Kiến thức cơ bản
A.Chức năng của tình thái từ
Nếu bỏ các từ in đậm trong các ví dụ thì ý nghĩa của câu có sự thay đổi:
a. Nếu lược bỏ từ “à” thì câu này không còn là câu nghi vấn nữa.
b. Nếu lược bỏ từ “đi” thì câu này không còn là câu cầu khiến nữa.
c. Nếu không có từ “thay” thì không thể cấu tạo được câu cảm thán.
d. Từ “ạ” giúp cho câu chào thể hiện tính lễ phép cao hơn.
B. Sử dụng tình thái từ.
Các từ tình thái in đậm (trong SGK) có ý nghĩa khác nhau.
- Bạn chưa về ạ? (hỏi, thân mật) - Thầy mệt ạ? (hỏi, kính trọng)
- Bạn giúp tôi một tay nhé! (cầu khiến, thân mật)
- Bác giúp cháu một tay ạ! (cầu khiến, kính trọng)
II. Luyện tập
1. Tìm từ tính thái từ ở các câu trong SGK (in đậm)
a. Nào không phải là tình thái từ.
b. Nào là tình thái từ.
c. Chứ là tình thái từ.
d. Chứ không phải là tình thái từ
e. Với là tình thái từ
f. Với không phải là tình thái từ
g. Kia không phải là tình thái từ
h. Kia là tình thái từ. 2. Giải thích ý nghĩa của các tình thái từ in đậm trong những câu. a. Chứ
nghi vấn, dùng trong trường hợp có điều muốn hỏi, nhưng đã có khẳng định ít nhiều. b. Chứ
nhấn mạnh điều vừa khẳng định, ý muốn nói là không thể khắc phục. c. U hỏi với thái độ phân
vân. d. Nhỉ thái độ thân mật. e. Nhé dặn dò, thái độ thân mật. f. Vậy thái độ miễn cưỡng, không
muốn như vậy. g. Cơ mà thái độ thuyết phục. 3. Đặt câu với các tình thái từ : mà, đấy, chứ lị,
thôi, cơ, vậy. - Vết thương của mẹ còn đau, cẩn thận kẻo lại bị nhiễm trùng. - Mẹ rất chú ý kiêng
cự mà ! - Đấy, anh lại đi chơi. - Liệu có chắc là bạn ấy làm được bài không ? - Chắc làm được
chứ lị ! Các em đặt câu với các từ tình thái từ còn lại. 4. Đặt câu hỏi có dùng các tình thái từ nghi
vấn phù hợp với những quan niệm xã hội. - Thưa cô, bao giờ lớp ta đi thăm quan ạ ? (Học sinh
và cô giáo) - Các cậu nên phân chia một bên nam một bên nữ đấu bóng chuyền xem sao ? (các
bạn nam nữ) - Vậy ngày mai chúng ta thực hiện nhé ! - Bố ơi, mấy giờ bố con mìn đi thăm ông
bà nội ? - Con đã chuẩn bị lên đường rồi chứ ! (bố nói với con) 5. Một số từ tình thái tiếng địa
phương. - Ngày mai anh đến nhé ! (Hà Tây) - Anh nói thế dư mà em lại nghĩ khác ! (Nam Định)
Các
em
tìm
tiếp
các
từ
tình
thái
ở
địa
phương
khác
ĐÁNH NHAU VỚI CỐI XAY GIÓ
I.
Đọc – hiểu văn bản
Câu 1. Xác định ba phần của đoạn trích theo trật tự diễn biến trước, trong và
sau khi Đôn-ki-hô-tê đánh nhau với cối xay gió. Liệt kê 5 sự việc chủ yếu, qua
đó tính cách của lão hiệp sĩ và bác giám mã được bộc lộ.
- Căn cứ vào sự kiện chính là Đôn-ki-hô-tê đánh nhau với cối xay gió, bài này
có thể chia làm ba phần :
+ Từ đầu đến… « bọn khổng lồ » : Đôn-ki-hô-tê trước khi đánh nhau với cối
xay gió.
+ « Vừa bàn tán » đến hết : Đôn-ki-hô-tê sau khi đánh nhau với cối xay gió.
- Liệt kê năm sự việc chủ yếu, qua đó tính cách của lão hiệp sĩ và bác giám mã
được bộc lộ :
+ Đôn-ki-hô-tê phát hiện thấy ba, bốn chục chiếc cối xay gió giữa đồng. Đônki-hô-tê cho rằng đó là những tên khổng lồ ghê gớm, cần giết hết bọn chúng.
+ Đôn-ki-hô- tê cầu mong nàng Đuyn-xi-nê-a cứu giúp rồi xông vào đánh cối
xay gió. + Đôn-ki-hô- tê bị thương nặng vì bị cối xay gió đạp cánh quạt vào
người và ngựa. Xan-chô đến cứu giúp, và hai thầy trò tranh luận nhau về « cối
xay gió ».
+ Vừa bàn tán chuyện xả ra, hai thầy trò đi về phía cảng La-pu-xê vì theo Đônki-hô- tê con đường này có nhiều chuyện phiêu lưu khác nhau.
+ Đêm hôm ấy, hai người ngủ dưới vòm cây. Đôn-ki-hô- tê không ngủ để nghĩ
với nàng Đuyn-xi-nê-a. Câu 2. Phân tích những nét hay, dở trong tích cách của
Đôn-ki-hô- tê. - Có hoài bão, ước mơ tốt : diệt ác, cứu nguy.
- Gan dạ, dũng cảm.
- Nghiêm nghị, khắc khổ, cứng nhắc.
- Điên rồ, hoang tưởng.
Câu 3. Chứng minh nhân vật Xan-chô Pan-xa cũng bộc lộ cả những mặt tốt lẫn
mặt xấu.
- Sống vui vẻ, tự nhiên, thoải mái.
- Đầu óc sáng, thiết thực.
- Nhát gan, hay sợ.
- Thiện cận, vụ lợi.
Câu 4. Đối chiếu Đôn-ki-hô- tê và Xan-chô Pan-xa về các mặt để thấy rõ nhà
văn đã xây dựng một cặp nhân vật tương phản. Sự tương phản bộc lộ ở nhiều
mặt :
- Đôn-ki-hô- tê :
+ Suy nghĩ trước cối xay gió :
++ Tưởng gặp lũ khổng lồ hung tợn có cánh tay rất dài.
