TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
======
DƯƠNG THỊ HỒNG NHUNG
TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG QUÂN ĐỘI
ĐÀNG TRONG THẾ KỈ XVII-XVIII
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
HÀ NỘI, 2016
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu khóa luận này em gặp rất nhiều
khó khăn và bỡ ngỡ. Nhưng dưới sự chỉ bảo tận tình của Giảng viên Nguyễn
Văn Nam, em đã từng bước tiến hành và hoàn thành khóa luận với đề tài “Tổ
chức lực lượng quân đội Đàng trong thế kỉ XVII-XVIII”. Em xin chân thành
cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy.
Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong khoa
Lịch Sử , các thầy cô trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều
kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, 4 tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Dương Thị Hồng Nhung
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận của em được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy giáo
Giảng viên Nguyễn Văn Nam cùng với sự cố gắng của bản thân. Trong quá
trình nghiên cứu em có tham khảo một số tài liệu của một số tác giả (đã nêu
trong mục tài liệu tham khảo).
Em xin cam đoan những kết quả trong khóa luận này là kết quả nghiên
cứu của bản thân không trùng lập với bất kì kết quả nào khác.
Hà Nội, 4 tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Dương Thị Hồng Nhung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................................. 4
3.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 4
3.3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 4
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................. 5
4.1. Nguồn tư liệu.............................................................................................. 5
4.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 5
5. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 6
6. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 6
Chương 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH LỰC LƯỢNG QUÂN ĐỘI
ĐÀNG TRONG THẾ KỈ XVII – XVIII ........................................................... 7
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐÀNG TRONG ........ 7
1.1.1. Cơ sở hình thành ..................................................................................... 7
1.1.1.1. Sự phân liệt Nam – Bắc triều .............................................................. 7
1.1.1.2. Mâu thuẫn Trịnh – Nguyễn và Nguyễn Hoàng bắt đầu dựng nghiệp ở
Thuận Quảng ..................................................................................................... 7
1.1.2. Quá trình hình thành.............................................................................. 10
1.2. CHÍNH TRỊ - KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐÀNG TRONG THẾ KỈ XVII
–XVIII ............................................................................................................. 13
1.2.1. Chính trị................................................................................................. 13
1.2.1.1. Tổ chức chính quyền .......................................................................... 13
1.2.1.2. Ngoại giao và quá trình mở rộng lãnh thổ ........................................ 18
1.2.2. Kinh tế - Xã hội ..................................................................................... 19
Chương 2. TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG QUÂN ĐỘI ĐÀNG TRONG THẾ KỈ
XVII- XVIII .................................................................................................... 24
2.1. TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI ĐÀNG TRONG THẾ KỈ XVII- XVIII ............ 24
2.1.1.Tổ chức ................................................................................................... 24
2.1.1.1. Quân túc vệ ........................................................................................ 24
2.1.1.2. Quân chính quy .................................................................................. 27
2.1.1.3. Quân địa phương ................................................................................ 27
2.1.2. Binh chủng ........................................................................................... 28
2.1.2.1 Pháo binh ............................................................................................. 31
2.1.2.2 Thủy binh ............................................................................................ 32
2.1.2.3 Tượng cơ ............................................................................................. 37
2.2. CHẾ ĐỘ TUYỂN MỘ VÀ ĐỜI SỐNG BINH LÍNH ............................. 38
2.2.1 Mộ Lính .................................................................................................. 38
2.2.2 Đời sống binh lính .................................................................................. 39
