BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
VÀNG THỊ DẾ
BƢỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ PHONG TỤC CƢỚI XIN
CỦA NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN SI MA CAI - TỈNH LÀO CAI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Sơn La, năm 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
VÀNG THỊ DẾ
BƢỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ PHONG TỤC CƢỚI XIN
CỦA NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN SI MA CAI - TỈNH LÀO CAI
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: ThS. Phí Thị Toan
Sơn La, năm 2015
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khóa luận này, em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS. Phí Thị
Toan, giảng viên môn lịch sử Việt Nam khoa Sử - Địa đã tận tình hướng dẫn chỉ
bảo và đóng góp nhiều ý kiến bổ ích giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và
hoàn thành khóa luận.
Em xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn quý thầy, cô giáo trong khoa Sử Địa, thư viện trường Đại Học Tây Bắc, Ban Tuyên Truyền, Phòng Văn Hóa,
nhân dân huyện Si Ma Cai - tỉnh Lào Cai đã cung cấp tài liệu, tư liệu để em có
những trang viết khá đầy đủ, chân thực khi hoàn thành khóa luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới cô giáo chủ nhiệm cố vấn học tập ThS.
Hoàng Thị Thanh Giang cùng toàn thể sinh viên lớp K52 Đại Học Sư Phạm Sử Địa đã động viên giúp đỡ em hoàn thành khóa luận.
Khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được nhiều
ý kiến đóng góp bổ ích, quý báu của thầy, cô và các bạn để khóa luận được hoàn
chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2015
Ngƣời thực hiện
Vàng Thị Dế
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn khóa luận ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu ............................................................................................ 2
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu........................................................ 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................... 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 3
3.3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 3
4. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 4
4.1. Cơ sở tư liệu ................................................................................................... 4
4.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 4
5. Đóng góp của khóa luận .................................................................................... 4
6. Cấu trúc của khóa luận ...................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC VÀ VĂN HÓA CỦA NGƢỜI
MÔNG .................................................................................................................. 6
1.1. Khái quát về dân tộc Mông ............................................................................ 6
1.1.1.Địa vực cư trú ............................................................................................... 6
1.1.2. Nguồn gốc lịch sử và tên gọi....................................................................... 8
1.2. Khái quát về văn hóa của người Mông ........................................................ 11
1.2.1. Đời sống kinh tế (văn hóa mưu sinh) ........................................................ 11
1.2.2. Đặc điểm văn hóa vật chất và tinh thần .................................................... 12
CHƢƠNG 2: PHONG TỤC CƢỚI XIN CỦA NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN
SI MA CAI - TỈNH LÀO CAI ......................................................................... 16
2.1. Quan niệm của người Mông về phong tục cưới xin và lựa chọn vợ chồng
............................................................................................................................. 16
2.1.1. Quan niệm về phong tục cưới xin ............................................................. 16
2.1.2. Quan niệm khi chọn vợ, chồng ................................................................. 17
2.2. Những tác động ảnh hưởng đến tình yêu và hôn nhân ................................ 18
2.2.1. Tác động từ gia đình.................................................................................. 18
2.2.2. Tác động từ kinh tế - xã hội ...................................................................... 20
2.3. Những nghi lễ trong phong tục cưới xin của người Mông ở huyện Si Ma Cai
- tỉnh Lào Cai....................................................................................................... 21
2.3.1. Lễ ăn hỏi .................................................................................................... 21
2.3.2. Chuẩn bị Lễ cưới ....................................................................................... 24
2.3.2. Lễ cưới ở nhà trai (tub tog) ....................................................................... 26
2.3.3. Lễ cưới ở nhà gái (txhai tog) ..................................................................... 29
2.3.4. Lễ lại mặt (rov rooj) .................................................................................. 34
CHƢƠNG 3: PHONG TỤC CƢỚI XIN CỦA NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN
SI MA CAI - TỈNH LÀO CAI SO VỚI CÁC ĐỊA PHƢƠNG KHÁC ........ 35
3.1. Phong tục cưới xin của người Mông ở huyện Si Ma Cai so với các địa
phương khác ........................................................................................................ 35
3.1. Những hạn chế và tích cực biến đổi theo xã hội hiện nay trong tục cưới xin
của người Mông ở huyện Si Ma Cai ................................................................... 38
3.3. Kiến nghị và đề xuất..................................................................................... 46
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn khóa luận
Việt Nam là một quốc gia có hình chứ s nằm ở rìa phía đông của bán đảo
Đông Dương thuộc Đông Nam Á, chạy dài theo chiều kinh tuyến từ 23023’ Bắc
đến 8030’ Nam với vị trí địa lí như trên, đã tạo hóa cho Việt Nam là một quốc
gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng nhau sinh sống với nhiều văn hóa
phong tục tập quán và chạy qua một thời gian lịch sử lâu dài, tồn tại trong
những không gian có điều kiện tự nhiên và xã hội khác nhau. Từ đó tạo nên
mỗi một dân tộc lại có một đời sống kinh tế vật chất và văn hóa tinh thần
khác nhau, những vùng văn hóa địa phương đa dạng có sắc thái riêng đặc biệt
độc đáo. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta gắn với xu thế hội
nhập văn hóa, các dân tộc người và đã góp phần tạo nên văn hóa Việt Nam
“đa dạng trong thống nhất”.
Trong số các dân tộc tạo nên văn hóa Việt Nam “đa dạng trong thống nhất”
dân tộc Mông cũng là một trong những dân tộc có đóng góp to lớn tạo nên bản
sắc văn hóa Việt Nam. Dân tộc Mông sống rải rác ở các tỉnh Trung du và miền
núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đặc biệt là ở các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Sơn La,
Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Bắc Kạn… đây là những tỉnh tập trung
người Mông đông nhất. Mặc dù dân tộc Mông là một dân tộc thiểu số di cư vào
Việt Nam muộn, nhưng trong quá trình phát triển của mình thì dân tộc Mông
cũng có một nền văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc với những nét văn hóa
riêng, đặc trưng riêng của mình như phong tục cưới, tục ma chay, thờ cúng tổ
tiên, lễ hội… Trong sự phát triển chung ấy không thể không kể đến sự đóng góp
của người Mông ở huyện Si Ma Cai - tỉnh Lào Cai, do đó việc tìm hiểu đời sống
kinh tế vật chất và đời sống văn hóa tinh thần của người Mông là một điều vô
cùng quan trọng, nó không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ về đời sống của họ mà còn
góp phần nâng cao hiểu biết của mình một cách toàn diện và sâu sắc cũng như
nhìn nhận đánh giá chính xác hơn về dân tộc Mông ở huyện Si Ma Cai - tỉnh
Lào Cai nói riêng và người Mông nói chung. Phong tục cưới xin của người
Mông ở huyện Si Ma Cai là một phong tục đẹp mang đậm bản sắc riêng của dân
1
tộc Mông, vì thế cần được nghiên cứu, tìm hiểu, khôi phục làm rõ nét đặc sắc
trong cưới xin của người Mông để giúp cho nền văn hóa nước ta thêm đa dạng
và phong phú. Cho đến nay cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về dân tộc
Mông đã được công bố nhưng cũng do nhiều lí do khác nhau nên hiện tại vẫn
chưa có công trình nào nghiên cứu về phong tục cưới xin của người Mông ở
huyện Si Ma Cai - tỉnh Lào Cai một cách hệ thống, cụ thể, chi tiết. Nên tôi đã
quyết định chọn đề tài: “Bƣớc đầu tìm hiểu về phong tục cƣới xin của ngƣời
Mông ở huyện Si Ma Cai - tỉnh Lào Cai” là khóa luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đất nước Việt Nam ta là một nước đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng
nhau chung sống đã có sự hài hòa về mặt kinh tế xã hội, trong đó đặc biệt là
trong lĩnh vực văn hóa thì mỗi một dân tộc lại có những nét đặc trưng của dân
tộc mình nên đã tạo nên một văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc tạo nên văn
hóa Việt. Do đó việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của các
dân tộc đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Chính vì vậy mà việc nghiên cứu về đời sống của các dân tộc, đặc biệt là đời
sống văn hóa của tất cả các dân tộc nói chung và dân tộc Mông nói riêng đã thu
hút được sự quan tâm nhiều nhà nghiên cứu trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế xã hội, phong tục tập quán, đời sống tâm linh văn hóa, không thể thiếu là phong
tục cưới xin của người Mông.