++ Đánh chúng là việc hay, tốt, nên làm.
+ Quan niệm sống và hành động.
++ Có lí tưởng, hoài bão : cứu người lương thiện, trừ ác.
++ Hành động theo quy ước, đúng bài bản của giới hiệp sĩ.
+++ Coi thường nhu cầu tự nhiên (đến bữa không ăn).
+ Cách nói năng :
++ Câu nệ phép tắc (nhớ tới tình nương : không ngủ).
++ Gan gạ, chấp nhận gian nguy (không trốn tránh, không kêu ca).
++ Hiên ngang, trịnh trọng.
++ Đúng như sách vở, phép tắc phải có.
+ Ưu điểm :
++ Có hoài bão, ước mơ đẹp : diệt ác, cứu nguy.
++ Gan dạ, dũng cảm.
+ Nhược điểm.
++ Nghiêm nghị, khắc khổ, cứng nhắc.
++ Điên rồ, hoang tưởng.
- Xan- chô Pan-xa :
+ Suy nghĩ trước cối xay gió.
++ Rõ ràng là vật quen, dễ nhận biết, dễ lí giải.
++ Không nên đụng vào chúng
. + Quan niệm sống và hành động.
++ Tỉnh táo, cân nhắc kỹ trước khi hành động.
++ Tự nhiên, chân thật, không giấu giếm.
++ Thích được ăn, được uống thoải mái, no say.
++ Ngủ ngon lành, đầy giấc.
++ Lảng tránh nguy hiểm, đau đớn.
+ Cách nói năng
. ++ Tự nhiên.
++ Thực sự đời sống vốn có.
+ Ưu điểm: ++ Sống vui vẻ, tự nhiên, thoải mái.
++ Đầu óc sáng, thiết thực.
+ Nhược điểm. ++ Nhát sợ. ++ Thiện cận, vụ lợi.
Hai tính cách trên tương phản nhau nhưng lại không mâu thuẫn; trái lãi, bổ sung
cho nhau. Thực tế tác phẩm cho thấy trong các cuộc phiêu lưu mạo hiểm hiệp sĩ
Đôn-ki-hô- tê luôn luôn có giám mã Xan-chô Pan-xa đo theo phục vụ. Và hai
người sống với nhau rất hòa thuận, gắn bó. Tách riêng ra, mỗi tính cách đều
phiếm diện (lệch lạc), cực đoạn (thái quá) không thể tồn tại mà không gặp khó
khăn và thất bại – nhất là những lúc đứng trước thử thách lớn. Đi đôi với nhau,
nương tựa vào nhau, chúng hạn chế được những mặt yếu, phát huy được những
mặt mạnh, trở thành một khối thống nhất vững chắc trong mọi suy nghĩ, sinh
hoạt và hành động.
Câu 5. Nghệ thuật. Xéc-van-tét đã sử dụng biện pháp trào lộng, phóng đại và
tương phản đối lập trong kể chuyện để dựng lên hình ảnh của trang hiệp sĩ Tây
Ban Nha thời Trung cổ đã lỗi thời. Hình tượng nhân vật thầy trò Đôn-ki-hô- tê
và Xan-chô Pan-xa là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc của Xéc-van-tét. Câu
6. Ý nghĩa. Đằng sau những câu văn, dòng chữ, ta luôn bắt gặp nụ cười hóm
hỉnh của tác giả. Nhưng đằng sau nụ cười chế giễu là sự đề cao của nhà văn đối
với nhân vật Đôn-ki-hô- tê về một tình yêu tự do, bình đẳng, sống thiết thực và
yêu
đời.
Từ ngữ địa phương.
Các từ ngữ in đậm trong các ví dụ trong SGK.
- Từ “ngô” là từ sử dụng phổ biến trong toàn dân.
- Các từ “bắp, bẹ” là từ địa phương.
II. Biệt ngữ xã hội.
a. Đoạn văn trích trong tác phẩm Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng có hai từ:
“mẹ, mợ” là tiếng gọi “mẹ” trước Cách mạng tháng Tám ở tầng lớp thượng lưu
trong thành phố Hà Nội, Nam Định (kể cả tiếng gọi cha bằng “cậu”).
b. “Ngỗng” là bài tập làm văn chỉ đạt điểm 2 (thai hình dáng con ngỗng), còn
“trúng tủ” là bài tập làm văn hay bài tập nào đó (đề văn, câu hỏi) rơi vào đúng
phần ôn tập, đã học kĩ, thuộc bài. Các từ này thường được giới học sinh dùng.
III. Sử dụng từ địa phương, biệt ngữ xã hội.
1. Từ địa phương này gây khó hiểu cho những người ở địa phương khác, cho nên,
khi giao tiếp với người địa phương khác nên tránh dùng từ địa phương và thay
bằng từ toàn dân. Nhưng trong văn thơ, dùng từ địa phương đúng chỗ và đúng mức
có thể tạo cho tác phẩm có những màu sắc riêng thú vị.
2. Trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ, do ảnh hưởng của ngôn ngữ văn học, một số
từ địa phương bị hạn chế phạm vi sử dụng. Ngược lại, một số từ địa phương dần
dần trở thành từ toàn dân. Các từ trong đoạn thơ của Hồng Nguyên và Nguyên
Hồng thật ra cũng đã dể hiểu như: tui (tôi), ví (với), hiện chừ (bây giờ), ra ri (như
thế này). Các từ “dằm thượng” (túi áo trên), mõi (lấy trộm) là tiếng lóng riêng của
một lớp người nào đó. Đó là biệt ngữ xã hội.
