-1-
Nâng cao năng lực cạnh tranh dịch
vụ điện thoại di động của Công ty
Dịch vụ Viễn thông (Vinaphone) :
Luận văn ThS. Kinh doanh và
quản lý : 60 34 05 / Nguyễn Hà
Hạnh ; Nghd. : PGS.TS. Nguyễn
Xuân Quang
MỞ ĐẦU
Công ty Dịch vụ viễn thông (Vinaphone) là
doanh nghiệp trực thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn
thông Việt Nam (VNPT) (hiện đang chiếm thị phần
lớn thứ 3 – 21% trong việc cung cấp dịch vụ điện
thoại di động trên thị trường Việt Nam) cũng không
nằm ngoài những thách thức của thời mở cửa và hội
nhập kinh tế quốc tế. Trước bối cảnh đó, để tồn tại và
phát triển, Vinaphone cần phải tìm mọi biện pháp
nhằm giữ vững và phát triển thị trường. Một trong
những biện pháp quan trọng đó là nâng cao năng lực
cạnh tranh cho các sản phẩm, dịch vụ đang cung cấp trong đó, dịch vụ điện thoại di động là quan trọng và
chủ yếu nhất của Vinaphone. Với ý nghĩa như trên, đề
tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ điện
thoại di động của Công ty Dịch vụ viễn thông” được
lựa chọn nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ
-2-
ngành quản trị kinh doanh. Về kết cấu ngoài phần mở
đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về năng lực cạnh
tranh dịch vụ của doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ điện thoại di động: Kết quả nghiên cứu chương 1
thống nhất các khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh
tranh, dịch vụ điện thoại di động; vai trò của năng lực
cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh trong kinh
doanh dịch vụ điện thoại di động của doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ viễn thông, phân tích các yếu tố
cơ bản cấu thành năng lực cạnh tranh dịch vụ điện
thoại di động, các chỉ tiêu thường được sử dụng để
đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ điện thoại di động, phân
tích các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh
dịch vụ của doanh nghiệp; kinh nghiệm về cạnh tranh
và nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ của một số
doanh nghiệp viễn thông trên thế giới, bài học có thể
vận dụng đối với Vinaphone.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh
dịch vụ điện thoại di động của Công ty Dịch vụ
viễn thong (Vinaphone). Chương 2 nghiên cứu khái
quát quá trình xây dựng và phát triển Vinaphone; đặc
điểm kinh doanh và kết quả hoạt động kinh doanh của
Vinaphone, đánh giá tổng thể tình hình cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh của Vinaphone và giữa
-3-
Vinaphone với các đối thủ; phân tích đánh giá các
thành tố cơ bản cấu thành năng lực cạnh tranh dịch vụ
điện thoại di động của Vinaphone, phân tích các chỉ
tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh, điểm mạnh, điểm
yếu, cơ hội, thách thức, và các nguyên nhân cơ bản
tạo ra những tồn tại (điểm yếu) ảnh hưởng đến năng
lực cạnh tranh dịch vụ điện thoại di động của
Vinaphone
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh dịch vụ điện thoại di động của Công ty Dịch
vụ viễn thong (Vinaphone). Cơ sở của các biện pháp
bao gồm: Mục tiêu và phương hướng phát triển ngành
thông tin di động của Việt Nam trong thời gian (2010,
2020); Kế hoạch phát triển dịch vụ điện thoại di động
của Vinaphone. Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh tập trung vào: Nâng cao chất lượng dịch vụ, hạ
giá cước dịch vụ, hoàn thiện kênh phân phối., nâng
cao hiệu quả hoạt động xúc, tiến yểm trợ. Điều kiện
thực hiện các biện pháp: Về nhận thức, về tái cơ cấu
tổ chức quản lý và hoạt động cung cấp dịch vụ điện
thoại di động. Sự cố gắng nỗ lực của CB-CNV
Vinaphone.
Sau đây là kết quả nghiên cứu từng chương.
-4-
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH DỊCH VỤ CỦA DOANH NGHIỆP KINH
DOANH
DỊCH VỤ ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG
1.1. Năng lực cạnh tranh dịch vụ của các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ điện thoại di
động
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Cạnh tranh: Cạnh tranh là một hiện
tượng xã hội phức tạp, theo K. Marx: “Cạnh tranh là
sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản
nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu
ngạch”. Ngoài ra còn có nhiều khái niệm về cạnh
tranh dưới những góc độ khác nhau. Tóm lại cạnh
tranh được hiểu đơn giản là sự tranh đua giành giật
giữa các chủ thể có quan hệ với nhau, để đạt một vị trí
hay mục đích nào đó trong lĩnh vực mà họ tham gia.
