Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ HỖ TRỢ XUẤT KHẨU TRONG GIAI ĐOẠN HẬU-WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.39 KB, 17 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TW
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU
--------------------------------------------

PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ HỖ TRỢ XUẤT KHẨU
TRONG GIAI ĐOẠN HẬU-WTO
I.

Tiềm năng và thực trạng và xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
trong giai đoạn hậu WTO

1. Tiềm năng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong giai đoạn hậu
WTO
Trên lý thuyết, việc hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế khu vực và thế
giới, đặc biệt là việc gia nhập WTO, sẽ làm gia tăng cơ hội thâm nhập thị
trường nước ngoài cho các sản phẩm của nước ta, bởi lẽ: (i) việc cắt giảm thuế
quan và dỡ bỏ dần các rào cản phi thuế quan của các nước sẽ tạo thuận lợi hơn
cho các sản phẩm thuộc diện được cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi
quan thuế thâm nhập thị trường. Như vậy, điều kiện tiếp cận thị trường đối với
hàng hóa của Việt Nam sẽ được rộng mở hơn, nhất là đối với các sản phẩm
mà Việt Nam đang có lợi thế so sánh như hàng nông, lâm, thủy sản và công
nghiệp chế biến, chế tạo sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, lắp
ráp điện tử, tin học... (ii) việc gia nhập WTO và tăng cường tham gia các khu
vực mậu dịch tự do của Việt Nam như CEPT/AFTA, ACFTA, AJFTA... sẽ tạo
nhiều thuận lợi cho Việt Nam duy trì và mở rộng những thị trường nhập khẩu
lớn của thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản, củng cố và gia tăng thị phần ở
những thị trường tương đối quen thuộc như các nước ASEAN khác, Trung
Quốc, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ... Điều có tác động quan trọng khuyến
khích phát triển xuất khẩu về lâu dài là việc đẩy mạnh cải cách thể chế trong
nước cho phù hợp với các cam kết WTO sẽ thúc đẩy việc xây dựng đồng bộ
thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam, tạo điều kiện phân bổ và sử dụng các


nguồn lực của đất nước một cách hiệu quả nhất, đồng thời tăng cường thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để có thể tạo ra những đột phá trong
phát triển xuất khẩu các sản phẩm chế biến, chế tạo và dịch vụ của Việt Nam...

1
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


Tuy nhiên, kết quả xuất khẩu thực tế sẽ còn tùy thuộc vào phản ứng của nền
kinh tế với những nỗ lực cải cách thể chế, cải cách hành chính và nâng cao
năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu.
2. Thực trạng
Từ khi gia nhập WTO, chúng ta đã, đang chứng kiến những tác động đa chiều,
đan xen của nền kinh tế thế giới và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhìn
chung, sau một năm chính thức gia nhập WTO, kết quả hoạt động xuất khẩu
của Việt Nam khá khả quan và có những dấu hiệu tích cực. Tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu tiếp tục được duy trì ở mức cao nhờ tiếp cận thị trường được
thuận lợi hơn sau khi Việt nam trở thành thành viên WTO. Vụ Thương mại &
Dịch vụ (Bộ Kế hoạch & Đầu Tư) cho biết: Tổng kim ngạch xuất khẩu năm
2007 đạt 48.56tỷ USD, tăng trên 21,9% so với năm 2006 và vượt 1,4% so với
chỉ tiêu báo cáo Quốc hội vào tháng 10/2007. Năm 2007 là năm thứ 5 liên tiếp
xuất khẩu có mức tăng trưởng trên 20%. Xuất khẩu năm 2007 đạt mức bình
quân trên 4 tỷ USD/tháng. Đã có 10 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1tỷ
USD như: Dầu, cao su và than đá. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu đã có bước
chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp chế
biến có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần xuất khẩu hàng thô.
Các thị trường xuất khẩu cũng đã đa dạng và mở rộng hơn. Thị trường châu Á
chiếm tỷ trọng lớn (43,8% với kim ngạch khoảng 21 tỷ USD, tăng 22% so với
năm 2006. Thị trường châu Âu chiếm 19,8% với kim ngạch 9,6 USD, tăng
19% so với năm 2006. Thị trường châu Mỹ chiếm 24,2% với kim ngạch 11,6

tỷ USD, tăng 28% so với năm 2006. Riêng thị trường Hoa Kỳ chiếm 21,3%
với kim ngạch đạt 10,2 tỷ USD. Các thị trường khác như châu Phi, Tây Nam
Á chiếm tỷ trọng 3,8% với kim ngạch đạt 1,8 tỷ USD, tăng 23% so với năm
2006.
Theo Bộ Công thương, tháng 5 năm 2008 xuất khẩu của cả nước tăng 26,2%
so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 5 tháng 2008, đạt 23,4 tỉ USD và bằng
39,5% kế hoạch năm do Quốc hội đề ra(59,25 tỉ USD). Từ đầu năm đến nay,
trừ khối lượng một số mặt hàng như dầu thô, than đá, gạo, cà phê, chè bị giảm
sút, còn hầu hết các mặt hàng chủ lực khác đều đạt tốc độ tăng trưởng cao so
với 5 tháng đầu năm 2007. Trong khi kim ngạch xuất khẩu hạt điều tăng
2
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