2.2.2.1 Luyện tập và thao diễn ........................................................................ 39
2.2.2.2 Đời sống .............................................................................................. 40
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 42
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG QUÂN ĐỘI .... 44
ĐÀNG TRONG THẾ KỈ XVII- XVII ............................................................ 44
3.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA LỰC LƯỢNG QUÂN ĐỘI ĐÀNG TRONG THẾ KỈ
XVII- XVIII .................................................................................................... 44
3.1.1. Thành phần binh lính chủ yếu là nông dân nghèo khổ ......................... 44
3.1.2. Thủy binh là lực lượng mạnh nhất trong quân đội chúa Nguyễn ......... 46
3.1.3. Lực lượng quân đội Đàng trong hoàn chỉnh và phát triển mạnh nhất thế
kỉ XVII – XVIII............................................................................................... 50
3.1.4. Hạn chế của lực lượng quân đội Đàng Trong ....................................... 53
3.2. VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG QUÂN ĐỘI ĐÀNG TRONG THẾ KỈ
XVII - XVIII ................................................................................................... 55
3.2.1. Bảo đảm an ninh lãnh thổ và chống lại các cuộc tấn công từ bên ngoài
......................................................................................................................... 56
3.2.2. Phát triển kinh tế và mở rộng lãnh thổ .................................................. 60
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 67
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI, những biến động chính trị lớn đã dẫn
tới sự sụp đổ của triều Lê sơ. Các cuộc chiến tranh giành quyền lực của các
thế lực phong kiến Trịnh – Mạc, Trịnh – Nguyễn diễn ra suốt một thế kỉ sau
đó đã làm suy yếu nhà nước phong kiến Đại Việt. Đất nước bị chia cắt thành
Đàng Trong và Đàng Ngoài nhưng kinh tế, văn hóa- xã hội của đất nước phát
triển mạnh. Ở Đàng Trong, thực hiện lời di huấn của chúa tiên Nguyễn
Hoàng, các đời chúa kế vị: Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635), Nguyễn
Phúc Lan (1635 - 1648), Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687), Nguyễn Phúc Trăn
(1687 - 1691), Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725), Nguyễn Phúc Chú (1725 1738), Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) đều cố gắng ổn định chính trị, phát
triển kinh tế, bảo vệ cơ nghiệp và không ngừng mở rộng lãnh thổ về phía
Nam. Song song với việc phát triển một nền kinh tế hướng biển, chính quyền
Đàng Trong rất chú trọng đến việc xây dựng lực lượng quân đội đông và
mạnh.
Tổ chức quân đội Để đương đầu với họ Trịnh ở phía Bắc, ngăn chặn các
hành động quân sự xâm lấn lãnh thổ của Chiêm Thành ở phía Nam, âm mưu
bành trướng về phía Đông của Xiêm và mở mang bờ cõi về phía Nam, thực
hiện nhiều biện pháp nhằm chiêu dụ cư dân vào vùng Thuận Hóa sinh sống,
chú trọng phát triển nông nghiệp, chính quyền chúa Nguyễn đã xây dựng một
thể chế mang đậm tính quân sự, lấy quân đội làm chỗ dựa, ưu tiên việc binh
và thường xuyên tổ chức một lực lượng quân đội mạnh. Chính quyền Đàng
Trong được tổ chức mang đậm màu sắc quân sự, đặc biệt vào thế kỉ XVII.
Nghiên cứu đề tài không chỉ thấy được những điều kiện hình thành tổ
chức quân đội ở Đàng Trong thế kỉ XVII – XVIII, mà còn thấy được tổ chức
cũng như đặc điểm, vai trò của lực lượng quân đội Đàng Trong trong giai
1
đoạn này. Đối với vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng xứ Đàng
Trong ly thoát với Đàng Ngoài. Lực lượng quân đội đóng vai trò quan trọng
đối với sự hưng thịnh của Xứ Đàng Trong, sức mạnh của lực lượng quân sự
đủ giúp chính quyền Đàng Trong đủ sức đương đầu với thế lực họ Trịnh ở
Đàng Ngoài mà còn tạo thế đứng vững chắc cho chính quyền Đàng Trong với
các nước lân bang trong bối cảnh khu vực có nhiều biến động.
Nghiên cứu tổ chức lực lượng quân đội Đàng Trong đã góp phần rút ra
những kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng quân đội đất nước hiện nay.
Với ý nghĩa lí luận và thực tiễn như trên, tác giả đã quyết định chọn vấn
đề: “Tổ chức lực lượng quân đội Đàng Trong thế kỉ XVII – XVIII” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lực lượng quân đội Đàng Trong là một chủ đề thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
Đáng chú ý là cuốn sách: “Xứ Đàng Trong - lịch sử kinh tế, xã hội Việt
Nam thế kỉ 17 và 18”, của Li Tana do Nguyễn Nghị dịch, NXB Trẻ. Đã khái
quát lịch sử hình thành và sự phát triển của kinh tế - xã hội của “Vùng đất
mới”, trong đó có đề cập tới vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang để củng cố
và bảo vệ chính quyền Đàng Trong trước sự đánh chiếm của các thế lực Đàng
Ngoài.