Lễ cưới của người Mông đã được nhiều tác giả đề cập đến trong các công
trình nghiên cứu như:
+ Cuốn “Dân tộc Mông ở Việt Nam” (1994), Nhà xuất bản văn hóa dân tộc
của Cư Hòa Vần - Hoàng Nam, cũng đã đề cập đến lễ dạm hỏi và lễ cưới, trong
lễ ăn hỏi thì đề cập đến hai kiểu “dạm hỏi” và tục “kéo vợ”, lễ cưới thì cũng đã
nói đến lễ cưới ở nhà gái một cách khá chi tiết về những nét đặc sắc trong lễ
cưới của dân tộc Mông.
+ Tiểu luận: Lễ hội tục “kéo vợ” của người H’Mông (2006) của Hồ
Nguyễn Quỳnh Châu, trong tiểu luận này cũng đã nói đến đám cưới của người
Mông đặc biệt là tục kéo vợ, chia thành ba phần: A. Phần mở đầu (khái quát
2
đám cưới của dân tộc Mông), B. Phần nội dung (tục kéo vợ của người Mông), C.
Phần kết luận.
+ Khóa luận tốt nghiệp “Quan hệ hôn nhân của người HMông ở Mường
Lạn (Sốp Cộp, Sơn La) với người HMông ở Mường Xừm (Mường Ét,
CHDCND Lào)” (2010) của Giàng Bả Tủa, nói rõ về truyền thống quan niệm
chọn vợ chồng của người Mông.
Nhưng các công trình trên chỉ đề cập đến một phần “phong tục cưới” của
dân tộc Mông nói chung, chưa đi nghiên cứu tổng thể và chi tiết của một đám
cưới. Phong tục cưới của các dân tộc nói chung và dân tộc Mông nói riêng, dù
diễn ra ở nơi đâu thì cũng có những đặc điểm chung nhưng do ảnh hưởng bởi sự
giao thoa văn hóa của mỗi khu vực, nên ở mỗi vùng mỗi khu vực lại có những
nét riêng trong lễ cưới. Do đó, vấn đề “phong tục cưới của người Mông” cần
được nghiên cứu ở mỗi một địa danh cụ thể và chi tiết để thấy được trong cưới
xin người Mông cũng có những nét văn hóa đặc sắc và phong phú.
3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: “phong tục cưới xin của người Mông ở huyện Si Ma
Cai - tỉnh Lào Cai”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận sẽ đi sâu và tập trung vào nghiên cứu về “phong tục cưới xin của
người Mông ở huyện Si Ma Cai - tỉnh Lào Cai”, trong phạm vi tập trung vào
nghiên cứu ở các xã Sín Chéng, Nàn Sín, Thào Chư Phìn, Bản Mế, Cán Cấu,
Mản Thẩn, Lử Thẩn, Sán Chảy, Cán Hồ, … với diện tích là 234,54 km2. Có sự
so sánh với các địa phương khác.
3.3. Mục đích nghiên cứu
Việc tìm hiểu “phong tục cưới xin của người Mông ở huyện Si Ma Cai tỉnh Lào Cai”, góp phần tìm hiểu những nét đặc trưng trong văn hóa truyền
thống của người Mông. Khóa luận nhằm tái hiện lại và dựng lại bức tranh đám
cưới của dân tộc Mông và ở mỗi nơi thì phong tục cưới của người Mông lại
mang những nét đặc trưng riêng, để mọi người trong và ngoài nước hiểu được
3
phong tục cưới của người Mông một cách sâu sắc chi tiết và để thấy được bản
sắc, những nét độc đáo trong tục cưới xin của người Mông. Khóa luận giới thiệu
những nét văn hóa của người Mông, trên cơ sở đó phát huy những giá trị đặc
sắc, những mặt tiến bộ tích cực trong “phong tục cưới xin của người Mông”
đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm loại bỏ những phong tục tập quán hủ tục
không phù hợp với xu thế phát triển của xã hội.
4. Cơ sở tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở tƣ liệu
- Khóa luận được thực hiện trên cơ sở các nguồn tài liệu lưu trữ ở Trung
ương và địa phương bằng tiếng việt.
- Tài liệu điền dã địa phương ở huyện Si Ma Cai - tỉnh Lào Cai
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nền tảng của phương pháp luận sử học Mác xít và tư tưởng Hồ
Chí Minh, khóa luận chủ yếu sử dụng hai phương pháp lịch sử và phương pháp
lô gíc.
Ngoài ra, còn kết hợp với một số phương pháp khác như:
- Phương pháp điền dã: phỏng vấn, chụp ảnh, ghi chép, ghi âm: là phương
pháp nghiên cứu chủ đạo trong quá trình thực hiện khóa luận.
- Phương pháp thu thập và xử lí tư liệu: Thông qua các đợt khảo sát ở
huyện Si Ma Cai để thu thập tư liệu thực địa, các tư liệu thu được sẽ được phân
loại, tổng hợp, phân tích, so sánh… trước khi sử dụng biên soạn khóa luận.
- Phương pháp tổng hợp: đọc và nghiên cứu các tài liệu đã được công bố
(sách, báo, các trang web, tiểu luận, khóa luận), để thu thập các tài liệu, thông
tin để bổ sung, hỗ trợ cho khóa luận.
5. Đóng góp của khóa luận
Trong khóa luận này, tôi muốn dựng lại bức tranh về những nét đặc sắc
truyền thống trong phong tục cưới xin của người Mông ở huyện Si Ma Cai - tỉnh
Lào Cai, giúp chúng ta hiểu được những tục lệ tốt đẹp mà ông cha ta đã để lại
cho con cháu thế hệ hôm nay và mai sau. Đồng thời góp phần vào việc giữ gìn
và phát huy những nét văn hóa tốt đẹp, đồng thời đề ra những biện pháp để loại
4
bỏ những hủ tục lạc hậu vẫn còn tồn tại trong đám cưới của dân tộc Mông ở
huyện Si Ma Cai - tỉnh Lào Cai.