35,2%, sản phẩm nhựa tăng 31,7%, túi xách – ô dù, mũ, valy tăng 30,7%, dây
điện – dây cáp điện tăng 28%, thì những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn
khác như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, điện tử - vi tính, thuỷ sản, rau quả
cũng đều tăng khá cao, trên dưới 20%.
Ước tính kết quả xuất khẩu năm tháng đầu năm 2008

Tổng trị giá xuất
khẩu
- DN có vốn đầu tư
nước ngoài
Mặt hàng chủ yếu
xuất khẩu
Thủy sản
Gạo
Cà phê
Rau quả

Cao su
Hạt tiêu
Nhân điều
Chè các loại
Dầu thô
Than đá
Hàng dệt và may
mặc
Giày dép các loại
Hàng đtử và linh
kiện máy tính
Hàng thủ công mỹ
nghệ
Sản phẩm gỗ
Sản phẩm nhựa
(plastics)

5 tháng 2008
Số lượng
Trị giá (triệu
(1.000 T)
USD)
23.398

2.124
493
201
35
53
34

5.709
11.402

3
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu

So với cùng kỳ (%)
Số lượng Trị giá
127,2

13.440

130,3

1.480
1.166
1.008
156
493
124
273
44
4.521
585
3.255

112,3
194,0
90,3
119,1

115,2
115,9
135,1
124,4
145,6
139,3
118,3

113,0
64,4
86,6
90,5
106,9
90,3
88,7
80,0

1.748
964

112,9
126,0

323

103,3

1.145
343


120,9
131,9


Xe đạp và phụ tùng
Dây điện và cáp
điện
Túi xách, vali, mũ,
ôdù

38
416

97,4
129,2

325

130,5

Tuy nhiên, song song với thành tựu như vừa nêu, xuất khẩu của Việt Nam vẫn
tồn tại một số hạn chế và nhược điểm. Như: quy mô xuất khẩu còn nhỏ, kim
ngạch xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp so với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Xuất khẩu tăng trưởng nhanh song dễ bị tổn thương bởi các
cú sốc từ bên ngoài như biến động giá trên thị trường thế giới, hay các rào cản
thương mại và phi thương mại của nước ngoài, bài học là những vụ kiện
chống bán phá giá đối với sản phẩm giày mũi da, tôm. Khả năng chủ động
nắm bắt cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác các thị trường xuất khẩu
còn nhiều hạn chế. Các doanh nghiệp chưa tận dụng triệt để lợi ích của việc
gia nhập WTO để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ,

EU, Trung Quốc. Công tác xúc tiến thương mại nhỏ lẻ, rời rạc, hiệu quả chưa
cao. Chủng loại hàng hóa còn đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất
khẩu mới có đóng góp kim ngạch đáng kể. Các mặt hàng xuất khẩu có giá trị
gia tăng cao còn thấp, v.v. Những nhược điểm trên chứng tỏ một thực tế là
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và sản phẩm xuất khẩu còn hạn chế.
Theo Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn từ năm 2006 - 2010 được Thủ
tướng phê duyệt, mục tiêu tổng quát là "Phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng
trưởng cao và bền vững. Đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất cao mặt hàng
xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh, có khả năng chiếm lĩnh thị phần đáng kể trên
thị trường thế giới. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất
khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; sản phẩm chế biến, chế tạo, sản
phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất
khẩu thô; đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ".
Để hiện thực hóa được những mục tiêu trên trong nền kinh tế thị trường, một
trong những giải pháp quan trọng là cần chú trọng phát triển các dịch vụ hỗ trợ
xuất khẩu tiên tiến, hiện đại, và sớm mở cửa thị trường vụ hỗ trợ xuất khẩu
cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm nâng tạo điều kiện để các doanh nghiệp
4
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


xuất khẩu Việt Nam tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của chính doanh
nghiệp và sản phẩm xuất khẩu của mình.
Phần dưới đây sẽ đi sâu tìm hiểu về ba loại hình dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu,
gồm: dịch vụ logistics, dịch vụ tài chính, và marketing xuất khẩu.
II.

Tổng quan về một số loại hình dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu tại Việt
Nam


1. Dịch vụ logistics
Theo Luật Thương mại năm 2005, dịch vụ logistics là một hoạt động thương
mại trong đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao
gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ
tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao
hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với
khách hàng để hưởng thù lao. Với cách hiểu này, Nghị định số 140/2007NĐCP (“Nghị định 140”) do Chính phủ đã ban hành ngày 5 tháng 9 năm 2007 đã
phân loại các dịch vụ logistics thành ba loại hình chính dựa trên đặc điểm và
bản chất của từng loại hình dịch vụ.
Các dịch vụ logistics chủ yếu. Có bốn loại dịch vụ được coi là dịch vụ logistic
chủ yếu, bao gồm: (i) Dịch vụ bốc xếp hàng hóa, gồm cả hoạt động bốc xếp
container; (ii) Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, gồm cả hoạt động kinh
doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị; (iii) Dịch vụ đại lý
vận tải, gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và lập kế hoạch bốc dỡ
hàng hóa; (iv) Dịch vụ bổ trợ khác, gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và
quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả
chuỗi logistics; hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa
tồn kho, hàng quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó, các hoạt động
cho thuê và thuê mua côngtenơ.
Các dịch vụ logistics liên quan tới vận tải, bao gồm dịch vụ vận tải hàng hải
và đường thủy nội địa, dịch vụ vận tải hàng không, dịch vụ vận tải đường sắt,
dịch vụ vận tải đường bộ và dịch vụ vận tải đường ống.
Các dịch vụ logistics khác bao gồm các dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật,
dịch vụ bưu chính, dịch vụ thương mại bán buôn, dịch vụ thương mại bán lẻ,
5
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa,
phân phối lại và giao hàng và những dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.