1.1.1.2. Năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được phân
biệt ở 3 cấp độ: Năng lực cạnh tranh quốc gia, năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh
tranh của sản phẩm dịch vụ.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ
-5-
Năng lực cạnh tranh của SP-DV là khả năng SPDV đó bán được nhiều và nhanh chóng. Cho đến nay
các nhà kinh tế học chưa đưa ra một định nghĩa thống
nhất về năng lực cạnh tranh SP-DV, mà hầu như dựa
trên khái niệm về năng lực cạnh tranh của quốc gia,
của doanh nghiệp. Có ý kiến cho rằng: năng lực cạnh
tranh của SP- DV là sự vượt trội của nó so với SPDV cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng
một thị trường. Một ý kiến khác cho rằng: Năng lực
cạnh tranh của SP- DV chính là năng lực nắm giữ và
nâng cao thị phần SP–DV của doanh nghiệp.
1.1.1.3. Dịch vụ điện thoại di động
Một cách khái quát nhất có thể định nghĩa sơ bộ
dịch vụ điện thoại di động là một tập hợp các hoạt
động bao gồm các nhân tố không hiện hữu, tạo ra
chuỗi giá trị và mang lại lợi ích tổng hợp cho người sử
dụng, giúp người sử dụng liên lạc và kết nối với bạn
bè, cộng đồng và thế giới. Dịch vụ điện thoại di động
là một dịch vụ liên lạc, cũng như bản chất chung của
dịch vụ, nó được phân ra 2 mức:
- Dịch vụ cơ bản
- Dịch vụ giá trị gia tăng.
Đặc điểm của dịch vụ điện thoại di động
Đặc điểm thứ nhất: Dịch vụ viễn thông rất khác
với các sản phẩm của ngành sản phẩm công nghiệp,
nó không phải là một sản phẩm vật chất chế tạo mới,
-6-
không phải là hàng hoá cụ thể, mà là kết quả có ích
cuối cùng của quá trình truyền đưa tin tức dưới dạng
dịch vụ. Đặc điểm thứ hai: Đó là sự tách rời của quá
trình tiêu dùng và sản xuất dịch vụ viễn thông. Đặc
điểm thứ ba: Xuất phát từ truyền đưa tin tức rất đa
dạng, nó xuất hiện không đồng đều về không gian và
thời gian. Đặc điểm thứ tư: đó là sự khác biệt so với
ngành sản xuất công nghiệp, nơi mà đối tượng chịu sự
thay đổi vật chất (về mặt vật lý, hoá học,..), còn trong
sản xuất viễn thông, thông tin là đối tượng lao động
chỉ chịu tác động dời chỗ trong không gian. Đặc điểm
thứ năm: là quá trình truyền đưa tin tức luôn mang
tính hai chiều giữa người gửi và người nhận thông tin.
Đặc điểm thứ sáu: yếu tố “di động” và “bất thường”
của việc sử dụng dịch vụ điện thoại di động.
1.1.2. Vai trò của năng lực cạnh tranh và nâng
cao năng lực cạnh tranh trong kinh doanh dịch vụ
điện thoại di động của doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ viễn thông
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đặc
biệt khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO,
việc nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ điện thoại
di động của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn
thông là hết sức cần thiết.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là quy
luật tất yếu khách quan diễn ra gay gắt và khốc liệt,
-7-
nhưng không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế.
Những doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ điện thoại di
động làm ăn không hiệu quả, sử dụng lãng phí nguồn
lực xã hội được thay bằng những doanh nghiệp làm ăn
có hiệu quả hơn, đáp ứng nhu cầu xã hội, thúc đẩy nền
kinh tế quốc gia phát triển. Bên cạnh đó, với lộ trình
mở cửa viễn thông hiện nay và việc thực hiện các cam
kết sau khi gia nhập WTO của Chính phủ Việt Nam,
các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ điện thoại di
động sẽ phải đối mặt với cạnh tranh có yêu tố nước
ngoài sớm hơn và trên phạm vi rộng hơn. Trước mắt,
với lộ trình mở cửa của Hiệp định thương mại Việt
Nam – Hoa Kỳ, các công ty Hoa kỳ và các công ty
nước ngoài sẽ thâm nhập vào thị trường viễn thông
Việt Nam bằng nhiều cách như thành lập công ty liên
doanh, hoặc hợp tác kinh doanh với các nhà khai thác
viễn thông Việt Nam. Sau nữa, theo cam kết khi gia
nhập WTO, chính phủ Việt Nam sẽ phải cân nhắc
việc cho phép các doanh nghiệp nước ngoài tham gia
