kiệm chi phí vốn, giảm thời gian lưu hàng hóa tại Cơ
quan hải quan cửa khẩu, đưa vào sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả, giúp
khách hàng chủ động nguồn vốn chi trả nghĩa vụ thuế khi hàng hóa nhanh chóng
được đưa vào lưu thơng, tạo nguồn thu chi trả.
Điểm đặc thù của bảo lãnh thanh toán thuế là bảo lãnh được thực hiện theo
một trong hai hình thức: bảo lãnh riêng hoặc bảo lãnh chung. Bảo lãnh riêng là
việc tổ chức tín dụng cam kết bảo lãnh thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp số tiền thuế
cho một tờ khai hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Trường hợp đã được tổ chức tín
dụng nhận bảo lãnh nhưng hết thời hạn bảo lãnh mà người nộp thuế chưa nộp tiền
thuế và tiền chậm nộp (nếu có) thì tổ chức nhận bảo lãnh có trách nhiệm nộp đủ
tiền thuế, tiền chậm nộp thay người nộp thuế theo quy định pháp luật về quản lý
thuế. Bảo lãnh chung là việc cam kết bảo lãnh thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp số
tiền thuế cho hai tờ khai hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu trở lên tại một hoặc nhiều
Chi cục hải quan.


Thư tín dụng dự phịng
Thư tín dụng dự phịng là một dạng đặc biệt mặc dù có tên gọi là thư tín
dụng nhưng bản chất thư tín dụng dự phịng lại là một dạng của bảo lãnh thanh
toán. Ở Việt Nam, các NHTM thông thường chỉ phát hành các loại bảo lãnh thanh
tốn thơng thường hơn là việc phát hành Thư tín dụng dự. Thơng tư 28/2012/TTNHNN khơng có quy định cụ thể nào về Thư tín dụng dự phịng. Tuy nhiên, điều
này khơng có nghĩa là các ngân hàng ở Việt Nam khơng thể phát hành Thư tín
dụng dự phòng. Ngân hàng Bưu điện Liên Việt là một trong số ít các ngân hàng có
sản phẩm Thư tín dụng dự phòng phục vụ yêu cầu tất yếu của khách hàng. Trên
thực tế phát sinh thì thơng thường ngân hàng sử dụng điện MT 370 hoặc MT 700
và áp dụng quy định pháp lý điều chỉnh là UCP 600 hoặc ISP 98. Trên cơ sở đó,

Tổng Giám đốc Ngân hàng Bưu điện Liên Việt đã ban hành Quy trình nghiệp vụ
thư tín dụng dự phịng đối với khách hàng số 2631/2014/QTLienVietPostBank trên
cơ sở Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh đối với khách hàng.
3. Một số bất cập phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật trong
hoạt động bảo lãnh thanh toán ngân hàng tại Ngân hàng Bưu điện Liên Việt
a) Bảo lãnh thanh tốn ngân hàng vơ điều kiện và tính độc lập của bảo lãnh
Có thể thấy các thông lệ quốc tế công nhận nội dung vô điều kiện của bảo
lãnh thanh toán, song pháp luật Việt Nam hiện nay khơng có quy định cụ thể nào
về vấn đề này. Theo quy định pháp luật hiện hành thì căn cứ để ngân hàng phát
hành bảo lãnh thanh toán là việc bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ được bảo lãnh. Theo đó, các ngân hàng Việt
Nam thường cho rằng khi chưa xác minh được sự vi phạm nghĩa vụ của bên được
bảo lãnh thì chưa phát sinh việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Do vậy, các ngân
hàng thương mại ở Việt Nam gặp khơng ít khó khăn, vướng mắc và thiếu kiến thức
trong việc khách hàng yêu cầu phát hành bảo lãnh vô điều kiện.
Song vấn đề vướng mắc không phải việc ngân hàng phát hành cam kết bảo
lãnh với nội dung vô điều kiện hay không mà vấn đề nằm ở chỗ nhiều cán bộ, nhân
viên ngân hàng không hiểu rõ bản chất của nội dung vô điều kiện. Nên trên thực tế
phát sinh trường hợp ngân hàng phát hành bảo lãnh thanh tốn vơ điều kiện nhưng
lại buộc bên nhận bảo lãnh khi có yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh lại phải
cung cấp cả hồ sơ, tài liệu chứng minh bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ được
bảo lãnh. Điều khoản như vậy sẽ dẫn đến việc khó khăn, vướng mắc cho tất cả các
bên.
b) Chuyển nhượng bảo lãnh thanh toán ngân hàng
Theo quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam và thơng lệ quốc tế thì
khơng hề có bất kỳ quy định cấm việc chuyển nhượng trong quan hệ bảo lãnh. Nếu
theo Thông tư 28/2012/TT-NHNN về bảo lãnh ngân hàng thì khơng có các quy
định rõ ràng và cụ thể về việc chuyển nhượng bảo lãnh hay chuyển nhượng quyền
và nghĩa vụ căn cứ theo thư bảo lãnh, mà chỉ được đề cập rất chung trong Bộ luật
d)