Như vậy, phạm vi của các dịch vụ logistics khá rộng. Có thể nói đối với Việt
Nam, hoạt động logistics mặc dù không phải bây giờ mới có, lĩnh vực này
cũng đã được phát triển ở nước ta từ nhiều năm, nhưng còn ở mức manh mún,
chắp vá, phân tán và hiện tại cả nước chưa có DN nào hoạt động được đúng
nghĩa của một ngành công nghiệp dịch vụ logistics. Hoạt động Logistics mới
“giải quyết” được một vài công đoạn trong cả chuỗi dịch vụ Logistics khép
kín… Cho đến tháng 4 năm 2007, nước ta đã có trên một ngàn DN đăng ký
làm logistics, nhưng chỉ có khoảng 800 DN thực sự có tham gia hoạt động,
trong đó DN Nhà nước chiếm khoảng 20%, Công ty TNHH, DN cổ phần
chiếm 70%, còn 10% là các gia đình, tư nhân làm nhỏ lẻ, tham gia làm từng
phần, từng công đoạn…, nên chưa kết nối được một cách đầy đủ giữa thị
trường trong nước với các thương cảng lớn trên thế giới và các quốc gia mà
Việt Nam có quan hệ XK lớn về thương mại.
Với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế trong thời gian qua, nhu cầu giao
lưu phân phối ngày càng trở nên cấp thiết và ngành logistic đã trở thành một
ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất VN. Hệ thống cơ
sở hạ tầng giao thông của VN bao gồm trên 17.000 km đường nhựa, hơn 3.200
km đường sắt, 42.000 km đường thuỷ, 266 cảng biển và 20 sân bay. Tuy nhiên
chất lượng của hệ thống này là không đồng đều, có những chỗ chưa đảm bảo
về mặt kỹ thuật. Hiện tại, chỉ có khoảng 20 cảng biển có thể tham gia việc vận
tải hàng hoá quốc tế và cũng chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất là đón được các
máy bay chở hàng quốc tế. Một số “đường cao tốc” có thực hiện thu phí giao
thông - đó thực sự là các đoạn đường tốt. Ngược lại, khá nhiều tuyến đường
liên tỉnh, liên huyện đang ở tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Trong một số
lĩnh vực công nghiệp, việc vận chuyển bằng đường sắt và đường thuỷ đang
chiếm ưu thế so với vận chuyển bằng đường bộ. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, lượng hàng hoá vận chuyển đường sắt chiếm khoảng 15% tổng
lượng hàng hoá lưu thông. Tuy nhiên, đường sắt VN vẫn đang đồng thời sử
dụng 2 loại khổ ray khác nhau (1.000 và 1.435 mm) với tải trọng thấp.


6
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


Song hành cùng sự phát triển kinh tế và tăng trưởng xuất khẩu, ngành vận tải
biển VN đang có những bước phát triển vượt bậc. Đặc biệt, lĩnh vực vận
chuyển container luôn đạt tốc độ tăng trưởng 2 chữ số trong những năm gần
đây. Tuy vậy, điều này lại dẫn đến hệ luỵ là VN đang rất cần các cảng nước
sâu để có thể thoả mãn được nhu cầu xuất nhập khẩu ngày càng tăng. Tổng
khối lượng hàng qua các cảng biển VN hiện nay vào khoảng 140 triệu tấn/năm
(năm 2006: 153 triệu tấn), tốc độ tăng trưởng hàng năm trong vòng 10 năm tới
theo dự đoán là 20 - 25%. Hiện chính phủ VN và các nhà đầu tư quốc tế đang
triển khai một loạt dự án xây dựng các cụm cảng nước sâu như ở khu vực Cái
Mép - Thị Vải ở phía Nam cũng như Hải Phòng ở phía Bắc. Các dự án này
đang phấn đấu hoàn thành vào năm 2009.
Cước phí vận chuyển hàng hoá hiện nay ở VN thuộc vào loại cao nhất Đông
Nam Á. Hiện đối với các DN VN, chi phí cho giao nhận kho vận còn chiếm
tới 20% giá thành sản phẩm; trong khi tỷ lệ này ở các nước phát triển chỉ vào
khoảng 8 - 12%. Nguyên nhân của vấn đề này một mặt nằm ở hệ thống đường
sá chưa đồng bộ, chất lượng dịch vụ ở các cảng biển chưa cao. Mặt khác tính
phức tạp, đôi chỗ chưa minh bạch trong việc giải quyết các thủ tục hành chính
khi thực hiện xuất nhập khẩu hàng hoá cũng gián tiếp làm tăng chi phí vận tải.
Ngoài ra, chất lượng nhiều kho bãi chưa đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc
tế, đặc biệt là các yêu cầu khắt khe về vệ sinh môi trường.
Những bất cập trong hoạt động logistics đang trở thành bức xúc lớn khi Việt
Nam đã là thành viên của WTO. Nếu chúng ta không nhanh tháo gỡ để làm tốt
dịch vụ này thì sức cạnh tranh của quốc gia, sức cạnh tranh của DN và hàng
hóa Việt Nam sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Hơn nữa tính chất, quy mô hoạt động dịch vụ logistics cũng rất rộng, nó
không phải chỉ là hoạt động vận tải biển hay một công đoạn của cảng xếp dỡ