sâu hơn nữa vào thị trường viễn thông Việt Nam. Như
vậy doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông Việt
Nam sẽ vừa phải cạnh tranh với các nhà khai thác
viễn thông liên doanh, liên kết nước ngoài vừa phải
cạnh tranh với chính các nhà khai thác nước ngoài
trên lãnh thổ Việt Nam. Đây chính là sức ép rất lớn
buộc các doanh nghiệp phải không ngừng thay đổi
-8-
chiến lược kinh doanh cũng như phải nâng cao năng
lực cạnh tranh dịch vụ điện thoại di động của mình để
có thể đứng vững trong mội trường cạnh tranh ngày
càng khố liệt này
1.2. Các yếu tố cơ bản cấu thành năng lực
cạnh tranh dịch vụ điện thoại di động trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ viễn thông
1.2.1. Chất lượng dịch vụ
a. Chất lượng kỹ thuật dịch vụ:
Việc xây dựng và mở rộng phủ sóng là một trong
những công việc đầu tiên mà các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ điện thoại di động quan tâm và tập
trung đầu tư ngay từ ban đầu để nâng cao sức cạnh
tranh của dịch vụ mình cung cấp. Để đảm bảo chất
lượng kỹ thuật về dịch vụ, các doanh nghiệp cần đẩy
nhanh tốc độ đầu tư nâng cấp mạng lưới đạt với tiêu
chuẩn chung của khu vực và thế giới, xây dựng mạng
lưới thông tin di động sử dụng công nghệ hiện đại,
dung lượng lớn, tốc độ cao, phạm vi phủ sóng rộng,
độ khả dụng của mạng cao. Mục đích là cung cấp cho
khách hàng dịch vụ điện thoại di động có chất lượng
tốt nhất theo các tiêu chí: khả năng truy nhập dịch vụ,
tỷ lện rớt cuộc gọi, tỷ lệ thiết lập cuộc gọi thành công,
tỷ lệ lưu lượng nghẽn mạch, chất lượng thoại không
có nhiễu....
-9-
b. Chất lượng phục vụ khách hàng
Chất lượng phục vụ khách hàng thể hiện ở nhiều
khâu, từ các hoạt động trước bán hàng, hoạt động
cung cấp dịch vụ, và các dịch vụ sau bán hàng. Bên
cạnh yếu tố cạnh tranh về giá và khuyến mại, trong
tương lai chất lượng phục vụ khách hàng sẽ trở thành
công cụ chiến lược trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh
cho doanh nghiệp.
1.2.2. Chi phí và giá cả
Một dịch vụ nào đó có lợi thế cạnh tranh trước
hết phải có tính cạnh tranh về giá. Khi giá của dịch vụ
đó thấp hơn giá của dịch vụ cùng loại của các đối thủ
khác cung cấp ra thị trường, ta nói dịch vụ đó có lợi
thế cạnh tranh. Khi thị trường dịch vụ điện thoại di
động cạnh tranh sôi động hơn, giá cước sẽ tiếp tục
giảm xuống. Đối với khách hàng, giảm cước là tín
hiệu đáng mừng vì tăng khả năng được sử dụng dịch
vụ. Tuy nhiên, việc giảm cước sẽ ảnh hưởng đến
doanh thu. Việc thúc đẩy tăng thuê bao để bù đắp lại
phần doanh thu bị giảm do giảm cước có thể xảy ra
nhưng không phải là điều dễ dàng và xét theo tính
"động" của thị trường thì không phải với một dịch vụ
cùng loại, chất lượng tương đương, dịch vụ nào có giá
thấp hơn sẽ có tính cạnh tranh hơn. Người ta có thể
dùng các công cụ khác hỗ trợ như tặng quà khuyến
mãi, làm tốt công tác bảo hành thay vì hạ giá.
- 10 -
1.2.3. Hệ thống phân phối
Hệ thống phân phối ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng phát triển dịch vụ điện thoại di động. Doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ điện thoại thoại di động
nào có hệ thống phân phối càng rộng khắp, thuận tiện
và dễ tiếp cận thì dịch vụ của doanh nghiệp đó càng
có tính cạnh tranh cao hơn, khách hàng sẽ lựa chọn sử
dụng nhiều hơn.
Việc tận dụng đa dạng các kênh phân phối, sẽ
giúp doanh nghiệp cung cấp dịch vụ điện thoại di
động tới tất cả mọi người. Công tác bán hàng nhằm
vào việc đa dạng hóa các kênh phân phối để tối đa hóa
sự nhận biết của khách hàng về dịch vụ, từ đó có nhu
cầu phát triển thuê bao.
1.2.4. Hệ thống xúc tiến yểm trợ
Đây là một trong những tiêu chí thể hiện rõ nhất
năng lực cạnh tranh của SP-DV. Trong một xã hội
tiêu dùng, khi vòng đời SP-DV ngày càng ngắn lại,
khi sự cạnh tranh về chất lượng và giá cả được đẩy tới
mức "kẻ tám lạng, người nửa cân" thì hệ thống xúc
tiến yểm trợ (bao gồm quảng cáo, khuyến mãi và quan
hệ công chúng) sẽ là yếu tố mà người tiêu dùng
thường lựa chọn.