IV. Luyện tập
1. Tìm một số từ ngữ địa phương và nêu từ ngữ toàn dân tương ứng. Từ ngữ địa
phương Từ ngữ toàn dân Giời Răng, rứa Đọi Thơm Hĩm Trời Thế nào, thế Bát Dứa
Con gái 2. Một số từ ngữ của tầng lớp học sinh hoặc của tầng lớp xã hội khác. Của học sinh: ngỗng (điểm hai), quay (nhìn, sao chép bài làm của người khác hoặc
tài liệu lén lúc mang theo khi kiểm tra), học gạo (cắm đầu học không còn chú ý đến
việc khác, chỉ nhằm học thuộc được nhiều).. - Của giới chọi gà: chầu (hiệp), chêm
(đâm cựa), chiến (đá khỏe), chính (cựa), dốt (nhát), nạp (xáp đá)… 3. Trong giao
tiếp, chỉ dùng tiếng địa phương trong trường hợp người nói chuyện với mình cùng
địa phương, còn trong các trường hợp khác (b, c, d, đ, e, g trong SGK) đều không
nên dùng từ ngữ địa phương. 4. Tìm hiểu một số từ ngữ địa phương: - “Bố đi đâu
hĩm, mẹ đâu rồi?” (Mẹ Tơm – Tố Hữu) - “Độc lập nhớ viền chơi ví chắc” (Nhớ Hồng Nguyên) Viền là về. Ví chắc là với nhau. - « Nỗi niềm chi rứa Huế ơi ? » (Tố
Hữu)
Chi
rứa
là
gì
thế.
LÃO HẠC
1. Phân tích diễn biến tâm trạng của lão Hạc xung quanh việc bán chó. Qua
đó, em thấy lão Hạc là người như thế nào?
- Tình cảm của lão Hạc đối với “cậu Vàng” của lão được tác giả thể hiện thật cảm
động:
+ “Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự”.
+ “Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao
tắm”.
+ “Cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu (…)”
. + “Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn
cho con trẻ”.
+ “Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với đứa cháu bé về bố nó”.
- Tình thế cùng đường khiến lão phải tính đến việc bán “cậu Vàng” thì trong lão
diễn ra một sự dằn vặt đau khổ.
+ Lão kể lại cho ông giáo việc bán “cậu Vàng” với tâm trạng vô cùng đau đớn:
“Lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước”. Đến nỗi ông giáo thương lão quá
“muốn ôm chầm lấy lão mà òa lên khóc”.
+ Khi nhắc đến việc cậu Vàng bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không còn nén nỗi đau đớn
cứ dội lên: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho
nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão
mếu như con nít. Lão hu hu khóc”.
Lão Hạc đau đớn đến không phải chỉ vì quá thương con chó, mà còn vì lão không
thể tha thứ cho mình vì đã nỡ lừa con chó trung thành của lão. Ông lão “quá lương
thiện ấy cảm thấy lương tâm đau nhói khi thấy trong đôi mắt con chó bất ngờ bị
trói có cái nhìn trách móc…”. “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa
một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó”. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu
và trong sạch thì mới bị dày vò lương tâm đau đớn đến thế, mới cảm thấy có lỗi
với một con cho như vậy.
Câu 2. Em hiểu như thế nào về nguyên nhân cái chết của lão Hạc? Qua những điều
lão Hạc thu xếp nhờ cậy ông giáo rồi sau đó tìm đến cái chết, em suy nghĩ gì về
tình cảnh và tính cách của lão Hạc?
- Lão Hạc không muốn hàng xóm nghèo phải phiền lụy về cái xác già của mình, đã
gửi lại ông giáo toàn bộ số tiền dành nhìn ăn nhịn tiêu của lão để nhờ ông giáo đem
ra, nói với hàng xóm lo giúp cho lão khi lão chết. Con người hết sức hiền hậu ấy
cũng là con người hết sức tự trọng, quyết không nhận của bố thí, chỉ biết sống bằng
bàn tay lao động của mình.
- Lão Hạc đã tìm đến cái chết trong khi vẫn còn trong tay mấy chục bạc (không kể
vẫn còn mảnh vườn đáng giá mà không ít kẻ nhòm ngó). Lão thà nhịn đói chứ
không tiêu xu nào vào món tiền của lão cậy ông giáo cầm giúp đó. Với lòng tự
trọng cao độ và nhân cách hết sức trong sạch, khi đã đem gửi hết đồng tiền cuối
cùng, lão chỉ còn ăn uống đói khát qua bữa, bằng khoai ráy, củ chuối, rau má…
Nhưng lão lại kiên quyết từ chối mọi sự giúp đỡ của người khác, kể cả sự giúp đỡ
của ông giáo mà chắc lão hiểu rõ là chân tình, “lão từ chối một cách gần như là
hách dịch”. Với cái chết đau đớn dữ dội mà lão Hạc tự chọn, lão Hạc đã thể hiện
một khí tiết cao quý, có ý thức nhân phẩm rất cao. Lão Hạc là con người “đói cho
sạch, rách cho thơm”, “chết vinh hơn sống nhục”, là con người coi trọng nhân
phẩm hơn cả cuộc sống.
Câu 3. Em thấy thái độ, tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc như thế nào? Người kể chuyện (cũng chính là tác giả tuy không nên đồng nhất hoàn toàn nhân
vật với nguyên mẫu) đã phát biểu suy nghĩ về cách nhìn người: “Chao ôi! Đối với
những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm và hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở,
ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi, toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ
ta thương”.
- Trong Lão Hạc, nhà văn cho rằng, đối với người nông dân lao động, phải “cố tìm
mà hiểu họ” thì mới thấy rằng chính những con người bề ngoài lắm khi “gàn dở,
ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi” ấy chính là “những người đáng thương” và có
“bản tỉnh tốt”, có điều “cái bản tính tốt” ấy của họ thường bị những nỗi khổ cực,
những lo lắng trong cuộc sống “che lấp mất”. Tức là, nhà văn đặt ra vấn đề phải có
tình thương, có sự cảm thông và phải có cách nhìn có chiều sâu, không hời hợt,
phiến diện chỉ thấy cái bề ngoài, nhất là không thành kiến, tàn nhẫn. - Suy nghĩ của
nhân vật “tôi” trên đây chính là một quan điểm quan trọng trong “đôi mắt”, ý thức
sáng tạo của nhà văn Nam Cao.
Câu 4. Ý nghĩa của nhân vật “tôi” như thế nào?
- Phải chăng ông giáo – nhân vật “tôi” thấy cái đáng buồn là người ta không thể
hiểu nỗi khổ của nhau và ngờ vực lẫn nhau.