Hay cuốn sách: “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX”, Nxb
Khoa học xã hội của tác giả Đào Duy Anh (2013), cuốn: “Lịch sử Việt
Nam(tập II)”, Nxb Giáo dục của Phan Huy Lê cũng đã dành một chương để
viết về Nước Đại Việt thời Trịnh –Nguyễn, trong mục tổ chức chính quyền ở
Đàng Trong có đề cập tới lực lượng quân đội nhưng chỉ đề cập một cách khái
quát và không đi sâu trình bày vấn đề này.
2
Ngoài ra vấn đề này còn được đề cập đến trong các tác phẩm như: “Việt
sử xứ Đàng Trong” của Phan Khoang, “Đại cương lịch sử Việt Nam” (tập 1)
do Trương Hữu Quýnh(chủ biên), “Giáo trình lịch sử Việt Nam”(tập 3) do
Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên). Các tác phẩm này hầu hết trình bày về cách
thức tổ chức bộ máy chính quyền, hoạt động kinh tế của Đàng Trong và Đàng
Ngoài chứ không tập trung sâu vào nghiên cứu tổ chức lực lượng quân đội
Đàng Trong.
Đặc biệt bài viết trên tạp chí của Đỗ Văn Ninh (1993), “Quân đội nhà
Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử , đã nói về hình thành lực lượng quân
sự thời các chúa Nguyễn cho tới triều Nguyễn sau này nhưng cũng chưa
nghiên cứu sâu về tổ chức cũng như đặc điểm và vai trò của lực lượng quân
đội Đàng Trong.
Bên cạnh đó, còn có một số bài báo, tập chí nghiên cứu về xứ Đàng
Trong như: Tạp chí khoa học, ( số 63), ĐH SPHCM năm 2004 tác giả Trịnh
Ngọc Thiện có bài viết :“Tìm hiểu Tổ chức quân đội Việt Nam thời kì chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn(tù cuối thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XIX)”.
Trong đó tác giả có đề cập tới tổ chức quân đội thời các chúa Nguyễn nhưng
không nghiên cứu sâu về điều kiện hình thành cũng như đặc điểm và và vai
trò của lực lượng quân đội.
Hay bài viết: “ Xứ Đàng Trong trong các mối quan hệ và tương tác
quyền lực khu vực” của tác giả Nguyễn Văn Kim,Tạp chí nghiên cứu lịch sử,
số 6(363). Tác giả trình bày mối quan hệ về chính trị- kinh tế - xã hội của xứ
Đàng Trong đối với các nước khác trong khu vực, có đề cập tới việc sử dụng
thủy quân của Đàng Trong. Tuy nhiên, tác giả không nghiên cứu sâu về tổ
chức về lực lượng quân đội này.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lực lực quân đội Đàng
Trong trên nhiều khía cạnh khác nhau, mà chưa có công trình nào nghiên cứu
3
chuyên sâu cũng như đề cập đầy đủ có hệ thống về vấn đề này. Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu trên là tư liệu quý báu mà tác giả kế thừa khi
nghiên cứu đề tài của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ Nghiên cứu về điều kiện hình thành, tổ chức, đặc điểm và vai
trò của lực lượng quân đội Đàng Trong, đề tài giúp chúng ta thấy được vai trò
của nó đối với sự tồn tại và phát triển của vùng đất mới. Đồng thời, giúp
chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm về tổ chức lực lượng quân đội cho
việc xây dựng quân đội giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, khóa luận cần thực hiện
những nhiệm vụ cơ bản sau:
Làm rõ được những điều kiện hình thành lực lượng quân đội ở Đàng
Trong thế kỉ XVII- XVIII.
Trình bày về tổ chức lực lượng quân đội Đàng Trong thế kỉ XVII –
XVIII.
Kết luận cần chỉ ra đặc điểm và vai trò của lực lượng quân đội Đàng
Trong thế kỉ XVII – XVIII.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu điều kiện hình thành
lực lượng quân đội, tổ chức, đặc điểm và vai trò của lực lượng quân đội Đàng
Trong trên phạm vi lãnh thổ Đàng Trong trong thế kỉ XVI- XVII.
Về thời gian: Tập trung nghiên cứu vào khoảng thời gian từ khi Đàng
Ngoài, Đàng Trong chính thức trở thành hai thể chế chính trị riêng biêt, đối
lập nhau bắt đầu từ năm 1672 và về cơ bản kết thúc vào năm 1788.