Những kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể là tài liệu tham khảo hữu
ích cho việc tìm hiểu về lịch sử địa phương, cũng như khi tìm hiểu những nét
văn hóa bản sắc của các dân tộc nói chung và dân tộc Mông nói riêng, trong việc
nghiên cứu giảng dạy lịch sử địa phương, các cơ quan quản lí văn hóa và các cơ
quan quản lí các dân tộc ở các cấp.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của khóa luận được chia
thành ba chương:
Chương 1: Khái quát về dân tộc và văn hóa của người Mông
Chương 2: Phong tục cưới xin của người Mông ở huyện Si Ma Cai - tỉnh
Lào Cai
Chương 3: Phong tục cưới xin của người Mông ở huyện Si Ma Cai - tỉnh
Lào Cai so với các địa phương khác
5
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC VÀ VĂN HÓA CỦA NGƢỜI MÔNG
1.1. Khái quát về dân tộc Mông
1.1.1. Địa vực cƣ trú
Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, dân tộc Mông đứng hàng thứ sáu,
sau các dân tộc Kinh, Tày, Thái, Mường, Khơ-me và chiếm 1,2443% dân số cả
nước với 1068189 người (theo số liệu Tổng điều tra dân số 1/4/2009).
Dân tộc Mông sống rải rác trong các tỉnh dọc biên giới Việt - Trung và Việt
- Lào, đồng bào sống tập trung ở các tỉnh như: Hà Giang, Lào Cai, Lạng Sơn,
Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái, Hòa Bình, Nghệ
An,… Những năm gần đây có một số người Mông đã di cư vào làm ăn sinh sống
ở các tỉnh thuộc Tây Nguyên.
Dân tộc Mông sống ở vùng cao. Có những tỉnh toàn bộ là miền núi như Hà
Giang, Tuyên Quang, Lai Châu, Sơn La. Song cũng có những tỉnh có phần đất là
đồng bằng, nhưng người Mông cũng chỉ có sống ở vùng núi cao như huyện Kỳ
Sơn (Nghệ An), huyện Quan Hóa (Thanh Hóa), huyện Mai Châu (Hòa Bình).
Đồng bào Mông thường sinh sống ở độ cao từ 800 m đến 1500 m so với mặt
nước biển. Ở những nơi này, khí hậu mát mẻ, biên độ nhiệt giữa ngày và đêm
thường là từ 50C đến 70C. Ở các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La,…
hàng năm vào mùa đông rét hơn nhiều so với đồng bằng. Nhiệt độ trung bình
mùa đông là từ 80C đến 140C, sương muối, mây mù là hiện tượng phổ biến, mùa
lạnh kéo dày 6 tháng, mùa đông là mùa khô, những tháng mưa ít nhất là tháng
mười một và tháng mười hai, lượng mưa trung bình khoảng 5 mm đến 10 mm.
Vào Mùa hè, ban ngày thời tiết mát mẻ, song ban đêm nhiệt độ hạ xuống nhiều.
Nhiệt độ trung bình mùa hè là từ 170C đến 250C, mùa hè ở vùng dân tộc Mông
cũng là mùa mưa. Hai tháng mưa nhiều nhất là tháng sáu và tháng bảy, lượng
mưa trung bình của hai tháng này là 450 mm.
Người Mông phần lớn chỉ sống ở miền núi trên núi cao, độ dốc lớn, nên đi
lại khó khăn, nguồn nước ở vùng Mông không đồng đều. Có nơi rừng còn nên
nguồn nước dồi dào nhưng có nơi rừng cây bị phá trụi từ lâu, rừng đã biến thành
6
đồi trọc, rừng cây biến thành đồi cỏ gianh, thành những núi đá vôi trọc không
cây cối, nên hiện nay nguồn nước rất khan hiến, thiếu nước sinh hoạt nghiêm
trọng nhất là vào mùa khô [5; tr.7, 8, 9].
Người Mông nói chung và người Mông ở Si Ma Cai nói riêng. Si Ma Cai là
một huyện vùng cao biên giới của Tỉnh Lào Cai, có nhiều dân tộc thiểu số sinh
sống trong đó dân tộc Mông chiến 85% dân số của toàn huyện. Địa bàn có tọa
độ địa lý từ 22o35’ đến 22o44’ độ Kinh Bắc, 104o06’ đến 104o12’ độ Kinh Đông.
Cách trung tâm tỉnh lỵ Lào Cai 95 km về phía Đông Bắc.
- Phía Tây và một phần phía Bắc giáp huyện Mường Khương.
- Phía Nam giáp huyện Bắc Hà.
- Phía Đông giáp huyện Sín Mần (tỉnh Hà Giang).
- Một phần phía Bắc với 12,2 km đường biên giới giáp huyện Mã Quan
(tỉnh Vân Nam - Trung Quốc).
Địa hình: Si Ma Cai được kiến tạo bởi nhiều dải núi chạy theo hướng Đông
Bắc - Tây Nam, thấp dần về phía Bắc, có đặc trưng phân tầng độ cao lớn và chia
cắt mãnh liệt với nhiều thung lũng nhỏ hẹp. Các dải núi được hình thành từ hai
mạch núi chính: Mạch núi trung tâm địa bàn huyện khởi nguồn từ Đông Nam
xã Nàn Sán với nhiều đỉnh núi có độ cao từ 1.630 m đến 1.800 m chạy theo
hướng Đông Bắc - Tây Nam. Phía Đông Bắc xã Sán Chải, mạch núi khu Tây
Bắc chạy theo hướng chính là Đông Bắc - Tây Nam. Ngoài hai mạch núi chính
trên khu Đông Nam còn có dãy núi nhỏ chạy từ Bắc Hà sang theo hướng Đông
Bắc - Tây Nam.
Địa hình có độ dốc khá lớn, trên 25 độ chiếm 53% diện tích; từ 15 độ đến 25
độ chiếm 32% diện tích; dưới 15 độ chiếm 15% diện tích.
Khí hậu: Địa hình Si Ma Cai bị chia cắt mạnh nên khí hậu diễn biến khá
phức tạp, hình thành nên các tiểu vùng khí hậu khác biệt. Có hai tiểu vùng khí
hậu chính là cận nhiệt đới và nhiệt đới, vùng ven sông Chảy bao gồm các vùng
đất thấp gồm các xã Lùng Sui, Cán Cấu, Sán Chải, Nàn Sán, Bản Mế, Nàn Sín là
vùng khí hậu nhiệt đới không điển hình. Phần đất cao trên 800 m thuộc các xã
Quan Thần Sán, Sín Chéng, Cán Hồ, Sán Chải, Nàn Sín, Thào Chư Phìn có khí
7
hậu cận nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình cả năm khoảng 18,90C, tháng lạnh nhất
khoảng 100C, nhiệt độ có sự thay đổi rõ rệt giữa hai mùa, thậm chí khác biệt
trong phạm vi một xã. Ở vùng ven sông Chảy và trong các thung lũng, nhiệt độ
thường cao, cường độ chiếu sáng lớn hơn so với khu vực các đai cao trên 800 m.
Lượng mưa trung bình cả năm đạt từ 1.300 mm đến 2.000 mm. Mưa tập trung
vào các tháng 6, 7, 8 độ ẩm không khí trung bình cả năm đạt từ 83% đến 87%.
Độ ẩm có tỉ lệ lớn về mùa mưa và thay đổi theo từng vùng.