hàng hóa và kho bãi, nó cũng không phải chỉ là việc phân phối thông qua các
đại lý, tổng đại lý bán buôn, bán lẻ, mà nó là cả một quá trình tổng hợp của tất
cả các khâu… Dịch vụ logistics là một chuỗi dịch vụ cung ứng một cách thuận
lợi nhất, hiệu quả nhất với thời gian và chi phí thấp nhất cho khách hàng từ
người mua sang người bán, từ sản xuất đến tiêu dùng… Làm tốt dịch vụ
logistics sẽ góp phần giảm chi phí để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá
7
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


xuất khẩu. Vì vậy, những bất cập trở ngại cho hoạt động logistics đòi hỏi phải
được giải quyết một cách đồng bộ.
Muốn tồn tại và phát triển, đáp ứng nhu cầu thực tiễn thì các DN làm logistics
cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kho bãi, hệ thống trang thiết bị, phương
tiện... Quan tâm đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành
logistics là vấn đề rất quan trọng. Nhằm đạt được mô hình sản xuất tối ưu, các
DN ngày càng phải chú ý đến việc áp dụng các phương thức logistic hiện đại.
Ví dụ, có thể ứng dụng logistic để phân công dây chuyền sản xuất, bố trí chi
nhánh, Cty con một cách hợp lý tạo thuận lợi cho việc tiếp cận nguồn nguyên
liệu cũng như khách hàng với chi phí thấp nhất.
Hạn định 2009 mở cửa lĩnh vực logistic không còn xa. Việc dịch chuyển cơ sở
sản xuất của nhiều DN nước ngoài từ nơi khác đến VN đã tạo ra cơ hội rất lớn
trong việc xây dựng một mạng lưới giao nhận kho vận hoạt động hiệu quả.
Đây cũng là một áp lực buộc các doanh nghiệp nội địa kinh doanh dịch vụ
logistics trong nước phải nâng cao chất lượng dịch vụ và năng lực cạnh tranh
của mình.
2. Dịch vụ tài chính
Theo quan niệm của WTO, các loại dịch vụ tài chính được chia thành các loại
cơ bản sau:
- Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác, bao gồm: dịch vụ tiết

kiệm (tiền gửi tiết kiệm, tài khoản tiết kiệm, tín phiếu, trái phiếu); cho
vay (tín dụng, thuê mua tài chính, cầm cố thế chấp, cho vay ký quỹ, bảo
lãnh thanh toán, chiết khấu giấu tờ có giá); Thanh toán (thanh toán,
chuyển tiền, thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, và hối phiếu,...); Giao dịch (thị
trường tiền tệ, ngoại hối); Môi giới và đầu tư; Tư vấn tài chính.
- Dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm, bao gồm: Các
loại hình bảo hiểm trực tiếp về trách nhiệm dân sự, tài sản, con người...;
Sử dụng quỹ bảo hiểm; và các dịch vụ phụ trợ liên quan đến bảo hiểm
như dịch vụ tư vấn, dịch vụ đánh giá sắc xuất rủi ro, khiếu nại, đại lý
bảo hiểm,...

8
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


- Bên cạnh các loại dịch vụ tài chính nêu trên, có một số loại dịch vụ kinh
doanh có liên quan chặt chẽ và mật thiết đến dịch vụ tài chính, đó là
dịch vụ kế toán bao gồm các loại hình dịch vụ cơ bản là tư vấn thuế, tư
vấn kế toán và kiểm toán
Thị trường dịch vụ tài chính là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch loại dịch vụ
tài chính. Nói cách khác, thị trường dịch vụ tài chính là tổng hợp các mối quan
hệ về tổ chức, quản lý và vận hành các hoạt động giao dịch các loại dịch vụ
ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm toán và dịch vụ tài chính
khác.
Vai trò của việc phát triển thị trường dịch vụ tài chính đối với xuất khẩu
Trình độ phát triển của thị trường dịch vụ tài chính có vai trò rất lớn trong việc
hỗ trợ hoạt động kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp
nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng. Thứ nhất, các dịch vụ tài
chính thúc đẩy nâng cao tiết kiệm, tập trung và đầu tư vốn. Thị trường dịch vụ
tài chính góp phần thúc đẩy hoạt động tiết kiệm dưới mọi hình thức của các

tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội; đồng thời, các nguồn vốn nhỏ lẻ
được tích tụ, tập trung thành những quỹ tài chính lớn phục vụ nhu cầu đầu tư
lớn, dài hạn trong nền kinh tế. Thị trường dịch vụ tài chính phát triển còn tạo
điều kiện thuận lợi cho các chủ doanh nghiệp, doanh nhân dễ dàng và nhanh
chóng tìm được nguồn tài chính với chi phí và chất lượng phù hợp nhu cầu
đầu tư sản xuất và kinh doanh của mình. Thứ hai, trên thị trường dịch vụ tài
chính, hầu hết các nguồn lực tài chính được phân bổ dựa trên tín hiệu về hiệu
quả của thị trường. Cơ chế này phần nào nâng cao năng lực và hiệu quả phân
bổ, sử dụng các nguồn lực tài chính. Thứ ba, thị trường tài chính giúp doanh
nghiệp phân tán và giảm thiểu rủi ro. Với sự phát triển của thị trường dịch vụ
tài chính, hàng loạt các dịch vụ tài chính khác nhau đã và đang hình thành,
phát triển; các loại dịch vụ tài chính này có mức độ rủi ro khác nhau, từ thấp
đến cao, điều này tạo điều kiện cho các khách hàng sử dụng nhiều loại dịch vụ
khác nhau trong cùng một lúc, tránh được rủi ro khi sử dụng một loại duy
nhất. Dịch vụ bảo hiểm đáp ứng những hậu quả tài chính của một số rủi ro
nhất định, đem lại cảm giác yên tâm và bù đắp thua thiệt khi xảy ra rủi ro đối
với doanh nghiệp. Dịch vụ này có vai trò quan trọng đặc biệt trong hoạt động
9
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


của các doanh nghiệp công nghiệp và thương mại. Các dịch vụ khác như kế
toán, kiểm toán, và tư vấn tài chính cũng góp phần nâng cao tính minh bạch và
năng lực của doanh nghiệp. Các dịch vụ này không những giúp doanh nghiệp
nhìn nhận, đánh giá đúng đắn tình hình, hiệu quả hoạt động kinh doanh, công
tác quản lý tài chính của mình mà còn hỗ trợ những giải pháp khắc phục tồn
tại, yếu kém, nhìn nhận cơ hội và thách thức để có những đối sách thích hợp
cho sự phát triển của doanh nghiệp trong tương lai.
Đặc biệt, đối với những doanh nghiệp xuất khẩu, việc cung ứng vốn cho xuất
khẩu và bảo hiểm xuất khẩu là điều kiện tiền đề quan trọng cho hoạt động xuất

khẩu. Vấn đề cung ứng vốn luôn được coi là yếu tố cạnh tranh rất quan trọng
trong kinh doanh xuất khẩu. Tuy nhiên, vốn sử dụng trong kinh doanh xuất
khẩu luôn gắn với những rủi ro. Vì vậy, hoạt động cấp vốn thường gắn với các
hoạt động bảo hiểm xuất khẩu.
Hiện nay, việc cấp vốn và tài chính cho các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu và
dịch vụ xuất khẩu do các ngân hàng chủ yếu là do các NHTM NN đảm nhận.
Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và dịch vụ xuất nhập khẩu được
hưởng một số chính sách khuyến khích về tài chính (ngoài thuế) như sau:
- Được ưu tiên vay vốn, đặc biệt là vốn trung bình và dài hạn là loại vốn
còn rất thiếu ở Việt Nam.
- Được hưởng lãi suất ưu đãi: Lãi suất vay ngắn hạn để sản xuất hàng
xuất khẩu, dịch vụ xuất nhập khẩu thường thấp hơn từ 20-25% lãi suất
ngắn hạn thông thường.
Các chính sách trên được thực hiện thông qua hệ thống các ngân hàng thương
mại quốc doanh và theo chức năng do Nhà nước quy định ban đầu cho các
ngân hàng thì:
- Các khoản cho vay vốn để phục vụ cho đầu tư phát triển các doanh
nghiệp, trong đó các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, dịch vụ xuất
nhập khẩu do hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển đảm nhận.
- Các khoản cho vay vốn để phục vụ cho các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ, do hệ thống ngân hàng
công thương đảm nhiệm.
10
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


Hệ thống hỗ trợ tài chính mới đối với các doanh nghiệp xuất khẩu đã được thể
chế hoá bằng Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2006 về
tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. Nghị định này thay thế
Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu ban hành kèm theo Quyết định số

133/2001/QĐ-TTG ngày 10 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ,
nhằm sửa đổi chính sách hỗ trợ của chính phủ cho phù hợp hơn với bối cảnh
hội nhập quốc tế của Việt Nam giờ đây đã là thành viên của WTO.
Thị trường dịch vụ tài chính hậu WTO
Có thể nói, thị trường dịch vụ tài chính là một trong những cánh cửa mở rộng
nhất khi Việt Nam gia nhập WTO. Theo cam kết, Việt Nam mở cửa hoàn toàn
cho các DN nước ngoài trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán (KTKT). Chỉ có
riêng hoạt động tư vấn thuế là giới hạn sau một năm Việt Nam gia nhập WTO.
Các cam kết cơ bản đối với các tổ chức tài chính - tín dụng nước ngoài, là:
các tổ chức này được phép thiết lập hiện diện thương mại ở Việt Nam dưới
các hình thức:
- Đối với ngân hàng thương mại nước ngoài: văn phòng đại diện, chi nhánh,
ngân hàng thương mại liên doanh với số vốn đầu tư chiếm không quá 50%,
công ty cho thuê tài chính, công ty liên doanh tài chính và công ty tài chính
100% vốn nước ngoài. Từ ngày 1/4/2007 ngân hàng 100% vốn đầu tư nước
ngoài được phép thành lập.
- Đối với công ty tài chính nước ngoài: văn phòng đại diện, công ty tài chính
liên doanh và 100% vốn nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh và
100% vốn nước ngoài.
- Đối với công ty cho thuê tài chính nước ngoài: văn phòng đại diện nước
ngoài, công ty liên doanh và 100% vốn nước ngoài.
Cú hích từ sự mở cửa này đã tạo đà cho sự phát triển của DN trong nước. Đến
nay, hệ thống nhân hàng của Việt Nam đã được hình thành với sự góp mặt của
5 NHTM nhà nước, 1 NH chính sách xã hội, 1 NH phát triển, 37 NHTM cổ
phần đô thị, 37 chi nhánh NH nước ngoài, 5 NH liên doanh, 45 văn phòng đại
diện tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, hơn 20 công ty tài
chính và cho thuê tài chính cùng với gần 1000 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.
Cùng với việc gia tăng về số lượng, các ngân hàng cũng ngày càng hoàn thiện
11
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu



hơn các dịch vụ theo chuẩn mực quốc tế; tạo điều kiện cho các DN trong nước
liên doanh hoặc tham gia hiệp hội quốc tế để nâng cao năng lực hoạt động.
Đối với lĩnh vực bảo hiểm (BH), sự sôi động đã bắt đầu trước khi Việt Nam
gia nhập WTO. Bằng chứng là đến giữa năm 2006 đã có tới 10 công ty nước
ngoài tham gia lĩnh vực này; ngay khi gia nhập WTO, hai trong số hàng loạt
công ty "xếp hàng" vào Việt Nam là ACE và Liberty Mutual được cấp phép.
Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính cùng với việc cho phép doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường tài chính
Việt Nam sẽ tăng thêm năng lực khai thác của thị trường, đẩy nhanh quá trình
chuyển giao công nghệ và đào tạo đội ngũ cán bộ. Sự có mặt của các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính - ngân hàng - bảo hiểm của nước ngoài trên
thị trường Việt Nam sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao chất
lượng dịch vụ, hạ thấp chi phí, nâng cao sức cạnh tranh.
3. Marketing xuất khẩu
Để tăng tốc kim ngạch xuất khẩu thì phải tăng cường các hoạt động hỗ trợ cho
xuất khẩu như quảng bá, tiếp thị, xúc tiến thương mại,... được gọi chung là
marketing cho xuất khẩu. Làm gì để đẩy mạnh hoạt động marketing cho xuất
khẩu là điều đang được nhiều nhà lập chính sách và doanh nghiệp quan tâm.
Marketing xuất khẩu là hoạt động rất rộng, không phải chỉ một hay hai doanh
nghiệp mà cả ngành cùng tham gia vì nó có liên quan đến nhiều bộ ngành từ
trung ương đến địa phương. Nhiệm vụ đẩy mạnh hoạt động marketing xuất
khẩu trước hết phải thuộc về các nhà hoạch định chính sách. Thực tế cho thấy
chính quyền địa phương nào quan tâm xúc tiến thương mại thì nền kinh tế của
địa phương đó phát triển rất nhanh. chính quyền làm công tác xúc tiến thông
qua các chính sách kinh tế địa phương là tạo các cơ chế liên kết hoạt động của
doanh nghiệp từ sản xuất đến tiêu thụ và công tác xúc tiến thương mại không
chỉ là tìm kiếm mở rộng thị trường, mà việc hỗ trợ nâng cao năng lực và kiến
thức kinh tế thị trường cho doanh nhân là vô cùng cần thiết, bởi thực tế doanh

nghiệp trong tỉnh hầu hết có quy mô nhỏ và vừa, còn mới mẻ trong thương
thường quốc tế, do đó rất cần có sự hỗ trợ từ Nhà nước thông qua các chính
sách.
12
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


Tiếp sức cho hoạt động marketing xuất khẩu không thể không nhắc đến vai trò
của các nhà ngoại giao. Ngoài công tác chính trị, nhiệm vụ kinh tế phải được
đặt lên hàng đầu đối với các nhà ngoại giao. Ở thị trường nước ngoài, các nhà
ngoại giao am hiểu thị trường, luật pháp cũng như văn hóa nên họ cần được
giao thêm nhiệm vụ marketing cho sản phẩm xuất khẩu và hỗ trợ thông tin cho
doanh nghiệp trong nước. Một vấn đề không kém phần quan trọng là hoạt
động marketing cũng giống như hoạt động ngoại giao, đã ngoại giao nhân dân
thì marketing cũng mang tính nhân dân. Cần phải vận động mọi người tham
gia vào công tác marketing từ các nhà giáo dục, văn hóa, du lịch, khoa học...
Tham gia lễ hội trong và ngoài nước cũng là cơ hội để xúc tiến, quảng bá hình
ảnh của doanh nghiệp và sản phẩm.
Các nhà sản xuất, doanh nghiệp cũng phải quan tâm đầu tư xây dựng thương
hiệu. Người Việt Nam thường không am hiểu nhiều về công tác marketing cho
sản phẩm nên khó tránh khỏi thua lỗ vì không bán được hàng. Trải qua hàng
loạt xung đột về thương hiệu hàng hóa thời gian vừa qua, nhiều doanh nghiệp
Việt Nam phải hao tổn thời gian, công sức, tốn kém tiền của để giành lại
những thương hiệu hàng hóa của mình bị các doanh nghiệp nước ngoài đăng
ký mất.
Trước tình trạng đó, Nhà nước, các Bộ, Ngành và đặc biệt là các doanh nghiệp
Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của thương hiệu hàng hóa như
một công cụ cạnh tranh không thể thiếu trong kinh doanh, không ngừng thực
hiện các chương trình xây dựng uy tín cho thương hiệu hàng hóa Việt Nam
trên thị trường quốc tế.