1.3. Các chỉ tiêu thường được sử dụng để
đánh giá trình độ năng lực cạnh tranh dịch vụ điện
- 11 -
thoại di động của doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ viễn thông
1.3.1. Các chỉ tiêu định lượng: Tăng trưởng số
thuê bao và thị phần, trạm phát sóng và tốc độ tăng
trạm phát sóng, sản lượng đàm thoại và tốc độ tăng
sản lượng đàm thoại, doanh thu và tốc độ tăng doanh
thu
1.3.2. Các chỉ tiêu định tính: Mức độ ưa thích,
mức độ hài lòng của khách hàng
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh dịch vụ của doanh nghiệp: Các nhân tố
quốc tế bao gồm: một là xu hướng phát triển và hội
nhập kinh tế quốc tế; Hai là đối thủ cạnh tranh quốc
tế; Ba là các nhân tố hỗ trợ khác như đặc tính truyền
thống, xã hội, môi trường văn hóa, ngôn ngữ; Các
nhân tố trong nước bao gồm: Một là chính trị; Hai
là kinh tế; Ba là trình độ khoa học và công nghệ; Bốn
là dân số; Năm là văn hóa, tâm lý-xã hội; Sáu là môi
trường ngành.
1.5. Kinh nghiệm về cạnh tranh và nâng cao
năng lực cạnh tranh dịch vụ của một số doanh
nghiệp viễn thông trên thế giới: Về kinh nghiệm:
Một là dù là “người đi trước, đi sau hay mới thành
lập” đều có cơ hội cạnh tranh thắng lợi nếu có chiến
lược kinh doanh đúng đắn; Hai là yếu tố quan trọng
để cạnh tranh thắng lợi là biết mình, biết người và
- 12 -
giá rẻ; Ba là đổi mới công nghệ phải phù hợp với
tính chất và quy mô kinh doanh; Bốn là tận dụng
triệt để ưu thế có sẵn và thương hiệu để khai thác tối
đa nguồn khách hàng; Năm là có ý tưởng đột phá,
có tầm nhìn tổng quát đón bắt nhu cầu tương lai,
sáng tạo ra sản phẩm mới, có đặc điểm riêng; Sáu là
quyết tâm chiếm lĩnh thị phần và mở rộng thị
trường; Bảy là kết hợp hài hòa các mục tiêu:
TRmax, TCmin, ∏max; Tám là việc nâng cao năng
lực cạnh tranh phải dựa vào “tri thức và nội lực của
doanh nghiệp”. Về bài học có thể vận dụng đối với
Vinaphone: Một là người chiến thắng là người
nhanh chân nhất trong việc hạ thấp chi phí và đưa
được nhiều tiện ích đến khách hàng; Hai là khách
hàng nào cũng thích giá rẻ, chất lượng cao; Ba là
động lực chính dẫn đến phát triển và sử dụng dịch
vụ mới là kết quả của sự tìm kiếm nhằm cắt giảm
chi phí; Bốn là quyết tâm chuyển hướng sản xuất
mặt hàng mới, cải tổ tận gốc; Năm là biết khơi dậy
lòng tự hào dân tộc; Sáu là điểm cốt lõi của thành
công là khách hàng.
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
DỊCH VỤ ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG CỦA CÔNG
TY DỊCH VỤ VIỄN THÔNG
- 13 -
2.1.Khái quát về Vinaphone
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của
Vinaphone
Tháng 6/1996 mạng Vinaphone chính thức được
khai trương, cung cấp bởi Công ty Thông tin viễn
thông, là một công ty 100% vốn đầu tư của VNPT, là
một đơn vị hạch toán phụ thuộc VNPT. Công ty cũng
sử dụng công nghệ GSM 900/1800 để cung cấp dịch
vụ điện thoại di động. Công ty dịch vụ viễn thông
quản lý và khai thác mạng Vinaphone với mô hình
hạch toán phụ thuộc hoàn toàn vào Tập đoàn Bưu
chính Viễn thông Việt Nam (VNPT). Trụ sở chính
của Vinaphone đóng tại 57A Huỳnh Thúc Kháng, Hà
Nội và có 3 trung tâm trực tiếp kinh doanh trực thuộc
tại Hà Nội, Đà Nẵng và Tp.HCM.
2.1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh và kết
quả kinh doanh của Vinaphone
2.1.2.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của
Vinaphone
Lĩnh vực hoạt động
Trước đây, ngoài dịch vụ điện thoại di động
Vinaphone còn kinh doanh dịch vụ nhắn tin và chịu
trách nhiệm triển khai hệ thống Cardphone Việt Nam.