Thủy văn : Sông Chảy bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) chảy vào
miền Bắc nước ta qua địa phận huyện Si Ma Cai với tổng chiều dài 43 km, có ý
nghĩa quan trọng đối với chiến lược phòng thủ biên giới của huyện. Ngoài sông
Chảy, Si Ma Cai còn có hệ thống khe suối tương đối dày đặc chảy từ dãy núi
cao xuống thung lũng, song phần lớn các suối bị cạn nước vào mùa khô. Do địa
hình có độ dốc lớn, độ chia cắt mạnh, khí hậu lượng mưa không đồng đều gây
khó khăn trong việc phát triển kinh tế xã hội.
Nhưng hiện nay xã hội phát triển, cùng với các chính sách của Đảng và Nhà
nước, đầu tư phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, làm
cho miền xuôi cũng như miền ngược phát triển giao thông đường ô tô đã đến các
bản làng miền núi dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Mông nói riêng. Người
Mông ở Si Ma Cai cũng vậy, được Đảng và Nhà nước quan tâm và đầu tư, nhiều
dự án đặt kết quả cao như chương trình 135, xây dựng nông thôn mới,…đã góp
phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, đường nhựa, đường bê tông được xây
dựng đến các bản làng, nên đi lại cũng đã dễ dàng hơn, trình độ nhận thức cũng
đã được nâng cao.
1.1.2. Nguồn gốc lịch sử và tên gọi
Các tác giả phương Tây là Savina và Keith Quincy, bằng cách xem xét các
truyền thuyết và tín ngưỡng của dân tộc Mông, Savina chứng minh rằng: người
Mông, thời nguyên thủy đã sinh sống ở vùng Lưỡng Hà, từ đó họ đi về phía Bắc
ở Sibria của nước Nga [5; tr.13, 14]. Sau đó mới xuống theo hướng Đông Nam
vào Trung Quốc khoảng 2500 năm TCN, tiếp tục tiến sâu vào phía Nam cho đến
khi gặp khúc uốn quanh của sông Hoàng Hà. Người Mông gặp nhóm người
8
Lung Shang ở đây, họ cùng người Lung Shang thành lập vương quốc đầu tiên
của vùng này người Mông cũng là dân tộc cổ nhất ở Châu Á. Theo lịch sử Trung
Quốc cho rằng sự kiện đầu tiên làm cho người Mông bắt đầu di cư đi nơi khác là
cách đây khoảng 4000 năm ở Trung Quốc có một vị tướng tên là Huan You
đánh bại người Mông, tự xưng là Hoang Ti, người Mông đã nhiều lần chống lại
Hoang Ti nhưng đến thế kỉ 26 TCN thì người Mông bắt đầu di cư đến phía Nam
vào vùng Quý Châu Vân Nam. Sau sự kiện đó người Mông đã trở thành cư dân
vùng ngoại biên của nhà Thương. Đến thời kì nhà Chu, họ dồn người Mông vào
sống tập trung ở San wei. Từ đó, đến thế kỉ IV sau công nguyên sự suy tàn của
phong kiến Trung Quốc, người Mông đã đứng lên làm chủ vùng Hồ Bắc, Hồ
Nam - Trung Quốc. Nhưng không lâu khoảng thế kỉ IX bị người Hán giành lại,
truy đuổi người Mông xuống vùng Quý Châu, Tứ Xuyên khiến cho người Mông
bị mất tổ quốc, sau đó người Mông tiếp tục dời Tứ Xuyên vào phía Nam để khỏi
sự tàn sát của người Hán. Dần dần như vậy người Mông mới thiên di vào miền
Bắc Việt Nam, Lào, Myanma và Đông Bắc Thái Lan sống rải rác thành các
nhóm ở nước này. Theo các điều tra thì người Mông có mặt sớm nhất ở Việt
Nam vào khoảng thế kỉ XVII, với nhiều đợt lớn nhỏ vào Việt Nam.
“Người Mông thiên di vào Việt Nam theo ba đợt lớn khác nhau.
Đợt thiên di lần thứ nhất, người Mông vào Việt Nam cách đây khoảng 14 15 đời. Khoảng 80 gia đình người Mông họ Vù và họ giàng từ Qúy Châu thiên
di đến Đồng Văn (Hà Giang).
Đợt thiên di lớn thứ hai đến Việt Nam cách đây khoảng 9 - 10 đời. Đợt
thiên di này đi theo hai đường: đến Đồng Văn (Hà Giang), ước chừng 100 gia
đình, gồm các họ: Vàng, Lý; đến Si Ma Cai (Lào Cai) ước chừng 80 gia đình,
gồm các họ: Vàng, Lù, Chấu, Sùng, Vù, Mùa. Từ đây một số gia đình sau này đã
di sang Tây Bắc.
Đợt thiên di lớn thứ ba của người Mông đến Việt Nam là đợt thiên di đông
hơn cả và đi theo các đường vào Hà Giang, Lào Cai và trực tiếp đến Tây Bắc
nước ta”. [5; tr.17]
9
Lịch sử thiên di của người Mông vào Việt Nam gắn liền với quá trình đi
tìm nơi sinh sống ổn định, tự do và ấm no. Khi di cư đến Việt Nam, người Mông
thấy ở đây là nơi có quả bí to như cái vạc, mà lợn rừng có thể khoét lỗ chui vào
để đẻ. Qủa bí vừa là ổ, vừa là thức ăn cho lợn: nơi trồng cây lương thực gốc có
củ, thân có bắp, ngọn trổ bông lúa. Người Mông coi Việt Nam là quê hương
mình, thể hiện qua bài ca:
…“Con cá ở dưới nước,
Chim bay ở trên trời,
Chúng ta sống ở vùng cao.
Và con chim có tổ,
Người Mông ta cũng có quê hương,
Quê hương ta là Mèo Vạc”…[5; tr.16]
Người Mông Việt Nam là một trong những cư dân sinh sống sớm nhất, lâu
nhất ở vùng núi cao của miền Bắc Việt Nam. Người Mông tự gọi tên dân tộc
mình bằng tiếng Mông là người Mông, tên Hmôngz đọc gần như Mông, hơi qua
mũi nhiều hơn là tên tự gọi. Các dân tộc khác nhau gọi người Mông với tên khác
nhau. Người Trung Quốc gọi người Mông là Miêu, phát âm gần như là Mèo.
Người Kinh trước đây gọi người Mông là Mèo, người khu Bốn gọi theo tiếng
địa phương là Mẹo, có người gọi là Hơ Mông. Các tên gọi Miêu, Mèo, Hơ
Mông đều không đúng, không được đồng bào chấp nhận. Hiện nay, người Mông
ở Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Việt Nam,… đều thống nhất một tiếng Mông.
Không bao giờ họ tự gọi mình là Mèo hay Miêu lại càng không gọi là Hơ Mông.
Tên dân tộc gọi theo tên mà dân tộc đó thường tự gọi và thừa nhận là đúng nhất.
Tại Hội nghị cốt cán dân tộc Mông có đại diện của tất cả các địa phương và các
nhóm Mông ở trong nước đến dự, năm 1978 do Ủy ban dân tộc của Chính phủ
chủ trì, đã thống nhất kiến nghị và được chấp nhận tên gọi là dân tộc Mông mà
không gọi là Mèo, Miêu, Hơ Mông nữa. Thông báo số 02 ngày 3/9/1992 của
Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng về ý kiến kết luận của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng, tại Hội nghị vùng cao và dân tộc Mông cũng đã viết là “Hội nghị vùng
cao và dân tộc Mông”.