Thực trạng phát triển thương hiệu hàng hóa xuất khẩu Việt Nam trên thị
trường EU 25
Một số vấn đề nổi cộm sau trong thực trạng phát triển thương hiệu hàng hoá
xuất khẩu Việt Nam sang thị trường EU 25:
Thứ nhất, hiện nay, ở Việt Nam, cụm từ thương hiệu được mọi người sử dụng
rất phổ biến nhưng không ai định nghĩa cụ thể thương hiệu là gì? Việc đó dẫn
đến mỗi người hiểu thương hiệu theo một khía cạnh và nhiều khi không đồng
nhất.
13
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


Thứ hai, tuy có sự hiểu biết khác nhau về thương hiệu nhưng doanh nghiệp lại
có sự đồng nhất khi đánh giá tầm quan trọng và lợi ích của thương hiệu. Số
lượng doanh nghiệp cho rằng thương hiệu giúp cho khách hàng tin tưởng vào
chất lượng sản phẩm chiếm 9,2%; yên tâm khi sử dụng sản phẩm chiếm 9,1%;
tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng hơn chiếm 8,5%. Số lượng doanh nghiệp cho
rằng thương hiệu giúp cho sản phẩm bán được với giá cao chỉ chiếm tỷ trọng
rất nhỏ 6,5%.
Thứ ba, việc phát triển thương hiệu hiện nay đang là vấn đề được các doanh
nghiệp quan tâm hàng đầu. Tuy nhận thức về tầm quan trọng của thương hiệu
ở các doanh nghiệp ngày càng được nâng cao, bức tranh về hoạt động đầu tư
cho thương hiệu hàng hóa của các doanh nghiệp cũng không mấy khả quan.
Chi phí hàng năm các doanh nghiệp dành cho hoạt động đầu tư, xây dựng và
phát triển thương hiệu còn rất hạn chế. Số lượng doanh nghiệp đầu tư trên
15% doanh số chỉ chiếm 1,52%. Còn lại, đa phần các doanh nghiệp đầu tư từ 1
đến 5% doanh số cho các hoạt động liên quan đến thương hiệu.
Thứ tư, khi xây dựng và phát triển thương hiệu, các khó khăn mà doanh
nghiệp gặp phải chủ yếu là khó khăn về vốn, nạn vi phạm bản quyền và cơ chế
chính sách. Trong các yếu tố đó, theo đánh giá của doanh nghiệp thì khó khăn

lớn nhất về phía Nhà nước là luật pháp không nghiêm trong hoạt động bảo hộ
các doanh nghiệp, chống lại hiện tượng hàng giả, hàng nhái; các qui định được
ban hành chưa rõ ràng hay trói buộc làm mất thời gian và giảm khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Thứ năm, đối với hoạt động bảo hộ thương hiệu hàng hóa trên thị trường EU,
trên thị trường EU có hệ thống đăng ký bảo hộ thương hiệu hàng hóa cộng
đồng CTM. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu đăng ký bảo hộ
riêng lẻ trên từng thị trường quốc gia chứ chưa một thương hiệu nào được
đăng ký theo thống CTM. Và như vậy, doanh nghiệp không tận dụng được khả
năng bảo hộ cho thương hiệu hàng hóa trên toàn thị trường EU, kể cả EU mở
rộng. Hoạt động đăng ký bảo hộ thương hiệu trên thị trường các quốc gia
thành viên EU thông qua Thỏa ước Madrid cũng được các doanh nghiệp Việt
Nam quan tâm.
Hoạt động đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ cho thương hiệu hàng hóa ở khu vực
14
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


này cũng được các doanh nghiệp quan tâm nhưng số lượng thương hiệu đăng
ký bảo hộ vẫn còn hạn chế.
Thứ sáu, việc phát triển thương hiệu hàng hóa tại các doanh nghiệp cũng chưa
được đầu tư thỏa đáng. Để tiết kiệm chi phí đầu tư cho thương hiệu, nhiều
doanh nghiệp sử dụng một thương hiệu thống nhất cho tất cả các sản phẩm,
một số khác sử dụng thương hiệu tập thể cho các họ sản phẩm.
Theo điều tra của Câu lạc bộ hàng Việt Nam chất lượng cao, 80% số doanh
nghiệp tham gia điều tra không có chức danh về nghiên cứu, quản lý thương
hiệu hàng hóa; gần 25% cho rằng khó khăn lớn nhất trong xây dựng và phát
triển thương hiệu hàng hóa là vốn, tài chính; 14-16% cho là khó khăn về thủ
tục, chính sách cơ chế…
Tóm lại, để có được một thương hiệu hàng hóa mà nhiều người tiêu dùng biết

đến, các doanh nghiệp phải mất nhiều thời gian, chi phí tới hàng trăm nghìn,
thậm chí hàng triệu USD mỗi năm cho quảng bá thương hiệu. Việt Nam đã có
một số mặt hàng rất nổi tiếng nhưng do thờ ơ với thương hiệu nên đã bị một số
doanh nghiệp nước ngoài đăng ký. Một doanh nghiệp là chủ sở hữu tại một
nước, nhưng tại nước khác, thương hiệu đó có thể thuộc sở hữu của công ty
khác nếu doanh nghiệp sở hữu không đăng ký bảo hộ tại quốc gia đó. Như
vậy, càng thờ ơ với thương hiệu hàng hóa, nguy cơ mất thị trường xuất khẩu
càng cao.
Tiến sỹ Nguyễn Thanh Bình - Đại học Ngoại Thương