Tuy nhiên sau một thời gian dịch vụ tin nhắn qua tổng
đài của Vinaphone không phát triển tốt nên chủ yếu
hiện nay là tập trung vào kinh doanh dịch vụ điện
- 14 -
thoại di động. Sau khi Vinaphone ra đời, do mạng phủ
sóng rộng hơn nên để thu hút được đông lượng khách
hàng sử dụng dịch vụ mặc dù chất lượng không được
tốt như mạng MobiFone. Số thuê bao mạng
Vinaphone phát triển rất nhanh qua các năm và nhanh
chóng vượt qua số thuê bao của mạng MobiFone.
Các dịch vụ Vinaphone cung cấp gồm: Dịch vụ
thuê bao trả sau (Vinaphone). Dịch vụ thuê bao trả
trước có VinaCard là loại hình thuê bao trả trước nạp
tiền vào tài khoản để sử dụng, có quy định thời hạn
gọi và nghe, VinaDaily (tương tự Mobi4U) là loại
hình thuê bao trả trước nạp tiền vào tài khoản để sử
dụng. VinaText (tương tự MobiPlay) là loại hình thuê
bao trả trước nạp tiền vào tài khoản để sử dụng, chỉ
được nhắn tin và có quy định thời hạn sử dụng tùy
thuộc vào mệnh giá tiền nạp. VinaXtra là dịch vụ trả
trước được thiết kế đặc biệt cho các đối tượng khách
hàng có nhu cầu sử dụng thông tin di động thường
xuyên nhưng muốn kiểm soát mức chi tiêu cước phí
của mình. Các dịch vụ giá trị gia tăng của Vinaphone
ngoài các dịch vụ giá trị gia tăng cơ bản mà các nhà
khai thác khác cũng đã triển khai cung cấp như
USSD, MMS, GPRS, Hộp thư thoại, Báo cuộc gọi
nhỡ, RingTune,... hiện nay Vinaphone đang triển khai
một số dịch vụ mới như chuyển vùng quốc tế cho
thuê bao trả trước, Location Base Service (cung cấp
- 15 -
dịch vụ theo vị trí của thuê bao), dịch vụ EDGE tại
các tỉnh và thành phố lớn. Ngoài ra, dịch vụ chuyển
vùng quốc tế của Vinaphone để triển khai được với
hơn 158 mạng tại 63 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
toàn thế giới và là mạng di động đầu tiên tại Việt Nam
triển khai dịch vụ GPRS, MMS chuyển vùng quốc tế.
Vinaphone đang tiến hành triển khai cung cấp rất
nhiều dịch vụ mới như: Dịch vụ nhạc chuông chờ cho
người gọi, dịch vụ chuyển vùng quốc tế cho thuê bao
trả trước, các ứng dụng về thương mại điện tử, dịch
vụ trả tiền mua hàng qua điện thoại di động, dịch vụ
theo vị trí của thuê bao như giao thông, thời tiết,... và
sẽ triển khai cung cấp dịch vụ EDGE tại các tỉnh,
thành phố lớn trên cả nước.
Các đối thủ cạnh tranh hiện tại
Cạnh tranh trong nội bộ VNPT (giữa Vinaphone
với Mobiphone)
Mặc dù Mobiphone và Vinaphone đều trực thuộc
VNPT nhưng do cùng kinh doanh dịch vụ điện thoại
di động nên vẫn có cạnh tranh. Hoạt động cạnh tranh
giữa Vinaphone và Mobiphone cụ thể như sau: Về
khả năng cung cấp dịch vụ, Mobiphone và
Vinaphone có năng lực ngang nhau nhất là các dịch
vụ gia tăng giá trị; Về chất lượng dịch vụ, chất lượng
liên lạc của Mobiphone rõ hơn và ít rớt cuộc gọi hơn;
Về giá cước dịch vụ, Mobiphone và Vinaphone đều
- 16 -
do Bộ Bưu chính - Viễn thông quy định và do VNPT
cụ thể hoá, điều này tạo ra một nguy cơ làm yếu năng
lực cạnh tranh của VNPT; Về mạng lưới tiếp cận
khách hàng, Vinaphone có mạng lưới tiếp cận khách
hàng rộng hơn Mobiphone vì Vinaphone được sự hỗ
trợ rất đắc lực của 64 bưu điện tỉnh thành phố trên
toàn quốc, nhưng chất lượng công tác chăm sóc khách
hàng của Mobiphone tốt hơn; Về công tác Marketing,
hoạt động Marketing của Mobiphone và Vinaphone
hiệu quả chưa cao; Về mạng lưới thông tin,
Mobiphone chưa theo kịp Vinaphone về quy mô
mạng lưới;
Cạnh tranh với các đối thủ ngoài VNPT
Công ty Cổ phần Dịch vụ Bưu chính Viễn
thông Sài gòn (SPT): SPT là công ty cổ phần nhà
nước được thành lập từ năm 1996, chủ đầu tư chủ yếu
là UBND thành phố HCM, trong đó VNPT có 18%
tổng cổ phần. SPT chính thức khai trương mạng thông
tin di động công nghệ CDMA lấy thương hiệu là SFone vào tháng 7/2003. SPT tính cước theo block 10
giây. Năm 2005 SPT đạt 450.000 thuê bao; cuối năm
2006 đạt 870.000 thuê bao thực (1.300.000), và hy
vọng sẽ đạt 4-5 triệu thuê bao vào năm 2010. Hiện
nay, SPT kém hơn Vinaphone vì nhiều lý do như:
Mạng CDMA phủ sóng chưa rộng; thiết bị cầm tay
công nghệ CDMA còn ít chủng loại, chưa phong phú.