10
Từ đó người Mông sống rải rác các xã, các bản như hiện nay với nhiều nét
văn hóa đặc sắc, kinh tế phát triển nhưng chưa đạt hiệu quả cao. Ngày nay được
Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư thông qua các chính sách ưu tiên phát triển
miền núi và các dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa, ở các bản làng người
Mông cũng có nhiều tiến bộ kinh tế phát triển hơn trước, tình trạng du canh du
cư giảm, đồng bào sống định cư, ổn định trên mạnh đất quê hương của mình.
1.2. Khái quát về văn hóa của ngƣời Mông
1.2.1. Đời sống kinh tế (văn hóa mƣu sinh)
Lịch sử cư trú sống chủ yếu ở vùng núi cao, đã để lại cho người Mông khác
hẳn so với các dân tộc khác ở vùng chân núi và thung lũng. Người Mông sống
trên rừng núi nhiều nên chủ yếu sống dựa vào nền kinh tế nương rẫy, chăn nuôi,
thủ công, săn bắn và hái lượm, cuộc sống tự cung tự cấp.
Nương rẫy: người Mông sống chủ yếu dựa vào diện tích đất nương đồi. Điều
kiện sản xuất khó khăn vất vả, nhưng người Mông nói chung và người Mông Si
Ma Cai nói riêng, họ vẫn luôn yêu quý mảnh đất của mình. Cần cù sáng tạo là
truyền thống quý báu. Người Mông có kĩ thuật và kinh nghiệm thâm canh cây
ngô và lúa nương. Ngô là cây lương thực chính của đồng bào dân tộc Mông,
gieo trồng cả trên núi cao, núi đá. Hiện nay, với kĩ thuật canh tác và sử dụng
phân bón rất khoa học, đồng bào Mông đã tạo nên những nương ngô tươi tốt cho
năng suất, sản lượng rất cao. Cây lúa nương được trồng nhiều ở Tây Bắc, đây là
cây lương thực chính của đồng bào. Ngoài ra còn có một số loại cây ăn quả như
mơ, mận, lê, hồng cũng đang phát triển về diện tích và sản lượng góp phấn thúc
đẩy kinh tế hộ gia đình. Ở vùng đất thấp, tập trung khai khẩn thung lũng thành
những cánh đồng lúa màu mỡ.
Nghề thủ công: đồng bào dân tộc Mông còn sáng tạo các làng nghề thủ công
có giá trị. Điển hình là nghề rèn đúc với kĩ thuật tôi thép cao tạo ra các sản phẩm
công cụ sản xuất có giá trị, kỹ thuật nổi bật nhất trong nghề rèn của người Mông
là kỹ thuật khoan ống thép làm nòng súng kíp, rèn những dụng cụ dùng trong gia
đình như dao, quốc, lưới cày,... Bên cạnh nghề đúc rèn còn có nghề dệt, thêu, vải
11
Lanh của người Mông có từ rất sớm đã trở thành loại vải quý hiếm. Người
Mông thường đánh giá về phẩm chất của những chàng trai, cô gái qua thơ ca:
“Gái đẹp mà không biết làm Lanh cũng xấu
Trai khỏe không biết làm nương cũng hèn”.[6; tr.12]
Cùng với nghề dệt thêu đạt tới trình độ kĩ thuật khá tinh tế. Nghệ thuật sáng
tạo hoa văn bằng in sáp ong, thêu ghép vải màu phụ nữ Mông đã tạo ra phong
cách nghệ thuật trang trí nền trang phục độc đáo.
Săn bắn và hái lượm: là một hoạt động kinh tế, tuy chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ
trong thu nhập nhưng cũng đóng một vai trò đáng kể trong nền kinh tế mang yếu
tố tự nhiên, đồng thời cũng mang ý nghĩa giải trí. Các vụ săn bắn được tiến hành
trong cả năm đặc biệt là vào mùa đông thu hoạch xong nhàn hay những năm mất
mùa. Trước những năm chưa có chính sách cấm súng người Mông thường đi săn
bắn lợn rừng, hưu, nay, báo, sóc, gà rừng,… Còn hái lượm chủ yếu là măng
đắng, măng tre, củ mài, củ nâu,…và các loại rau cỏ có sẵn trong tự nhiên.
Như vậy, kinh tế - xã hội của người Mông mang bản chất văn hóa đầy màu
sắc, trong xã hội thì có sự hòa nhập giao lưu giữa các dân tộc nơi đây thông qua
nhưng lễ hội, chợ phiên mọi người giao lưu buôn bán kinh tế đồng thời cũng là
dịp mọi người hẹn hò, gặp gỡ nhau. Trong kinh tế người Mông luôn lao động
chăm chỉ, cần cù và sáng tạo cùng với sự phát triển theo xu hướng chung của
thời đại, để gắn bó xây dựng quê hương.
1.2.2. Đặc điểm văn hóa vật chất và tinh thần
Sắc thái văn hóa người Mông nói chung và người Mông ở Si Ma Cai nói
riêng, phản ánh rõ nét nhất ở: Lễ “cưới xin” là phong tục về cái đẹp của tình yêu
đôi lứa, lễ hội “Gầu Tào” đây là lễ hội phản ánh kho tàng văn hóa dân tộc độc
đáo, lễ hội có nội dung cầu phúc hoặc cầu mệnh. Bên cạnh đó trong kho tàng
văn hóa của người Mông còn có sự độc đáo với lễ hội “Cúng rừng”, lễ hội cúng
rừng của người Mông có ý nghĩa giáo dục truyền thống sâu sắc thông qua quy
ước thôn bản và các làng điệu dân ca thấm đậm trữ tình. Ngoài ra người Mông
Si Ma Cai còn có những điệu múa in đậm dấu ấn các thế võ cổ truyền như múa
gậy sênh tiền, múa khăn,... múa gậy có động tác võ thuật nhanh, gắn với thiên
12
nhiên, bảo tồn các rừng cấm, bảo vệ môi trường, đây là nét độc đáo trong vũ hội
Si Ma Cai.
Văn hóa dân tộc ở Si Ma Cai phản ánh ở chợ phiên, chợ phiên không chỉ là
trung tâm trao đổi kinh tế mà còn là nơi giao lưu văn hóa. Nếu như ở Sa Pa, Bắc
Hà và nhiều nơi khác yếu tố văn hóa bị ảnh hưởng mạnh bởi yếu tố thị trường
thì ở Si Ma Cai vẫn còn giữ nguyên được sắc thái bản địa. Thể hiện người đến
chợ giao lưu tình cảm, hỏi thăm tin tức họ hàng, kinh nghiệm làm ăn trên bàn
“Thắng Cố” với bát rượu ngô nồng nàn thắm tình dân tộc. Cũng từ đây mà họ có
thêm bạn bè, anh em kết nghĩa khi đã thổ lộ hết tâm can, đặc biệt là những
chàng trai, cô gái họ gặp gỡ nhau hẹn hò và kết duyên vợ chồng.
Huyện Si Ma Cai là một trong những cái nôi bảo vệ văn hóa truyền thống
độc đáo của các dân tộc gồm: Văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, y học dân
gian và chữ viết, tiếng nói.