4
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Khóa luận được thực hiện dựa trên những nguồn tài liệu chủ yếu sau:
Tư liệu trong thư tịch cổ Việt Nam như: Đại Nam thực lục, Phủ biên
tạp lục. Đại Việt sử kí tục biên.
Bài viết trong các tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu và phát triển,
khoa học, khoa học – công nghệ của tác giả liên quan đến nội dung đề tài
nghiên cứu.
Công trình nghiên cứu trong các Hội thảo khoa học nghiên cứu liên
quan đến lực lượng quân đội Đàng Trong như: Kỉ yếu hội thảo chúa Nguyễn
và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX.
Đề tài còn tham khảo từ một số cuốn sách của các tác giả, nhà sử học
như: “ Xứ Đàng Trong, lịch sử - kinh tế- xã hội thế kỉ XVII – XVIII” của
LiTaNa, “ Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX” của Đào Duy Anh,
“Việt sử xứ Đàng Trong 1558- 1777” của Phan Khoang.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận vận dung phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, để xem xét đánh giá các sự kiện lịch sử trong quá trình tổ chức lực
lượng quân đội ở Đàng Trong thế kỉ XVII – XVIII.
Phương pháp chủ yếu tác giả sử dụng trong khóa luận là kết hợp
phương pháp lịch sử và phương pháp logic trong đó phương pháp lịch sử là
chủ yếu.
Để xử lí các tư liệu, khóa luận đã sử dụng phương pháp so sánh, xử lí
tài liệu, đối chiếu với các nguồn tư liệu khác nhau đã sưu tầm được.
5
5. Đóng góp của đề tài
Trên tinh thần trân trọng và kế thừa giá trị của các tác giả đi trước, đề
tài khóa luận “Tổ chức lực lượng quân đội Đàng Trong thế kỉ XVII – XVIII”
góp phần:
Lần đầu tiên công trình nghiên cứu trên cơ sở thu thập, xử lí các nguồn
tư liệu có liên quan tới đề tài. Tác giả đã dựng lại một cách có hệ thống quá
trình hình thành tổ chức của lực lượng quân đội ở Đàng Trong trong thời kì trị
vì của các chúa Nguyễn.
Thông qua nghiên cứu tổ chức lực lượng quân đội Đàng Trong, tác giả
rút ra được những đặc điểm và vai trò của lực lượng quân đội Đàng Trong đối
với chính quyền các chúa Nguyễn và vùng đất mới này.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài tác giả rút ra được những kinh
nghiệm, về tổ chức quân đội ở Đàng Trong thế kỉ XVII – XVIII còn có ý
nghĩa trong việc xây dựng quân đội giai đoạn hiện nay.
Công trình nghiên cứu là nguồn tư liệu quý báu, bổ ích cho những ai
muốn nghiên cứu tìm hiểu về tổ chức chính quyền Đàng Trog và là nguồn tư
liệu tham khảo hữu ích để học tốt lịch sử giai đoạn Việt Nam cổ trung đại.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài
bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những điều kiện hình thành lực lượng quân đội Đàng Trong
thế kỉ XVII –XVIII.
Chương 2: Tổ chức lực lượng quân đội Đàng Trong thế kỉ XVII-XVIII.
Chương 3: Đặc điểm và vai trò của lực lượng quân đội Đàng trong thế
kỉ XVII –XVIII.
6
Chương 1
NHỮNG ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH LỰC LƯỢNG QUÂN ĐỘI ĐÀNG
TRONG THẾ KỈ XVII – XVIII
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐÀNG TRONG
1.1.1. Cơ sở hình thành
1.1.1.1. Sự phân liệt Nam – Bắc triều
Triều đình nhà Lê càng suy yếu thì sự tranh chấp giữa các phe phái
thống trị càng diễn ra quyết liệt . Dưới triều Chiêu Tông (1516 – 1526),cuộc
tranh chấp lúc đầu diễn ra chủ yếu giữa hai phái quân phiệt do Trịnh Tuy và
Nguyễn Hoàng Dụ cầm đầu với những cuộc xung đột xảy ra giữa thành
Thăng Long. Trong cuộc tranh giành hỗn loạn xuất hiện hai phe phái mới do
Mạc Đăng Dung cầm đầu. Mạc Đăng Dung tìm cách tiêu diệt dần các thế lực
độc lập và tập trung quyền lực về tay mình. Năm 1521 thì nắm mọi quyền
binh trong triều nhà Lê. Năm 1527 Đăng Dung lập ra triều Mạc.