+ Lão Hạc sống lủi thủi, thầm lặng, bề ngoài lão có vẻ như lẩm cẩm, gàn dở.
+ Vợ ông giáo cũng chẳng ưa gì lão: “Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu
khổ! Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!”.
+ Chính ôn giáo cũng có lúc nghĩ là lão “quá nhiều tự ái”.
+ Còn Binh Tư thì “bĩu môi” nhận xét: “Lão làm bộ đấy! Thật ra lão chỉ tâm ngẩm
thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu”. Binh Tư còn cho biết lão Hạc xin hắn bả
chó để bắt chó nhà hàng xóm.
+ Ông giáo đã ngờ vực lão Hạc. Nhưng khi lão Hạc chết thì ông giáo lại cảm thấy
“cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn hay vẫn đáng buồn theo một nghĩa khác”. Lão
Hạc không chỉ là câu chuyện bi thảm về số phận con người mà còn là câu chuyện
đầy xúc động về một nhân cách cao quý.
Câu 5. Việc truyện được kể bằng lời của nhân vật “tôi” có hiệu quả nghệ thuật gì?
- Việc kể chuyện bằng lời kể của nhân vật “tôi” có hiệu quả nghệ thuật rất cao vì
nó gây xúc động cho người đọc.
- Cái hay của truyện thể hiện rõ nhất ở chỗ:
+ Rất mực chân thực. + Thấm đượm cảm xúc trữ tình.
- Qua nhân vật “tôi”, người kể chuyện – tác giả đã biểu lộ tự nhiên những cảm
xúc, suy nghĩ của mình. - Chất trữ tình thể hiện ở giọng kể, ở những câu cảm thán.
Nhiều khi không nén được cảm xúc, tác giả đã gọi tên nhân vật lên để trò chuyện,
than thở: “Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão không muốn bán con chó
Vàng của lão?” “Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão có thể làm liều hơn ai
hết…”, “Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng nhắm mắt…”. Câu 6. Em hiểu thế nào về
nhân vật “tôi” qua đoạn trích: “Chao ôi! … che lấp mất”. - Em hiểu ý nghĩa của
nhân vật “tôi là ở chất trữ tình, thể hiện ở những lời mang giọng tâm sự riêng của
“tôi” như: + Chung quanh việc “tôi” phải bán mấy quyển sách – “ôi những quyển
sách rất nâng niu (…) kỉ niệm một thời hăng hái và tin tưởng đầy những say mê
đẹp và cao vọng”. + Và thể hiện rõ nhất là những đoạn văn trữ tình đậm màu sắc
triết lí: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta…” Những câu văn triết lí đó là
những suy nghĩ gan ruột nên có sức thuyết phục đặc biệt. Câu 7. Qua đoạn trích
Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc, em hiểu thế nào về cuộc đời và tính cách
của người nông dân trong xã hội cũ? - Nói về cuộc đời. Đây là những số phận thật
nghiệt ngã, thương tâm, nghèo khổ, bần cùng trong xã hội thực dân nửa phong kiến
cái nghèo khổ cùng cực trước cảnh sưu thuế tàn nhẫn, như gia đình chị Dậu phải
bán chó, bán con và đẩy người ta vào cảnh khốn quẩn như lão Hạc. - Nói về tính
cách: Cũng từ các tác phẩm này ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn cao quý, lòng nhân
hậu, sự hi sinh với người thân như thế nào? + Ở Tức nước vỡ bờ là sức mạnh phản
kháng của con người khi bị đẩy đến bước đườn cùng. + Còn ở truyện Lão Hạc là ý
thức về nhân cách, về lòng tự trọng trong nghèo nàn, khổ cực. Câu 8. Nghệ thuật.
Nhân vật Lão Hạc được xây dựng bằng phương pháp đối lập. Lão Hạc bề ngoài có
vẻ lẩm cẩm, gàn dở, thậm chí còn bị nghi là đánh bả chó nữa, nhưng bên trong là
con người lương thiện, giàu lòng tự trọng và cũng giàu lòng vị tha. Nhân vật lão
Hạc được miêu tả qua những chi tiết về ngoại hình, qua bộ dạng, hành vi, ngôn ngữ
đối thoại nội tâm. Câu 9. Ý nghĩa. Truyện vừa nêu bật một hình ảnh đáng thương,
đáng kính của một con người với cái chết đau đớn, vừa thể hiện một cách chân
thực, cảm động số phận đau thương của người nông dân trong cái xã hội tàn nhẫn,
mục nát và phẩm chất cao quý tiềm tàng của họ.
Soạn bài từ tượng hình – từ tượng thanh
I. Đặc điểm – công dụng a. Đoạn trích Lão Hạc của Nam Cao có những từ gợi tả
hình ảnh, dáng vẻ, hoạt động trảng thái của sự vật, những từ mô phỏng âm thanh
của tự nhiên, con người: - Móm mém, xồng xộc, vật vã, rũ rượi, xộc xệch, long
sòng sọc – đó là những từ tượng hình. - Hu hu, ử ử, a! – đó là những từ tượng
thanh.
b. Những từ ngữ gợi tả hình ảnh, dáng vẻ, hoạt động hoặc mô phỏng âm thanh rất
có tác dụng trong văn miêu tả, tự sự. Các từ này gợi ra những cảm xúc, suy nghĩ
hoặ tưởng tượng, hình dung ra sự vật mà nhà văn và tác phẩm muốn diễn tả. II.
Luyện tập 1.
Từ tượng hình và tượng thanh trong những câu trích trong tác phẩm Tắt đèn của
Ngô Tất Tố. a. Từ tượng thanh. - Soàn soạt, bịch, đánh bốp. - Nham nhảm.
b. Từ tượng hình. - Rón rén, lực điền, chỏng queo.
2. Năm từ tượng hình gợi tả dáng đi. - Tất bật, hùng hục, thoăn thoắt, lom khom,
rón rén.
3. Phân biệt ý nghĩa tượng thanh tả tiếng cười: - Ha hả: cười thành tiếng rất to, rất
sảng khoái. - Hì hì: cười tiếng nhỏ có ý giữ thái độ. - Hô hố: cười to, có vẻ thô lỗ. Hơ hớ: cười thoải mái vui vẻ, không che đậy, giữ gìn.