Nhà cửa: Nhà cửa của người Mông là đất khung gỗ được làm bằng nhiều
loại gỗ khác nhau nhưng phải là loại gỗ bền, lâu năm, kết hợp với kèo, gồm hai
mái lớn và hai mái nhỏ nhà có ba gian, gian giữa là gian để thờ cúng tổ tiên.
Nguyên liệu lập nhà chủ yếu là cỏ gianh và ngói. Trong nhà có cột ma, đây là
cột được coi là thiêng liêng nhất, người lạ và phụ nữ không được treo bất cứ thứ
gì vào cột.
Trang phục: trang phục truyền thống của người Mông nơi đây được làm
bằng sợi lanh. Kĩ thuật, thời gian nguyên liệu để làm được một bộ quần áo và
váy phải qua rất nhiều công đoạn. Đó là bắt đầu từ trồng lanh, rồi chặt cây tước
vỏ lấy sợi, quá trình xe tuy không mấy phức tạp nhưng đòi hỏi nhiều thời gian
và sự tranh thủ ở mọi lúc, mọi nơi của người phụ nữ. Trang phục phụ nữ Mông
không khoe vẻ đẹp cơ thể qua kĩ thuật cắt khâu mà chủ yếu thể hiện vẻ đẹp qua
các mô típ trang trí và màu sắc hoa văn. Phụ nữ Mông là tác giả nghệ thuật tạo
hình trên nền trang phục. Cả cuộc đời người phụ nữ gần như gắn bó với công
việc thêu dệt và in hoa văn. Em bé gái Mông mới có 9, 10 tuổi đã được các mẹ,
các chị tập cho thêu thùa. Nét đẹp của đức tính đó thể hiện rất rõ trong thơ ca
của đồng bào Mông:
13
“Lớn lên anh theo cha đi cày nương,
Theo anh vào rừng săn thú,
Lớn lên em theo mẹ tập thêu,
Theo chị nhuộm in hoa trên váy mới”. [6; tr.12]
Hạnh phúc của vợ chồng, niềm vui của mỗi gia đình được phản ánh ngay
trong bức tranh sinh hoạt hàng ngày. Người vợ ngồi thêu, chồng thổi khèn hoặc
giúp vợ trong công việc thêu thùa.
“Cuối nhà là nơi em ngồi thêu váy,
Đầu nhà là nơi anh thổi sáo múa khèn,
Em thêu váy mới không có sáp,anh ra chợ kiếm,
Em in hoa mới không biết đường, anh cầm que vạch giúp”. [6; tr.13]
Sự khéo léo và bàn tay thoăn thoắt của người phụ nữ Mông, trở thành biểu
tượng của đức tính cần cù và chăm chỉ. Khi sợi lanh xe được hoàn thành, họ cho
vào nồi nấu cùng nước vôi để tách vỏ khỏi sợi lanh bằng các nấu, rồi mới mang
đi giặt và phơi khô. Sau đó mới cho vào guồng quay và trúc để xe lại cho nhỏ và
chắc hơn, cuối cùng sợi lanh được lắp vào khung cửi để dệt thành vải. Khi thành
vải rồi nhuộm bằng củ nâu và một số loại cây trồng lá rộng, người Mông gọi là
“Nkaj”. Kỹ thuật làm thuốc hay màu nhuộm cũng rất cầu kì. Họ chặt cây ngâm
vào trong nước một thời gian khi thuốc thối nát hết rồi mới cho lên đun, đặc lại
rồi mới pha thêm nước của cây đó hòa tan mới nhúng vải xuống rồi mang đi
phơi khô. Như vậy đã có vải và váy theo như ý muốn, trang phục của người phụ
nữ Mông rất sặc sỡ, đa dạng gồm: váy, áo yếm, khăn cuốn đầu, bộ xà tích. Váy
của phụ nữ Mông có hình nón trụ, xếp nếp xòe rộng. Khi bước đi váy đung đưa
lượn sóng. Trang phục đàn ông giống như đàn ông dân tộc Nùng: quần dài, đũng
chân què, cạp lá tọa, áo ngắn ống rộng, cổ đứng mở bụng cài khuy, quần áo đều
màu chàm nhưng kĩ thuật khâu may khác nhau. Hiện nay trang phục thường làm
bằng vải công nghiệp, đàn ông hầu như bỏ trang phục dân tộc, phụ nữ thì vẫn
giữ trang phục dân tộc nhưng không phải thêu và vải lanh nữa.
Tín ngưỡng tôn giáo: mỗi dân tộc lại có những tôn giáo tín ngưỡng riêng,
đối với người Mông cũng có rất nhiều tín ngưỡng tôn giáo đặc biệt là tục thờ
14
cúng tổ tiên và các vị thần, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vừa thể hiện niềm tin,
vừa thể hiện tín ngưỡng thiêng liêng sự gắn kết dòng họ và văn hóa cội nguồn.
Thờ cúng tổ tiên được mỗi dòng họ quy định rất rõ ràng, nếu đó là một gia đình
thì dưới mái nhà phải có nơi thờ cúng tổ tiên, nơi thờ cúng tổ tiên là vách tường
giữa ngôi nhà tức là gian giữa của ngôi nhà. Nơi thờ này người Mông gọi là chỗ
nghỉ chân của tổ tiên, cho hai tấm ván gỗ ngắn làm bàn thờ, tấm đặt cao hơn gọi
là tấm phụ, tấm thấp hơn là tấm chính. Trên hai tấm ván có ba ống tre ngắn để
thắp hương. Tấm chính đặt một ống tre, tấm phụ đặt hai ống tre. Theo phong tục
tập quán chỉ có người trong nhà mới được quyền thực hiện các nghi lễ thờ cúng
tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên không chỉ thể hiện lòng biết ơn đối với cha ông ta với
những người đã khuất mà còn thể hiện sự cầu mong gia đình bình an hòa thuận.
Lễ được thực hiện vào các dịp: mừng năm mới tết, lễ gọi vía, lễ thả hồn, gia
đình có người ốm, ăn cơm mới.
Y học dân gian: là một phần không thể thiếu trong cuộc sống du canh du cư
của người Mông ở nơi đây. Người Mông tự tìm cho mình thuốc riêng để chữa
bệnh và những thuốc này lấy từ tự nhiên. Như thuốc bó xương hay thuốc bong
gân, thuốc chữa đau bụng, thuốc chữa viên dạ dày, thuốc trị độc khi bị rắn độc
cắn và nhiều loại thuốc khác.
Chữ viết, tiếng nói: người Mông có hệ thống chữ viết riêng, chữ viết của
người Mông là chữ La tinh ghép và biến thành chữ Mông. Hiện nay loại chữ này
được sử dụng rộng rãi và phổ biến đến từng bản người Mông và trên thế giới.
Chữ được sử dụng viết truyện, ghi nhớ lại các phong tục tập quán, các nghi lễ
viết thư thăm hỏi nhau. Người Mông có hệ thống tiếng mẹ đẻ của mình rất đa
dạng và phong phú.