- 17 -
Mặc dù, SPT có đột phá trong lĩnh vực tính cước theo
block nhưng vẫn chưa thật sự khác biệt so với
Vinaphone và thậm chí có dịch vụ cước còn cao hơn.
Tổng công ty Viễn thông Quân đội (Viettel):
Viettel là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Quốc
phòng, được thành lập từ năm 1996, đến năm 1998
được Tổng cục Bưu điện (nay là Bộ Bưu chính Viễn
thông) cấp phép thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ
điện thoại di động mặt đất, Viettel sử dụng công nghệ
GSM, tuy mới gia nhập thị trường nhưng việc xây
dựng thương hiệu cho dịch vụ điện thoại di động của
Viettel khá hiệu quả. Ngoài ra, Viettel có sự linh hoạt
trong các quyết định kinh doanh, Viettel được hưởng
chính sách ưu đãi của Chính phủ khuyến khích các
nhà khai thác mới do thị phần nhỏ (năm 2006 chiếm
20,8%). Hiện nay Viettel đã phủ sóng tại 63/63 tỉnh
thành phố trên cả nước và đã vươn lên là doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ điện thoại di động chiếm
thị phần lớn nhất (năm 2008 chiếm 38% thị phần).
Trong giai đoạn tới, Viettel sẽ vẫn là đối thủ cạnh
- 18 -
tranh ngang tầm ngang sức với Mobiphone và
Vinaphone.
Công ty Viễn thông Điện lực (EVN telecom):
EVN telecom là doanh nghiệp nhà nước và là đơn vị
thành viên hạch toán độc lập, trực thuộc Tổng công ty
Điện lực Việt Nam, EVN telecom được thành lập năm
2002. Tháng 2/2006, EVN telecom chính thức cung
cấp dịch vụ điện thoại di động công nghệ CDMA.
EVN telecom đang tiến hành lắp đặt hệ thống truyền
dẫn cáp quang tại 60 tỉnh thành phố, hiện có 570 trạm
BTS để triển khai dịch vụ vô tuyến cố định và di động
mặt đất. Do mới tham gia thị trường nên mục tiêu của
EVN telecom là chiếm lĩnh thị phần, phấn đấu
TRmax. Dự kiến năm 2010 đạt khoảng 5 triệu thuê
bao.
Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Các đối thủ tiềm ẩn ở trong nước
Hanoi Telecom (nay là Vietnamobile) thành
lập từ năm 2001. Cuối tháng 4/2003, được cấp phép
cung cấp dịch vụ điện thoại di động công nghệ
CDMA, Vào tháng 3 năm 2009, công ty đã được
chính phủ chính thức cấp phép cung cấp dịch vụ GSM
trên toàn quốc. Vietnamobile là tên thương hiệu mạng
GSM mà Công ty cùng với đối tác Hutchison
Telecom của mình đang triển khai. Kế hoạch của
Vietnamobile là cung cấp các dịch vụ như: dịch vụ
- 19 -
điện thoại di động trong nước và roaming; dịch vụ
điện thoại di động thẻ trả trước; điện thoại không dây
cố định; di động dùng riêng; dịch vụ truyền số liệu...
trên phạm vi toàn quốc.. Do vậy, Hanoi Telecom
không thể so sánh được với Vinaphone về mọi mặt.
Đến năm 2010 Hanoi telecom sẽ đạt khoảng hơn 1
triệu thuê bao. Vishipel là đơn vị thành viên trực
thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam thành lập từ
năm 1993. Năm 2000, được phép thiết lập Đài Vệ tinh
Mặt đất và cung cấp dịch vụ thông tin Inmarsat, đến
nay (2007) Vishipel chưa được cấp phép cung cấp
dịch vụ điện thoại di động. Gtel: Mới đây Chính phủ
đã đồng ý cho Bộ Công an được thành lập Tổng công
ty viễn thông Toàn cầu (Gtel). Tháng 10 năm 2008,
Gtel Mobile vừa chính thức nhận giấy phép từ Cục
Tần số Vô tuyến điện (Bộ Thông tin và Truyền thông)
sử dụng băng tần 1800 MHZ cho công nghệ GSM.