4. Đặt câu với các từ tượng hình: - Lắc rắc: trời hôm nay mưa lắc rắc suốt ngày. Lã chã: Lão Hạc thương con Vàng khóc hu hu, nước mắt lã chã rơi. - Lấm tấm: cô
giáo mặc áo dài lấm tấm hoa. - Khúc khuỷu: Đoạn đường vào nhà bạn tôi quanh
co, khúc khuỷu. - Lập lòe: “Ngõ tối đêm khuya đóm lập lòe” (Nguyễn Khuyến)
Các em viết tiếp các câu có những từ còn lại.
5. Bài thơ có cách dùng từ tượng hình, tượng thanh: “Ao thu lạnh lẽo nước trong
veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo tao Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước
ngõ khẽ đưa vèo \
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo Tựa gối ôm
cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. (Thu điếu – Nguyễn
Khuyến) Bài thơ trên có những từ tượng hình, tượng thanh làm cho bài thơ rất giàu
hình ảnh và gây ấn tượng. a. Về từ tượng hình: trong veo, sóng biếc, tẻo teo, gợn tí,
vắng teo, xanh ngắt. b. Về từ tượng thanh: đưa vèo, đớp động.
Soạn bài bố cục của văn bản
I. Hướng dẫn tìm hiểu câu hỏi phần bài học
1.Bố cục văn bản
a.Văn bản trên gồm có 3 phần:
-Phần một (từ đầu đến … danh lợi) – Mở bài: Giới thiệu về thầy giáo Chu Văn An.
-Phần hai (từ học trò … vào thăm) – Thân bài: Chứng minh thầy giáo Chu Văn An là thầy giáo giỏi, tính
tình cứng cỏi.
-Phần ba (còn lại) – Kết bài: Niềm tiếc thương và sự tôn kính thầy giáo Chu Văn An.
b.Mối quan hệ giữa các phần
-Phần mở bài (phần một) nêu ý khái quát làm luận để cho toàn văn bản: Chu Văn An là thầy giáo giỏi,
tính tình cứng cỏi không màng danh lợi.
-Phần thân bài (phần hai) triển khai luận đề, có hai luận điểm chính.
+ Luận điểm một: Nổi tiếng là thầy giáo giỏi.
+ Luận điểm hai: Nổi tiếng cứng cỏi.
-Phần kết bài (phần ba) kết thúc luận đề – ý kết luận dựa trên cơ sở các luận điểm đã trình bày ở phần
thân bài: “vì giỏi, tính tình cứng cỏi mà mọi người tiếc thương khi ông mất”.
2.Cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài của văn bản
a.Phần Thân bài của văn bản Tôi đi học:
-Gồm có các sự việc sau: Trời cuối thu, lá rụng, các em nhỏ đến trường, hồi ức về tâm trạng của nhân
vật tôi: trên đường đi, khi đến sân trường, khi nghe thầy giáo đọc tên, khi vào lớp học.
-Các sự kiện được sắp xếp theo trình tự thời gian (hiện tại – > quá khứ) và không gian từ trên con đường
làng – > vào lớp học.
b.Phần Thân bài của văn bản Trong lòng mẹ:
-Gồm có hai sự kiện: sự kiện người cô gọi đến nói chuyện và sự kiện người mẹ trở về.
-Hai sự kiện này sắp xếp theo trình tự thời gian trước và sau ngày giỗ đầu người cha của cậu bé Hồng.
-Diễn biến tâm trạng của cậu bé từ đau đớn uất ức mong nhớ khi nói chuyện với người cô) chuyển sang
sung sướng, hạnh phúc rạo rực say mê (khi được gặp lại mẹ)
c.Khi tả người, vật, phong cảnh… ta sẻ lần lượt miêu tả theo thứ tự: từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ
cao xuống thấp, từ ngoại hình đến nội tâm…
Ví dụ: Cảnh Động Phong Nha được miêu tả theo thứ tự từ xa tới gần, từ ngoài vào trong. Cảnh Sông
nước Cà Mau miêu tả theo thứ tự từ hẹp đến rộng từ dưới sống lên hai bờ sông.
d.Phần Thân bài của văn bản Người thầy đạo cao đức trọng:
-Gồm có hai đoạn, mỗi đoạn thể hiện một khía cạnh của vấn đề.
-Đoạn thứ nhất người thầy đạo cao (thầy giáo giỏi). Đoạn thứ hai người thầy đức trọng (cứng cỏi không
màng danh lợi).
I. Bố cục của văn bản Đọc văn bản Người thầy cao đức trọng.
1. Văn bản trên chia làm 3 phần và ranh giới các phần :
- Phần 1 : câu mở bài
- Phần 2 : từ « học trò theo ông » đến « cho vào thăm ».
- Phần 3 : câu kết bài.
2. Nhiệm vụ của từng phần trong văn bản.
- Phần mở bài : giới thiệu nội dung, thu hút sự chú ý của người đọc.
- Phần thân bài : phát triển và giải quyết một cách cụ thể vấn đề đã nêu ở phần mở
bài, duy trì sự chú ý của người đọc.
- Phần kết bài : tóm tắt kết luận và đáp ứng sự chờ đợi của người đọc.
3. Phân tích mối quan hệ giữa các phần trong văn bản : Quan hệ giữa các phần
trong văn bản theo kiểu bố cục này có thể phân tích như sau :
- Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Nó là thể thống
nhất có tính trọn vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức. Vì vậy mối quan hệ
giữa các phần trong văn bản phải chặt chẽ, thống nhất.
4. Từ việc phân tích bố cục của văn bản trên, ta thấy văn bản Người thầy đạo cao
đức trọng có 3 phần.
Phần 1 : phần mở bài, chỉ có 1 câu « Ông Chu Văn An đời Trần nổi tiếng là một
thầy giáo giỏi, tính tình cứng cỏi, không màng danh lợi ». Giới thiệu nhân vật và
nội dung câu chuyện sẽ kể.
Phần 2 : phần thân bài kể diễn biến câu chuyện về ông Chu Văn An dạy học. Thái
độ của ông đối với vua Dụ Tông, can ngăn không được, ông trả mũ áo từ quan.
Học trò của ông từ người làm quan to đến thường đều nể sợ ông.