Như vậy, ta thấy người Mông ở Si Ma Cai nói riêng và dân tộc Mông nói
chung cùng với quá trình phát triển lịch sử dài hàng trăm năm của loài người với
sự tàn phán của chiến tranh nhưng người Mông vẫn còn giữ được những nét văn
hóa trong phong tục tập quán đầy bản sắc của mình, mang tính chất riêng của
vùng đất nơi đây, một văn hóa mang đầy đủ các loại hình văn hóa cả vật chất lẫn
tinh thần, những văn hóa dân gian đậm đà bản sắc dân tộc.
15
CHƢƠNG 2
PHONG TỤC CƢỚI XIN CỦA NGƢỜI MÔNG Ở
HUYỆN SI MA CAI - TỈNH LÀO CAI
2.1. Quan niệm của ngƣời Mông về phong tục cƣới xin và lựa chọn
vợ chồng
2.1.1. Quan niệm về phong tục cƣới xin
Các dân tộc nói chung và người Mông ở huyện Si Ma Cai nói riêng, cưới
xin là một phong tục văn hóa đặc sắc nên mọi người đều rất coi trọng, bởi vì
phong tục cưới được coi như là sự thông báo rộng rãi với xã hội, về sự chấp
nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn nhân đồng thời dân tộc Mông
cũng quan niệm rằng khi hai người trai gái lấy nhau, thì phải tổ chức một bữa
cơm để cúng tổ tiên và mời họ hàng, làng xóm để cùng chúc cho đôi bạn trẻ
sống hạnh phúc, con đầy cháu đống, làm ăn phát đạt, cùng chung sống đến đầu
bạc da lông, cũng là dịch để thông báo với mọi người là hai người đã lấy nhau.
Đặc biệt người Mông còn quan niệm rằng con gái của mình được sinh ra, bố mẹ
phải mất rất nhiều tiền của để nuôi khôn lớn, nên thường khi đôi trai gái đã lấy
nhau thì nhà trai phải sang nhà gái thách cưới, nhằm bù công nuôi dưỡng của
cha mẹ nhà gái. Theo ngày xưa thì sẽ do nhà gái thách cưới có nhà thách rất cao
nên có khi nhà trai nếu nghèo thì còn không đắp ứng được hay theo tục lệ của
làng nếu lấy trong làng xóm thôn thì chỉ thách theo giá bình thường của làng
nhưng khi đã lấy qua xã thì thách cao hơn còn lấy qua huyện, tỉnh thì thách cao
hơn nữa vì họ cho rằng con gái lấy chồng gần thì còn giúp được bố mẹ còn nếu
lấy xa thì không hi vọng gì, họ cho rằng có khi bố mẹ mất còn không đến nên
mới thách cao coi như không có con gái đó, người Mông còn có câu nói “muag
tuag” nghĩa là bán đi không coi là con của mình nữa, thậm chí còn kiên quyết
không cho lấy. Nhưng đó chỉ là những quan niệm ngày xưa đã lạc hậu hiện nay
không còn nữa, ngày nay thì người Mông cũng quan niệm thoáng tùy con cái lấy
ở đâu cũng được chỉ cần con mình cảm thấy hạnh phúc.
16
Người Mông cũng rất coi trọng tục cưới xin nếu nhà nào mà không tổ chức
được thì sẽ bị xã hội chê bai, để tổ chức được một đám cưới thì người Mông
cũng có quan niệm như bao dân tộc khác, phải chọn ngày lành tháng tốt, chọn
ngày thì sẽ do nhà trai chọn họ sẽ hỏi những người thầy cúng hoặc những người
biết tính để chọn ngày cưới, đồng thời cũng phải căn cứ vào tuổi của đôi trai gái
và cả hai bên gia đình, thường người người Mông không tổ chức đám cưới vào
các ngày 7, 8, 18, 27, 28, 29, 30 (âm lịch) trong tháng họ cho rằng đây là những
ngày không tốt, còn trong một năm thì người Mông thường cũng không tổ chức
đám cưới vào giữa năm từ tháng 4, 5, 6, 7, 8 (âm lịch) vì đây là những tháng có
sấm sét nên không tốt để tổ chức đám cưới. Người Mông cho rằng mùa xuân là
mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở mà con người không nằm ngoài quy luật đó nên
họ thường chọn những tháng 1, 2 (âm lịch) là những tháng tốt để tổ chức cưới,
sau khi mùa thu hoạch xong mọi người cũng rảnh và cũng là những dịp để các
chàng trai và cô gái đến với nhau thành vợ thành chồng nên vào những tháng 9,
10, 11 (âm lịch) người Mông cũng tổ chức đám cưới rất nhiều. Cưới xin là ngày
rất quan trọng trong cuộc đời của con cái nên phải chọn ngày lành tháng tốt,
được tổ chức rất long trọng.
2.1.2. Quan niệm khi chọn vợ, chồng
Trong truyền thống cũng như hiện tại người Mông ở huyện Si Ma Cai nói
riêng và người Mông ở các nơi khác nói chung, đều có những quan niệm gần
giống nhau khi lựa chọn một nửa của mình để cùng chung sống cả đời với nhau,
ngày xưa khi lựa chọn bạn đời của mình thì người Mông cũng xem xét ở rất
nhiều khía cạnh rất khắc khe, nhưng bây giờ xã hội phát triển nên cũng ảnh
hưởng tới phong tục tập quán và những quan niệm cũng tiến bộ hơn so với trước
đây. Ngày xưa người Mông ở huyện Si Ma Cai không lấy vợ, chồng quá xa bởi
vì lúc đó xã hội chưa phát triển các phương tiện giao thông chưa có nên gây khó
khăn cho việc đi lại của hai bên gia đình, đặc biệt là lúc tổ chức cưới. Vì vậy,
khi chọn vợ, chồng thì cũng phải tìm hiểu xem người vợ, chồng đó là người như
thế nào, thân phận, gia đình ra sao.
17
Người Mông chọn vợ theo các tiêu chuẩn sau:
- Người không bị dị tập và các bệnh xã hội.
- Người phải mập, da trắng, tươi vui, cởi mở dễ hòa nhập với mọi người.
- Chọn người ngoan ngoãn, vâng lời cha mẹ, biết cách cư sử, ăn nói dễ nghe.
- Chăm chỉ, biết cách thêu thùa, may mặc, khâu vá và thành thạo các công
việc trong gia đình.
- Thương yêu cha mẹ, anh em trong gia đình và họ hàng.
Người Mông chọn chồng theo các tiêu chuẩn sau:
- Người không bị dị tập và các bệnh xã hội.
- Có tài năng, sức khỏe tốt, chăm chỉ, biết cày bừa giỏi, am hiểu phong tục
tập quán của dân tộc mình.
- Người cao ráo, đẹp trai, tươi vui, cởi mở, dễ gần và dễ hòa nhập.
- Có lòng bao dung, vị tha, thương yêu gia đình và mọi người.
Quan niệm chọn vợ, chồng của người Mông nhằm mục đích có cuộc sống
yên vui, gia đình hòa thuận, hạnh phúc thành đạt. Vì vậy, khi chọn vợ, chọn
chồng thì người Mông thường phải tìm hiểu nhau kĩ càng, nếu ở các trai bản
khác xa nhau mà hai người chưa từng biết hay không thường xuyên gặp nhau để
tìm hiểu. Họ sẽ thường hỏi qua người thân của mình hay bạn bè ở trong bản đó
xem người mình muốn lấy làm vợ hoặc làm chồng đó có chăm chỉ, sức khỏe,
biết cách thêu thùa, may mặc,…nếu có đủ các tiêu chuẩn trên sẽ lấy làm vợ,
chồng tổ chức cưới xin cho cả hai bên gia đình.