Các đối thủ tiềm ẩn ở ngước ngoài. Theo lộ
trình Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, giai đoạn
2005 - 2010, và cam kết giữa Việt Nam và WTO về
viễn thông từ năm 2008 sẽ xuất hiện của các đối thủ
nước ngoài có kinh nghiệm kinh doanh lâu đời trên thị
trường quốc tế như AT&T, Qualcom… trong giai
đoạn đầu, các Liên doanh nước ngoài không được xây
dựng mạng đường trục, mà phải thuê lại từ các doanh
nghiệp viễn thông của Việt Nam. Nhưng một ưu thế là
- 20 -
họ sẽ tận dụng được mạng lưới, thuê bao sẵn có của
các doanh nghiệp Viễn thông Việt Nam, nên tiết kiệm
được chi phí đầu tư, hạ giá thành để cạnh tranh, tình
trạng “sống trên lưng” các doanh nghiệp viễn thông
Việt Nam có thể “tái hiện”
2.1.2.2. Khái quát kết quả hoạt động kinh
doanh của Vinaphone
Trong giai đoạn 1996-2008, Vinaphone đã thực
sự là một trong những doanh nghiệp đi đầu trong việc
xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thông tin cho đất
nước, đóng góp cho ngân sách Nhà nước, góp phần
tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia. Năm
2008, mặc dù có sự cạnh tranh quyết liệt từ các đối
thủ cạnh tranh, Vinaphone vẫn đạt được kết quả thể
hiện trên các mặt chủ yếu sau:
- Vinaphone đã khẳng định vai trò chủ đạo kinh
doanh dịch vụ điện thoại di động, đảm bảo liên lạc an
ninh quốc phòng, nâng cao dân trí và bảo vệ chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.
Năm 2008, Vianphone thực hiện các chỉ tiêu
kinh tế đều vượt kế hoạch và tăng trưởng so với năm
2007.
2.2. Năng lực cạnh tranh dịch vụ điện thoại di
động của Vinaphone
- 21 -
2.2.1. Đánh giá tổng thể năng lực canh tranh
dịch vụ điện thoại di động của Vinaphone so với
các đối thủ
- Những điểm mạnh của các đối thủ cạnh tranh
so với Vinaphone: Đại bộ phận có lợi thế của người đi
sau (trừ Mobiphone) và sử dụng công nghệ cao hơn
(CDMA) (trừ Mobiphone và Viettel); 100% đối thủ
hạch toán độc lập (có động lực của chủ sở hữu), được
ưu đãi về chính sách giá cước (trừ Mobiphone).
- Những điểm yếu của các đối thủ là: quy mô
mạng lưới hẹp hơn, ít dịch vụ giá trị gia tăng hơn (trừ
Mobiphone), roaming mạng hạn chế hơn, hiệu ứng
ngoại sai ít hơn, chất lượng mạng và dịch vụ thấp hơn
(trừ VMS), kênh truyền dẫn bị lệ thuộc.
2.2.2. Phân tích đánh giá các thành tố cơ bản
cấu thành năng lực cạnh tranh dịch vụ điện thoại
di dộng của Vinaphone
Những điểm mạnh, điểm mạnh nổi trội là doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ điện thoại di động hàng đầu
ở Việt Nam, được thừa kế uy tín và sự hậu thuẫn của
VNPT về tiềm lực tài chính, rủi ro kinh doanh thấp;
có mạng lưới rộng, sử dụng công nghệ phù hợp và
kênh phân phối lớn nhất, có chất lượng dịch vụ và
phục vụ cao.
Về điểm yếu: điểm yếu lớn nhất của Vinaphone
là giá cước, đây là “điểm trừ” năng lực cạnh tranh.
- 22 -
Mặt khác chưa có động lực chủ sở hữu, phải tiến hành
đồng thời 2 nhiệm vụ vừa phục vụ vừa kinh doanh.
Bên cạnh đó, các hoạt động xúc tiến thực hiện còn
đơn giản thiếu chiều sâu, chưa có chiến lược chung và
bộ phận chuyên trách, việc phục vụ khách hàng chưa
được thực hiện một cách triệt để, chưa theo phương
châm “khách hàng là thượng đế”. Công tác chăm sóc
khách hàng đôi khi còn mang tính hình thức.
2.3. Phân tích các chỉ tiêu đánh giá năng lực
cạnh tranh dịch vụ điện thoại di động của công ty
dịch vụ viễn thông
2.3.1. Tốc độ tăng trưởng thuê bao:
Số thuê bao điện thoại di động của Vinaphone
trong thời gian qua có tăng trưởng liên tục nhưng thị
phần bị giảm đi đáng kể.
2.3.2. Doanh thu và tốc độ tăng doanh thu
Số liệu thống kê cho thấy doanh thu của
Vinaphone có sự phát triển đột phá trong năm 2004,
năm bắt đầu sự cạnh tranh khốc liệt và cũng là năm
đánh dấu cho một xu thế xuống dốc trong kinh doanh
của Vinaphone.