Phần 3 : phần kết bài nêu hai câu nhận định, đánh giá về ông khi ông mất. « Khi
ông mất mọi người đều thương tiếc. Ông được thờ tại Văn Miếu ở kinh đô Thăng
Long ». Các phần của văn bản đã phát triển và thống nhất để thể hiện chủ đề văn
bản.
II. Cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài của văn bản
1. Phần thân bài văn bản Tôi đi học của Thanh Tịnh kể về những sự kiện nào ? Các
sự kiện ấy được sắp xếp theo thứ tự nào ? Phần thân bài của văn bản Tôi đi học của
Thanh Tịnh được sắp xếp dựa trên cơ sở là hồi kí : nhớ lại các sự việc, tình tiết
diễn ra vào buổi đầu đi học.
2. Văn bản Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng chủ yếu trình bày diễn biến tâm trạng
của cậu bé Hồng. - Đó là cậu bé rất thương mẹ, dù bà cô có dùng lời xúc xiểm nói
xấu mẹ. - Điểm diễn tả đặc sắc, đầy ấn tượng của nhà văn là kể lại qua trí nhớ khi
chú bé gặp lại mẹ. (Niềm sung sướng cực độ khi được nằm trong lòng mẹ, được
mẹ vuốt ve, âu yếm…)
3. Khi tả người, vật, con vật, phong cảnh em sẽ lần lượt miêu tả diễn biến trước,
sau qua thời gian, không gian và thứ tự các tình tiết thể hiện chủ đề bài văn.
4. Phần thân bài trong bài văn Người thầy đạo cao đức trọng trình bày các ý làm
sáng tỏ luận đề trên, các ý này được sắp xếp theo trình tự nhất định. Phân tích trình
bày làm sáng tỏ luận đề « Chu Văn An là người thầy đạo cao đức trọng ». Ta thấy
phần thân bài lần lượt trình bày bề con người của ông : - Học trò theo học rất đông
- Nhiều người đỗ cao. - Vì thế ông được nhà vua « vời ông ra dạy thái tử học ». Nhưng đến đời Dụng Tông « vua thích vui chơi, không coi sóc việc triều đình, lại
tinh dùng bọn nịnh thần ». Nhiều lần ông can ngăn, nhà vua không nghe nên ông
trả mũ áo từ quan về làng… Việc trình bày phần này đã nêu ra những luận cứ «
người thầy giỏi, người tôi trung thành, có đạo đức » để làm sáng tỏ và chứng minh
cho luận điểm « Chu Văn An là người thầy đạo cao đức trọng ». Hai câu văn cuối
phần này có thể coi là luận cứ mang tính minh họa rất cụ thể về « đạo cao đức
trọng » của ông. 5. Đây là phần chủ yếu của văn bản, phần này nhằm triển khai vấn
đề nhiều mặt, nhiều khía cạnh rồi lần lượt giải quyết, tiến tới giải quyết toàn bộ vấn
đề đặt ra. a. Yêu cầu của phần thân bài. Triển khai cụ thể chi tiết và toàn diện vấn
đề đã được đặt ra ở phần mở đầu. b. Nội dung cơ bản của phần thân bài. - Lần lượt
trình bày các bộ phận, các phần của vấn đề đặt ra trong văn bản. Thông thường các
bộ phận, các phần trên tương ứng một luận điểm. Từng luận điểm lại được triển
khai thành các luận cứ để làm sáng tỏ hoặc chứng minh theo luận điểm. - Các luận
điểm cấn được sắp xếp theo một trật tự nhất định, phản ánh mối quan hệ logic nội
tại của chúng. III. Luyện tập Câu 1. Phân tích cách trình bày các đoạn văn sau. a.
Trình bày theo thứ tự không gian : Xa … gần … tận nơi … xa dần. - Xa xa từ vệt
rừng đen… - Càng đến gần những đàn chim bay… - Đứng dưới gốc cây có thể thò
tay… - Xa xa thấp thoáng… b. Trình bày ý theo thứ tự không gian: - Ba Vì – xung
quanh Ba Vì. - Riêng về Ba Vì lại trình bày theo thứ tự thời gian. c. Hai luận cứ
được sắp xếp theo tầm quan trọng của chúng đối với luận điểm cần chứng minh: “Lịch sử thường sẵn những trang đau thương… Ta thử lấy truyện Hai Bà Trưng mà
xét…” - “NGhe Truyện Phù Đổng Thiên Vương, tôi thường tưởng tượng đến một
trang nam nhi…” (Nhảy xuống Hồ Tây tắm, xong mới ôm vết thương lên ngựa…)
Câu 2. Nếu phải trình bày về lòng thương mẹ của chú bé Hồng ở văn bản Trong
lòng mẹ, em sẽ trình bày và sắp xếp chúng như sau: - Nêu bật tình cảm, thái độ
của chú bé Hồng khi nói chuyện (đối thoại) với bà cô về mẹ. - Vì thương mẹ, bé
Hồng ghét những hủ tục phong kiến vô lí. Nêu lên câu nói đầy căm phận với hủ tục
đó. - Vì nỗi mong nhớ, thương yêu mẹ thường trực nên thoáng thấy bóng người
trên xe kéo là bé Hồng chạy theo. - Kể lại những phút bé Hồng sung sướng được ở
bên mẹ. Câu 3. Các em tự chứng minh tính đúng đắn của câu tục ngữ “Đi một ngày
đàng,
học
một
sàng
khôn”.
Câu 2. Phân tích nhân vật cai lệ:
- Là một tên tay sai chuyên nghiệp rất thạo nghề làm tay sai:
+ Là cai, cầm đầu đám lính lệ ở huyện đường (loại lính chuyên làm tay sai hầu hạ
chống quan nha chứ không phải lính chiến đấu).
+ Hắn là tiêu biểu nhất của hạng tay sai, công cụ đắc lực của cái trật tự xã hội ấy. Tên cai lệ được phái về làng Đông Xá để giúp lí trưởng làng này đốc thuế. Hắn rất
mẫn cán, thường lăm lăm cầm roi song theo gã người nhà lí trưởng vào những nhà
có người thiếu thuế để quát nạt, chửi bới, đánh trói.