Dân 17 sự tại phần chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ dân sự.
Song theo điều 33 của URDG 758 có ghi nhận nội dung liên quan đến Sự chuyển
giao bảo lãnh thư và sự chuyển nhượng tiếp theo. Qua đó có thể thấy dù theo pháp
luật Việt Nam hay theo thơng lệ quốc tế thì việc chuyển giao bảo lãnh khơng được
khuyến khích. Trở lại với bản chất đối nhân của bảo lãnh thanh toán ngân hàng thì
rất ít khi ngân hàng phát hành bảo lãnh có giá trị chuyển nhượng khi khơng/chưa
xác định được bên nhận chuyển nhượng do chưa biết bên nhận chuyển nhượng này
có đáp ứng các điều kiện theo quy định của Pháp luật và nội bộ ngân hàng hay
không.
c) Phát hành bảo lãnh thanh toán ngân hàng lùi ngày hiệu lực của bảo lãnh
Theo quy định pháp luật hiện hành thì các bên có thể thỏa thuận ngày có
hiệu lực của bảo lãnh trước hoặc sau ngày phát hành bảo lãnh. Song trên thực tế tại
Ngân hàng Bưu điện Liên Việt phát sinh rất đa dạng các yêu cầu phát hành bảo
lãnh lùi ngày có hiệu lực của bảo lãnh. Song có một trường hợp đặc biệt là trường
hợp ngày phát hành bảo lãnh là 05/09/2015 nhưng thời hạn hiệu lực bảo lãnh là từ
30/05/2015 - 30/08/2015. Theo quan điểm của tác giả nhận thấy trường hợp này
không phải là trường hợp phát hành bảo lãnh lùi ngày như đã được đề cập đến
trong quy định pháp luật có liên quan vì thời hạn có hiệu lực của bảo lãnh phát sinh
và chấm dứt trước thời điểm phát hành bảo lãnh thanh toán. Việc phát hành bảo
lãnh trong trường hợp này khơng có ý nghĩa về mặt pháp lý cũng như thực tiễn
kinh doanh và đặc biệt làm thay đổi bản chất quan hệ bảo đảm của bảo lãnh.
d) Phát hành bảo lãnh thanh toán khi ngân hàng chậm trả và lãi suất chậm
trả
Một số khách hàng có yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh có nội dung
điều chỉnh việc ngân hàng chậm thanh toán và quy định lãi suất đối với số ngày
chậm thanh toán của ngân hàng, yêu cầu này xuất phát từ phía bên nhận bảo lãnh
quan ngại việc ngân hàng chậm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và không muốn ngay
lập tức đưa ra cơ quan giải quyết tranh chấp.

Để đáp ứng các nhu cầu hợp pháp của khách hàng thì Ngân hàng Bưu điện
Liên Việt đã hạn chế rủi ro bằng cách ghi nhận nội dung tương ứng trong thư bảo
lãnh vào Hợp đồng cấp bảo lãnh giữa Ngân hàng và Bên được bảo lãnh. Theo đó,
Ngân hàng đã ràng buộc bên được bảo lãnh ngồi số tiền ngân hàng thực hiện
thanh tốn thay cho bên được bảo lãnh thì số tiền chậm trả mà Ngân hàng phải
thanh tốn cho bên nhận bảo lãnh thì bên được bảo lãnh của buộc phải thực hiện
nghĩa vụ với ngân hàng.
Đây là phương hướng tạm thời để ngân hàng đáp ứng được các yêu cầu của
khách hàng, song theo quan điểm của tác giả thì các nhà làm luật nên quy định các
bên có được thực hiện ghi nhận chậm thanh toán và lãi suất chậm thanh toán trong
trường hợp bảo lãnh thanh toán ngân hàng này hay khơng do về bản chất thì mặc
nhiên trong thời hạn bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi


bên nhận bảo lãnh xuất trình yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và các hồ sơ, tài
liệu, chứng từ kèm theo hợp pháp, hợp lệ (nếu có) thỏa mãn đầy đủ các điều kiện
đã quy định trong cam kết bảo lãnh hoặc cam kết xác nhận bảo lãnh.
e) Phát hành bảo lãnh thanh tốn ngân hàng dưới hình thức điện SWIFT
Căn cứ theo Thơng tư 28/2012/TT-NHNN thì các bên có thể thỏa thuận phát
hành cam kết bảo lãnh dưới hình thức điện SWIFT( Swift viết tắt của Society for
Worldwide Interbank and Financial Telecommunication là Hiệp hội viễn thông
liên ngân hàng và tài chính quốc tế). Song vấn đề đặt ra là quy định pháp luật thì
bảo lãnh phải được ký bởi 3 người nhưng bảo lãnh thanh toán ngân hàng phát hành
bằng điện SWIFT khơng có bất kỳ chữ ký nào. Khi nhận được bảo lãnh ngân hàng
bằng 18 điện SWIFT, ngân hàng kiểm tra tính xác thực của bảo lãnh và thông báo
cho bên nhận bảo lãnh. Rõ ràng ngân hàng phát hành bảo lãnh không thể viện lý do
rằng bảo lãnh đó là giả mạo hay được duyệt bởi người khơng có đủ thẩm quyền để
từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu chứng từ xuất trình phù hợp.
f) Phát hành bảo lãnh thanh tốn ngân hàng trên cơ sở bảo lãnh đối ứng
được phát hành bằng điện SWIFT

Căn cứ theo Thơng tư 28 thì hợp đồng cấp bảo lãnh phải có một số nội dung
cụ thể. Song trên thực tế Ngân hàng Bưu điện Liên Việt nhận được rất nhiều yêu
cầu từ khách hàng với nội dung yêu cầu có thể Ngân hàng là bên bảo lãnh (trong
quan hệ bảo lãnh đối ứng) hoặc có thể là bên bảo lãnh đối ứng, song vướng mắc
gặp phải là trong quan hệ bảo lãnh đối ứng giữa bên bảo lãnh đối ứng với bên bảo
lãnh thường không gặp nhau trực tiếp để ký kết hợp đồng bảo lãnh đối ứng mà chỉ
đơn giản dựa trên cơ sở bảo lãnh đối ứng của ngân hàng đối tác (bên bảo lãnh đối
ứng. Để xử lý vướng mắc này Ngân hàng Bưu điện Liên Việt đã có phương hướng
giải quyết để hạn chế bị quy kết là thực hiện khơng phù hợp với quy định pháp luật
khi chưa có hợp đồng đìều chỉnh thì trong nội dung Thư bảo lãnh đối ứng (phát
hành trên cơ sở điện MT320 qua hệ thống SWIFT) nên ghi nhận thêm nội dung
“This deal shall be governed by the laws of Viet Nam” vì nếu không được ghi nhận
cụ thể các nội dung theo quy định pháp luật thì mặc nhiên áp dụng theo pháp luật
Việt Nam về bảo lãnh ngân hàng hoặc quy định về xử lý tranh chấp có thể được
thực hiện theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự và các quy định pháp luật có liên
quan khác.
g) Một số bất cập khác khi triển khai cấp bảo lãnh thanh tốn ngân hàng
trong quan hệ bán nhà ở hình thành trong tương lai (theo Luật kinh
doanh bất động sản số 66/2014/QH13 ngày 25/11/2014 và Luật Nhà ở
Luật số: 65/2014/QH13 ngày 25/11/2014)
- Quy định pháp luật hiện hành về việc bảo lãnh cho nghĩa vụ tài chính của
chủ đầu tư đối với khách hàng khi Chủ đầu tư không bàn giao nhà ở theo đúng tiến
độ đã cam kết với Khách hàng trong việc bán Nhà ở hình thành trong tương lai


chưa rõ quy định rõ yêu cầu về việc cấp bảo lãnh cho cả dự án, hay cấp bảo lãnh
cho từng căn hộ khi có khách hàng mua.
- Quy định pháp luật hiện hành quy định “Các dự án đầu tư kinh doanh bất
động sản đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc đầu tư, đã
được giao đất, cho thuê đất, đã có văn bản cho phép chuyển nhượng dự án hoặc đã