2.2. Những tác động ảnh hƣởng đến tình yêu và hôn nhân
2.2.1. Tác động từ gia đình
Theo quan niệm của ngày xưa thì tình yêu và hôn nhân của con cái hầu như
do bố mẹ sắp xếp, bố mẹ chọn người nào thì phải lấy người đó. Với quan điểm
như vậy, thì bố mẹ sẽ đi tìm con dâu cho con trai mình, họ thường chọn những
cô gái chăm chỉ, biết thêu thùa, có hiếu với cha mẹ họ hàng, hòa thuận với mọi
người, ăn nói nhẹ nhàng… Trong làng của mình để cho con trai mình, có khi vợ
lớn tuổi hơn chồng đến 4, 5 tuổi, còn con gái thì không được lựa chọn. Vì vậy
gia đình có sự ảnh hưởng rất lớn đối với tình yêu, hôn nhân hay nói cách khác
18
“cha mẹ đặt đâu con người đấy”, với quan niệm như vậy, gia đình có tác động
đến tình yêu hôn nhân của con cái theo các tục sau:
Người Mông có tục “đính hôn” nói tiếng mông gọi là “qhaib” nghĩa là đạt
quan hệ thông gia trước, quyết định sau này hai con lớn lên phải lấy nhau,
thường họ sẽ đạt theo mỗi quan hệ là con của anh trai với con của em gái ruột
hay của hai chị em ruột mà đi lấy chồng khác họ với nhau, vì họ cho rằng chỉ có
con của anh em thì mới yêu thương mình như bố mẹ đẻ và bố mẹ cũng mới yêu
con của anh chị em mình như con đẻ của mình, giữ được tài sản của dòng họ,
mối quan hệ thân thiết của hai bên gia đình không bị mất, khi nào con cái lớn thì
nhà trai sẽ chọn ngày lành tháng tốt sang thưa chuyện với nhà gái rồi hai bên
thảo thuận ăn hỏi rồi tiến đến hôn nhân.
Người Mông còn có tục “kéo vợ” rất phổ biến, đó là bố mẹ sẽ chọn một cô
gái cho con trai mình dù con gái đó không thích con trai mình hay chỉ cần người
con trai đó thích là họ cùng đi kéo, nhà trai sẽ đi mời bạn bè hay họ hàng đến
bàn bạc, rồi đi tầm khoảng 5,7 người (đi kéo lúc nào cũng phải là số lẻ), người ta
thường kéo vợ vào dịp tết, chợ phiên, đặc biệt là tết người Mông còn có một lễ
hội gọi là Lễ Hội Gầu Tào (grauv taox) nghĩa là “địa điểm chơi” tổ chức từ ngày
mùng 3 đến mùng 6 ngoài ra còn tùy điều kiện thời tiết có thể đến mùng 9 tháng
giêng (âm lịch). Đây là lễ hội được tổ chức với mục đích cầu nguyện, cầu phúc
gắn liền với hoạt động tâm linh của người Mông, nhưng cũng là dịp để các
đôi trai gái gặp nhau, tìm hiểu, hẹn hò với nhau, nhiều đôi vợ chồng cũng là
do từ Lễ Hội này nên duyên vợ chồng. Khi đi hội những người con gái
thường mặc những bộ trang phục truyền thống do chính tay người cô gái thêu
nên rất đẹp, những chàng trai sẽ chọn cho mình một cô hát cùng nếu thấy hợp
nhau thì sẽ về nói với bố mẹ và rủ người đi kéo về nếu đồng ý sẽ tổ chức ăn
hỏi và tiến tới hôn nhân.
Gia đình còn ảnh hưởng tới hôn nhân của đôi lứa bằng một phong tục là
vào nhà hỏi trực tiếp theo tiếng Mông là “gre txev hai”, tục “dạm hỏi” nói tiếng
Mông là “ua tshoob muab”. Nếu chàng trai đó không có hôn nhân hẹn trước hay
kéo vợ mà không được thì gia đình lại chọn cách vào nhà hỏi, gia đình nhà trai
19
sẽ mời một người trong dòng họ với một người khách khác dòng họ nhà trai là
hai ông mối. Để đại diện bên nhà trai cùng với chàng trai sang nhà gái để hỏi,
hai người này phải là những người có kinh nghiệm biết cách ăn nói, không bị dị
tập, không bị mất vợ hoặc chồng, phải có con cái đầy đủ, khi đi sẽ phải chuẩn bị
một đôi gà (một trống một mái), một chai rượu, một túi vải, một cái ô, thuốc
lá…, vào nhà hỏi nếu đồng ý thì sẽ ăn hỏi và tiếng tới hôn nhân.
Như vậy, theo tục lệ của người Mông ở huyện Si Ma Cai, thì gia đình có
tầng quan trọng rất lớn đối vối tình yêu hôn nhân của đôi lứa trai gái. Thể hiện tầng
quan trọng của gia đình bởi có nhiều người không cha không mẹ thì không lấy
được vợ, nhưng cũng nhiều đôi lứa cũng vì gia đình mà phải xa nhau. Vì vậy gia
đình có sự ảnh hưởng rất lớn đối với hôn nhân và gia đình của tình yêu đôi lứa.
2.2.2. Tác động từ kinh tế - xã hội
Hôn nhân là một hiện tượng văn hóa. Nó được quy định bởi hình thái kinh
tế - xã hội. Người Mông coi việc dựng vợ gả chồng cho con cái là việc hệ trọng
nên nhiều khi bố mẹ họ hàng phải định đoạt cho các con, nhất là các con còn trẻ,
chưa đủ hiểu biết cần thiết trong việc kén chồng, chọn vợ…. Người Mông rất
coi trọng kinh tế gia đình: vì vậy, biết bao nhiêu cô gái phải chịu những cảnh ép
duyên trái đời chỉ vì nhà mình nghèo phụ thuộc vào gia đình khá giả, người
Mông chủ yếu sinh sống bằng nông nghiệp nên cần nhiều người lao động, cuộc
sống rất nhiều khó khăn và khổ cực. Từ đó ảnh hưởng đến việc chọn vợ chồng,
ngày xưa người Mông thường chọn những người vợ lớn tuổi hơn con trai mình
để về làm được nương rẫy. Với cảnh cuộc sống thiếu thốn, có nhà không đủ ăn
phải chịu cảnh đói khổ nên bố mẹ cũng chỉ muốn con mình đỡ nghèo khổ nên
khi có nhà khá giả đến hỏi dù con mình không đồng ý thì bố mẹ cũng ép lấy.
Người Mông còn quan niệm, tập quán sinh con nhiều, vì sinh đẻ con cái là
điều mong ước chính đáng của những người đã thành vợ thành chồng. Trong
hoàn cảnh khó khăn, nhiều thiếu thốn khó khăn, điều mong ước con đàn cháu
đống dễ gì mà đạt được, nên người Mông rất quan tâm đến vấn đề sinh đẻ. Đặc
biệt ảnh hưởng bởi chế độ phong kiến trọng nam khinh nữ, sinh con trai để nối
dòng dõi tổ tiên, nên có gia đình không sinh được con trai thì cứ sinh lúc nào
20