+ Đánh trời là “nghề” của hắn, hắm làm có kĩ thuật, thành thạo.
+ Hắn là sản phẩm được đào tạo đúng quy cách của cái chế độ tàn bạo đó. Chế độ
ấy rất cần những hạng người, những tư cách ấy. Hôm trước, ở đình làng, tên phó lí
Đông Xá đã bảo hắn: “Sao ông không giã cho nó (chị Dậu) một mẻ. Ông lí tôi mời
ông về đây chỉ có thế!”.
+ Trong kì sưu thuế giống như một cuộc săn thú này, cai lệ là một con chó săn nòi
hung dữ, rất được việc! Dường như toàn bộ ý thức của hắn lúc này chỉ là rat ay
trừng trị kẻ thiếu thuế: Vừa “sầm sập” xông vào nhà chị Dậu cùng gã người nhà lí
trưởng, hắn đập roi xuống đất, quát thét ra oai, rất hống hách và đểu cáng: “Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!”.
Anh Dậu vừa chết đi sống lại, hắn đâu thèm có để ý. Mà nếu anh Dậu chết đêm
qua thì chính là hắn phải chịu trách nhiệm trước tiên, chứ không phải ai khác. Vì
chính tay hắn hôm trước đã trói gô anh rất chặt, rồi điệu ra đình cùm kẹp giữa lúc
anh đang ốm nặng. Vậy mà, giờ đây, trước những lời van xin của chị Dậu mong
hắn tha cho anh, hắn đáp lại bằng thái độ hết sức phũ phàng. Mở miệng, hắn chỉ
thét, quát, hầm hè , tức là “ngôn ngữ” của thú dữ chứ đâu phải tiếng nói của con
người! Và hắn cũng có nghe gì người khác nói đâu, nên mới không cho lọt vào tai
bất cứ một lời nào của chị Dậu, để cuối cùng, chị Dậu hoảng sợ quá, van xin hắn:
“Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho! Thì hắn đã đáp
lại bằng thứ ngôn nữ riêng của hắn, tàn ác và đểu giả: “Tha này! Tha này! Vừa nói
hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu”. Trong cái đám đông tay sai của quan phủ, lí trưởng, cai lệ chỉ là một nhân vật
“chạy cờ”, một gã tay sai mạt hạng, vô danh. Nhưng bộ mặt hung dữ, đểu cáng của
hắn vẫn có một giá trị tiêu biểu riêng; hắn là một thứ “Thiên lôi”, một cái búa sắt
trong tay bọn thống trị, tức là tiêu biểu cho chức năng đàn áp của cái chế độ tàn
bạo ăn thịt người. Hắn dữ tợn, gây tội ác không hề chùn tay nhưng tất cả đều nhân
danh “nhà nước”, “phép nước”. Vì vậy, có thể nói, cái tên cai lệ không chút tình
người đó chính là hiện tượng đầy đủ, “thật thà” nhất của cái trật tự tàn bạo dã man
đương thời.
Câu 4. Phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu: - Khi hai tên tay sai “sầm sập tiến
vào”, nỗi nguy đã ập đến, vấn đề đặt ra với chị Dậu khi đó là sự sống chết của
chồng:
+ Anh Dậu ốm yếu quá khiếp đảng “lăn đùng ra không nói được câu gì”.
+ Chị Dậu đã phải một mình đứng ra đối phó với chúng để bảo vệ chồng. - Lúc
này, vận mạng của anh Dậu là ở trong tay của chị. Tình thế thật là hiểm nghèo,
nhưng chính trong tình huống hiểm nghèo ấy, hình ảnh chị Dậu đã nổi bật lên với
những phẩm chất thật bất ngờ:
+ Ban đầu, chị “cố thiết tha” van xin bọn chúng. Trong tình thế của chị lúc ấy chỉ
có cách van xin. Chúng có những hai tên rất hung hãn, tay lăm lăm “những roi
song, tay thước và dây thừng” – toàn những thứ để đánh, trói người. Và điều quan
trọng hơn – chúng là “người nhà nước”, nhân danh “phép nước” để trừng trị kẻ có
tôi. Mà anh Dậu chính là kẻ “có tội” hiển nhiên: đang thiếu thuế (dù chỉ là thiếu
suất thuế của “chú Hợi” đã chết từ năm ngoái). Vợ chông chị, những người nông
dân cùng khổ, xưa nay hầu như chỉ biết an phận, đâu cưỡng lại “phép nước” được.
+ Nhưng khi tên cai lệ đáp lại những lời van xin thống thiết lễ phép của chị Dậu
bằng “trợn ngược hai mắt” quát, thét, bằng những quả bịch vào ngực chị Dậu và cứ
chồm đến anh Dậu, thì chỉ đến lúc ấy, “hình như tức quá không thể chịu được, chị
Dậu liều mạng cự lại”. Sự “liều mạng cự lại” của chị Dậu cũng có hai bước, mức
độ khác nhau. Thoạt tiên chị “cự lại” bằng lí: + “ – Chồng tôi đau ốm, ông không
được phép hành hạ!” Kì thực, chị Dậu đâu biết đến luật pháp cụ thể, chị chỉ nói cái
lí tự nhiên, cái nguyên tắc đạo lí tối thiểu của con người. Tư thế của chị Dậu lúc
này khác hẳn trước: không phải là một kẻ bề dưới cúi đầu van xin, mà là tư thế
người ngang hàng, đanh thép cảnh cáo kẻ ác. Nhưng khi tên cai lệ hung dữ như
chó sói ấy quay lại “tát vào mặt chị đánh bốp, rồi hắn cứ nhảu vào cạnh anh Dậu”,
thì chị Dậu đã bật dậy với sức mạnh ghê ghớm bất ngờ. Chị Dậu “nghiến hai hàm
răng” (biểu hiện của sự nổi giận cao độ, không nén nổi) và ném ra lời thách thức
quyết liệt, dữ dội: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Không còn đấu
lí nữa, chị quyết rat ay đấu lực với bọn ác ôn này. Chị Dậu đã rat ay với sức mạnh
của sự căm thù, phẫn nộ: “Túm ngay cổ” tên cai lệ, “ấn dúi ra cửa” làm cho “hắn
ngã chỏng queo”. - Nhận xét: Hành động của chị Dậu hiển nhiên là liều lĩnh, cô
độc và tự phát; trước sau, chị vẫn chỉ là nạn nhân bất lực của hoàn cảnh, vì vậy lời
anh Dậu khuyên can vợ là cái sợ “cố hữu” của anh. Những từ ngữ miêu tả và giọng
văn pha chút hài hước của tác giả ở đây đã làm nổi bật sức mạnh ghê gớm của chị
Dậu và hình ảnh bất lực thảm hại của tên cai lệ khi bị chị “ra đòn” bất ngờ. Chúng
ta cũng đồng tình với thái độ của chị Dậu. Ta thấy chị là con người đáng thương và
đáng kính nể (“thà ngồi tù chứ không cho chúng làm tình làm tội mãi, tôi không
chịu được”).