ký hợp đồng chuyển nhượng, bán, cho thuê, cho thuê mua trước ngày Luật này có
hiệu lực thi hành thì khơng phải làm lại thủ tục theo quy định của Luật này.” Do
đó, có thể không cần áp dụng cho dự án đã được phê duyệt và đang thực hiện trước
ngày 01/07/2015. Tuy nhiên, nếu Chủ đầu tư dự án đề nghị cấp bảo lãnh thì Ngân
hàng vẫn xem xét phát hành bảo lãnh thanh tốn vì khơng vi phạm quy định.
- Thời hạn bảo lãnh: Thời hạn bảo lãnh hiện tại chưa có giới hạn cụ thể
nhưng có thể có một số cách xác định như sau tùy thuộc dự án và sự thỏa thuận của
các bên (khi soạn hợp đồng/thư bảo lãnh cần linh hoạt về nội dung này).
- Pháp luật hiện hành chưa quy định rõ về điều kiện khi nào thì cấp bảo lãnh.
Do đó, theo ý kiến của Phịng Pháp chế Ngân hàng Bưu điện Liên Việt thì Ngân
hàng xem xét bổ sung ở thời điểm hiện tại là khi Dự Án đủ điều kiện bán nhà theo
quy định pháp luật.
4. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh thanh
toán ngân hàng tại Việt Nam
Rà soát, bãi bỏ các quy định chưa thực sự hợp lý trong chế định bảo lãnh của
Bộ luật Dân sự Việt Nam Bổ sung một số quy định về bảo lãnh mà Bộ luật Dân sự
hiện còn thiếu như các quy định nhằm bảo vệ bên bảo lãnh; quy định về việc bên
có quyền phải có nghĩa vụ thông tin cho bên bảo lãnh về giá trị của nghĩa vụ được
bảo lãnh, khả năng tài chính của bên được bảo lãnh; quy định về việc bên bảo lãnh
có thể viện dẫn tất cả những vi phạm về hình thức, nội dung mà bên được bảo lãnh
có thể viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh; điều
kiện đối với bên bảo lãnh, trong đó đặc biệt là khả năng thanh tốn nợ. Bộ luật Dân
sự cần quy định cụ thể, rõ ràng các vấn đề có liên quan đến biện pháp bảo lãnh như
các trường hợp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt đối với biện pháp bảo lãnh; giới
hạn của biện pháp bảo lãnh so với giá trị của nghĩa vụ được bảo lãnh; hậu quả pháp
lý trong trường hợp bên bảo lãnh khơng có tài sản để bù trừ nghĩa vụ được bảo
lãnh
Thông tư 28/2012/TT-NHNN nên bổ sung thêm “bên chỉ thị” để phù hợp
với tập quán quốc tế, cụ thể là URDG 758, cũng như thực tế phát sinh từ hoạt động
bảo lãnh ngân hàng trong nước. Đồng thời, cần sửa đổi quy định về việc sử dụng

ngôn ngữ trong các giao dịch bảo lãnh
Trong các văn bản pháp luật của Ngân hàng Nhà nước cũng cần hoàn thiện
các qui định về khái niệm bảo lãnh ngân hàng, bảo lãnh thanh toán ngân hàng, hoạt
động bảo lãnh ngân hàng. Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng cũng cần có những qui
định cụ thể về bảo lãnh theo yêu cầu (hay còn gọi là bảo lãnh độc lập) - một loại


hình bảo lãnh được 21 sử dụng phổ biến trong các ngân hàng trên thế giới hiện
nay. cần hoàn thiện quy định về giới hạn cấp tín dụng nói chung và giới hạn cấp
bảo lãnh nói riêng. Theo qui định của pháp luật hiện hành thì có thể thấy tổng số
dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng cho một khách hàng khơng vượt q 15% vốn tự
có của tổ chức tín dụng. Qui định này nhằm bảo đảm an tồn nguồn vốn của các tổ
chức tín dụng. Nhưng đây lại là một khó khăn lớn đối với các ngân hàng trong điều
kiện vốn tự có của tổ chức tín dụng còn thấp khi muốn tham gia bảo lãnh cho các
khách hàng có giá trị bảo lãnh lớn.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải: Tăng cường cơng tác quản lý,
kiểm tra, giám sát đối với các ngân hàng thương mại, Hỗ trợ các ngân hàng thương
mại trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, Các biện pháp cụ thể để Ngân hàng
Nhà nước có thể triển khai để thực hiện các mục tiêu phát triển nhằm phát triển
hoạt động bảo lãnh thanh toán ngân hàng tại Việt Nam,
LỜI KẾT
Các giao dịch liên quan đến bảo lãnh thanh toán ngân hàng là những giao
dịch tương đối phức tạp do có rất nhiều quan hệ kinh tế - dân sự cần đến bảo lãnh
thanh tốn ngân hàng, vì vậy cần có sự quy định cụ thể của Nhà nước, nhưng việc
xây dựng các quy định đó cũng phải đảm bảo tiêu chí thống nhất, minh bạch, tạo
điều kiện cho người dân dễ dàng tham gia giao dịch, cơ quan quản lý có thể nắm
được thơng tin kịp thời. Đồng thời, qua phân tích tình hình, thực trạng về dịch vụ
bảo lãnh ngân hàng của các ngân hàng Liên Việt ta thấy được những thuận lợi, khó
khăn trong bảo lãnh ngân hàng. Từ đó sẽ đưa ra các giải pháp phát triển hồn thiện
hơn nữa dịch vụ này, nhằm khơng ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của các

ngân hàng thương mại Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như trên thế giới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb. CAND,
Hà Nội, 2012.
2. Bộ luật dân sự năm 2005;
3.Luật thương mại năm 2005;
4.Luật doanh nghiệp năm 2005;
5.Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010;
6.Thông tư về hoạt động bảo lãnh ngân hàng cảu Ngân hàng Nà nước Việt Nam số
28/2012TT-NHNN;



×