2.3.3. Trạm phát sóng và tốc độ tăng trạm phát
sóng
Vinaphone là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước
và dựa vào hệ thống Bưu điện các tỉnh thành nên việc
phát triển mạng lưới trên toàn quốc trong thời gian
- 23 -
đầu gặp rất nhiều thuận lợi. Tranh thủ thế mạnh này,
Vinaphone mặc dù tham gia thị trường sau MobiFone
nhưng đã sớm vượt qua MobiFone về vùng phủ sóng
dịch vụ.
2.3.4. Mức độ yêu thích và sự hài lòng của
khách hàng
Trái với MobiFone, dữ liệu trong điều tra của
Công ty Indochina Research cho thấy mức độ ưa thích
và sự hài lòng của khách hàng đối với Vinaphone
giảm mạnh trong vòng 2 năm qua. Cũng trong cuộc
bình chọn cho Mạng điện thoại di động được yêu
thích nhất trong hai năm này, Vinaphone không nhận
được sự bình chọn và ủng hộ của khách hàng.
2.4. Phân tích và đánh gíá các nhân tố ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh dịch vụ điện thoại
di động của Vinaphone
Về Môi trường quốc tế: Thứ nhất, xu hướng tự
do hoá thị trường viễn thông; Thứ hai, xu hướng toàn
cầu hoá; Thứ ba, xu hướng cá nhân hoá và di động;
Thứ tư, xu hướng phát triển công nghệ thông tin di
động; Thứ năm, xu hướng phát triển các dịch vụ thông
tin đa phương tiện; Thứ sáu, xu hướng liên kết điện
thoại di động và Internet. Về môi trường kinh tế quốc
dân bao gồm: Yếu tố kinh tế, Yếu tố văn hoá xã hội,
Yếu tố dân số, Yếu tố chính sách pháp lý và định
hướng của Nhà nước
- 24 -
2.5. Nguyên nhân cơ bản tạo ra những tồn tại
(điểm yếu) ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
dịch vụ điện thoại di động của Vinaphone
Một là Tự hài lòng với thành công, Hai là Chưa
coi trọng đối thủ cạnh tranh, Ba là Công tác kế hoạch
chưa được đổi mới trong bình diện so sánh, Bốn là
Nhận thức của cán bộ, nhân viên về tình hình cạnh
tranh trên thị trường chưa đầy đủ, Năm là Nguồn lực
còn hạn chế, Sáu là Cơ chế (hành lang pháp lý) chưa
hoàn thiện và đầy đủ, Bảy là Chất lượng quản trị nhân
lực chưa cao.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH DỊCH VỤ ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG
CỦA CÔNG TY DỊCH VỤ VIỄN THÔNG
3.1. Mục tiêu và phương hướng phát triển
ngành thông tin di động Việt Nam trong giai đoạn
tới
3.1.1. Mục tiêu phát triển ngành thông tin di
động đến năm 2010, 2020
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
điện thoại di động, mục tiêu phải tiếp tục phát triển
các mạng thông tin di động thế hệ thứ 2, mở rộng
cung cấp dịch vụ viễn thông di động để nhanh chóng
- 25 -
nâng cao mật độ người sử dụng dịch vụ viễn thông và
ưu tiên phát triển mạng thông tin di động thế hệ thứ 3
dựa trên 2 chuẩn giao diện vô tuyến chính là WCDMA và CDMA2000. Nghiên cứu, xây dựng các
phương án phát triển thông tin di động thế hệ thứ 4
cho giai đoạn sau 2010.
3.1.2. Phương hướng phát triển ngành thông
tin di động đến năm 2010, 2020.
Phương hướng phát triển gồm các nội dung:
- Phát triển mạng viễn thông đồng bộ với sự phát
triển kinh tế xã hội ở các vùng kinh tế trọng điểm và
quy hoạch các ngành khác. Phát huy mọi nguồn nội
lực của đất nước kết hợp với hợp tác quốc tế hiệu quả
để mở rộng, phát triển thị trường. Thiết lập thị trường
cạnh tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế
tham gia thị trường dịch vụ viễn thông và Internet.
Đến năm 2010, thị phần của các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần không thuộc loại hình doanh nghiệp
Nhà nước đạt khoảng 40-50%.
- Tầm nhìn năm 2020: Ngành thông tin di động
Việt Nam đến năm 2020 sẽ trở thành nơi hội tụ công
nghệ tiên tiến ngang bằng các nước phát triển trên thế
giới, không chỉ cung cấp một dịch vụ chất lượng cho
khách hàng mà còn cung cấp một môi trường công
nghệ di động mới, giúp khách hàng thoải mái và tự tin