Câu 4. Em hiểu như thế nào về nhan đề Tức nước vỡ bờ đặt cho đoạn trích? Theo
em, đặt tên như vậy có thỏa đáng không? Vì sao? Quy luật “Có áp bức có đấu
tranh”. Hành động của chị Dậu xuất phát từ một quy luật: “Con giun xét lắm cũng
quằn”. Vì vậy đặt nhan đề Tức nước vỡ bờ cho đoạn trích là thỏa đáng vì đoạn
trích nêu những diễn biến phù hợp với cái cảnh tức nước vỡ bờ. Mặc dù tự phát,
sonh hành động của chị cho thấy sức mạnh tiềm tàng của người nông dân. Sức
mạnh ấy bắt nguồn từ ý thức nhân phẩm, từ tình yêu thương. Đây là đoạn văn sảng
khoái nhất trong hơn một trăm trang Tắt đèn…
Câu 5. Hãy chứng minh nhận xét: “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ một
đoạn tuyệt khéo”. “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt
khéo vì sự phát triển rất phù hợp với logic và tính cách nhân vật. Tình thế đặt chị
Dậu trước sự lựa chọn: hoặc là để yên cho chúng giày xéo, hoặc đứng lên chống lại
chúng. Một cách tự phát của diễn biến, chị đã vùng dậy một cách quyết liệt. - Lúc
đầu, làm sự nhịn nhục của kẻ dưới, chị “cố thiết tha” van xin. Van xin là cách duy
nhất để “mong hai tên tay sai tha cho anh Dậu”. - Trước sự đểu giả và tàn bạo của
cai lệ, chị liều mạng cự lại “tức quá không thể chịu được”. + Không còn van xin
( mà có van xin thì cũng vô ích), chị đấu lí: “Chồng tôi đau ốm, ông không được
phép hành hạ”. Cách xưng hô cho thấy chị không còn “nằm yên” trong tư cách kẻ
dưới mà ngang hàng. + Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem. Chị Dậu đã chuyển
sang một tư thế khác: bà – mày. Đó là tư thế của kẻ bề trên. Sự căm giận, khinh bị
kẻ thù đã lên tới tột độ. Trong màn đấu lực, chị đã thắng. Vì vậy nhà văn phê bình
Vũ Ngọc Phan mới nhận xét cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ mà một
đoạn tuyệt khéo.
Câu 6. Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng, với tác phẩm Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã “xui
người nông dân nổi loạn”. Em hiểu như thế nào về nhận xét đó? Hãy làm rõ ý kiến
trên. Tắt đèn đã làm toát ra một chân lí: quần chúng nghèo khổ bị áp bức chỉ có
một con đường sống là vùng dậy đấu tranh để tự cứu mình, không có con đường
nào khác. Như vậy chẳng phải là “xui người nông dân nổi loạn” hay sao? Đó cũng
chính là “dư vị chính trị” của Tắt đèn. Có thể nói tiểu thuyết Tắt đèn với hơn một
trăm trang truyện hầm hập không khí oi bức trước cơn bão, chính là sự thể hiện
nghệ thuật sinh động các quy luật của hiện thực nông thôn đương thời. Nguyễn
Tuân không quá quắt chút nào khi nói rằng: Tác giả Tắt đèn đã “xui người nông
dân nổi loạn”.
Câu 7. Nghệ thuật. Đoạn trích như một màn bi hài kịch, các tình tiết diễn ra đúng
với cái tên gọi của đoạn trích là “Tức nước vỡ bờ”. “Chị Dậu là cái đốm sáng đặc
biệt của tác phẩm Tắt đèn” (Nguyễn Đăng Mạnh).
Câu 8. Ý nghĩa. Có thể nói, chính đoạn Tức nước vỡ bờ miêu tả sự vùng dậy đầy
hào hứng của người nông dân, đã thể hiện rõ rệt nhất cai tinh thần “xui người nôn
dân nổi loạn”, đó là cái “dư vị chính trị” tích cực của tác phẩm. Cảnh Tức nước vỡ
bờ để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về nhân vật chị Dậu. Hoàn
cảnh của chị thật đáng thương. Chị là người vợ, người mẹ giàu tình thương chồng,
con… Nhưng chị cũng là người đàn bà cứng cỏi đã dám chống lại bọn cường hào
để bảo vệ chồng. Đối lập với nhân vật chị Dậu là bọn cai lệ, tên hầu cận lí trưởng,
là đầu trâu, mặt ngựa với tay thước, roi song, dây thừng xông vào nhà chị, chúng
tưởng sẽ làm mưa làm gió, nhưng đã bị một sự chống trả quyết liệt của chị Dậu. II.
Luyện tập Nhờ sự giúp đỡ của thầy cô giáo, các em hãy dựa vào văn bản để dựng
và diễn một màn kịch ngắn có bốn vai trong đó có các vai: chị Dậu, anh Dậu và hai
tên tay sai. - Trong bốn vai kịch cần chọn người đóng vai chị Dậu và tên cai lệ là
hai vai chính đối diện với nhau trong diễn biến của màn kịch từ đầu đến cuối. Nhất
là những lời đối thoại sao cho thể hiện rõ được tính cách của nhân vật. - Vai anh
Dậu và vai tên “người nhà lí trưởng” trong văn bản đoạn trích không xuất hiện
nhiều, nhưng trong màn kịch cần có những lời nói, hành động cho sinh động.