Chiếm tỷ lệ 70% trong tổng chi phí cho hoạt động marketing, quảng cáo có
thể được coi là linh hồn cho mỗi chiến dịch marketing của doanh nghiệp. Thị
trường quảng cáo trong nước, theo nhận định của giới chuyên môn, sẽ có
những thay đổi đáng kể sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO). Theo Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam (VAA), toàn bộ khoảng
3.000 doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm 20% thị phần quảng cáo trong khi
80% còn lại được nắm giữ bởi khoảng 30 công ty nước ngoài. Có thể chia con
số 3.000 oanh nghiệp nói trên thành ba loại. Loại thứ nhất, chỉ dừng lại ở con
số vài doanh nghiệp, là một số công ty chuyên nghiệp, có khả năng thực hiện
15
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


những hợp đồng trọn gói (full service). Loại thứ hai, với số lượng khoảng vài
chục, gồm những công ty chỉ chuyên về một lĩnh vực nhất định (quảng cáo
ngoài trời, quan hệ công chúng, tổ chức sự kiện...). Loại thứ ba nhiều nhất,
chủ yếu làm gia công lại (hộp đèn, bảng hiệu...) hoặc thuộc những lĩnh vực
phụ trợ cho quảng cáo (thiết kế, in ấn...).
Việc Việt Nam gia nhập WTO sắp tới sẽ khiến thị trường quảng cáo hấp dẫn
hơn. Theo cam kết tại Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, sau năm 2007 Việt

Nam phải mở cửa hoàn toàn ngành dịch vụ quảng cáo cho các nhà đầu tư Mỹ.
Điều đó cũng có nghĩa trong trường hợp Việt Nam gia nhập WTO việc mở
cửa nói trên cũng sẽ được áp dụng với tất cả các thành viên của WTO nếu
không có cam kết gì khác. Đến nay, hầu hết các công ty quảng cáo tầm cỡ
nước ngoài đều đã có mặt tại Việt Nam nên con đường hợp tác, liên kết với
nước ngoài sẽ là tất yếu của các công ty quảng cáo trong nước. Với việc hợp
tác này, các công ty Việt Nam sẽ học hỏi được những kinh nghiệm để cải thiện
năng lực và chất lượng dịch vụ của mình. Trong những năm gần đây, ngày
càng phổ biến và phát triển các loại hình quảng cáo, như các loại hình quảng
cáo “Below the line” (tổ chức sự kiện, quan hệ công chúng, gửi thư quảng
cáo,...), quảng cáo trực tuyến,... rất được các doanh nghiệp ưa chuộng vì tính
hiệu quả của nó. Đồng thời sự am hiểu về thị trường quốc tế của các đối tác
nước ngoài cũng đã góp phần làm tăng đáng kể cơ hội tiếp cận thị trường của
các sản phẩm xuất khẩu Việt Nam.
Kết luận
Khu vực dịch vụ nói chung và các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu nói riêng đã có sự
phát triển nhanh cả về nhu cầu của các doanh nghiệp, về số lượng cơ sở cung
cấp dịch vụ, cũng như mức độ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp.
Từ chỗ hầu như chỉ có số lượng ít ỏi các dịch vụ truyền thống, đến nay đã
hình thành một hệ thống các loại dịch vụ phục vụ và hỗ trợ xuất khẩu. Trước
đây, các doanh nghiệp nhà nước độc quyền kinh doanh các dịch vụ sản xuất
công nghiệp và hỗ trợ xuất khẩu, nhưng đến nay đã có sự tham gia cạnh tranh
của các thành phần kinh tế trong lĩnh vực này.
Để các doanh nghiệp Việt Nam đón được những cơ hội mở ra cho xuất khẩu
trong bối cảnh đất nước tiếp tục mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế trong thời
16
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu


gian tới, cần thúc đẩy phát triển và quản lý tốt hơn đối với các dịch vụ hỗ trợ

xuất khẩu. Cần tập trung khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu đầu tư xây dựng cơ sở trên địa bàn cả nước để
các doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng nhiều hơn các dịch vụ hỗ trợ tại chỗ,
nhằm tiết kiệm chi phí và thời gian của các doanh nghiệp địa phương khi sử
dụng dịch vụ. Về phía các doanh nghiệp cũng cần nhận thức rõ hơn vai trò của
việc chuyên môn hoá và sử dụng các dịch vụ chuyên nghiệp để hỗ trợ hoạt
động xuất nhập khẩu của mình. Tăng cường sử dụng những dịch vụ phù hợp
với doanh nghiệp, giảm tỷ lệ các dịch vụ doanh nghiệp tự làm để từ đó doanh
nghiệp có thể tập trung nguồn lực phát triển những thế mạnh riêng, nâng cao
chất lượng cạnh tranh của doanh nghiệp và của sản phẩm.
Tiềm năng phát triển các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu còn rất lớn. Và chắc chắn
đây là xu hướng tất yếu trong tương lai gần của nền kinh tế.

Tài liệu tham khảo:

17
CIEM _ Trung tâm Thông tin – Tư liệu



×