Như vậy là sau khi triều Lê sụp đổ, cuộc tranh giành giữa các phe phái
dẫn đến sự thiết lập hai chính quyền thù địch : chính quyền họ Mạc ở Bắc Bộ,
chính quyền nhà Lê ở Thanh Hóa trở vào, sử gọi là Bắc triều và Nam triều .
Nam triều tuy mang danh nghĩa nhà Lê nhưng thực quyền lúc đầu ở trong tay
Nguyễn Kim rồi chuyển sang thay Trịnh Kiểm và con cháu họ Trịnh.
Tình trạng phân liệt với sự tồn tại của những chính quyền đối lập, phá
vỡ nền thống trị đất nước, xét về mặt chính trị cũng là hậu quả không thể
tránh khỏi của chế độ quân chủ tập quyền chuyên chế [7, tr.208-209].
1.1.1.2. Mâu thuẫn Trịnh – Nguyễn và Nguyễn Hoàng bắt đầu dựng nghiệp ở
Thuận Quảng
Cuộc chiến Nam – Bắc triều còn đang tiếp diễn, trong nội bộ Nam triều
đã nảy sinh mầm mống của sự chia rẽ. Sau khi Nguyến Kim bị sát hại vào
7
năm 1545, vua Lê trao mọi quyền bính cho con rể của Nguyễn Kim là Trịnh
Kiểm. Hai họ Trịnh – Nguyễn vốn đã từng được gắn kết bởi mục đích chung
phò giúp vua Lê dựng lại cơ nghiệp, lại được thắt chặt thêm bằng quan hệ hôn
nhân, đến đây bắt đầu có dấu hiệu bị rạn nứt. Trịnh kiểm thâu tóm mọi quyền
hành trong tay mình và tìm cách loại bỏ dần ảnh hưởng của họ Nguyễn.
Mâu thuẫn càng trở nên gay gắt hơn khi người con trai trưởng của
Nguyễn Kim là tả tướng Nguyễn Uông bị trịnh Kiểm lập mưu giết hại. Biêt
sớm muộn gì cũng đến lượt mình, Nguyễn Hoàng theo lời gợi ý của Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, đã nhờ chị gái là Ngọc Bảo ( vợ Trịnh kiểm) xin
cho được vào trấn thủ ở Thuận Hóa để tránh nguy cơ bị ám hại.
Có thể phần nào cũng biết được mục đích riêng của Nguyễn Hoàng,
nhưng dưới mắt của Trịnh Kiểm việc Nguyễn Hoàng ra đi lúc này là hết sức
cần thiết, trước hết vì sự vững mạnh của Nam triều. Vì thế nguyện vọng của
Nguyễn Hoàng đã được Trịnh Kiểm chấp nhận ngay. Trịnh kiểm dâng biểu
lên vua Lê Anh Tông giải thích rõ: “ Thuận Hóa là nơi quan trọng, quân và
của do đấy mà ra, buổi quốc sơ nhờ đấy mà nên nghiệp lớn. Nay lòng dân hãy
còn tráo trở, nhiều kẻ vượt biển đi theo họ Mạc, sợ có kẻ dẫn giặc về cướp, ví
không được tướng tài trấn thủ vỗ yên thì không thể xong. Đoan quận công là
con nhà tướng, có tài trí mưu lược, có thể sai đi trấn ở đấy, để cùng với tướng
trấn thủ Quảng Nam cùng nhau giúp sức thì mới đỡ lo đến miền Nam”[25, tr.
28]. Vua Lê Thánh Tông nghe theo Trịnh Kiểm đã trao trấn tiết cho Nguyễn
Hoàng và “phàm mọi việc đều ủy thác cả, chỉ mỗi năm nộp thuế mà thôi”
Tháng 10- 1558, Nguyễn Hoàng vào nhận chức ở Thuận Hóa, “ những
người bộ khúc đồng hương ở Tống Sơn và những người nghĩa dũng xứ Thanh
Hoa đều vui lòng theo đi”. Năm sau, vùng Thanh hóa, Nghệ An, bị lụt to,
nhiều gia đình bị mất nhà cửa, mùa màng thất bát, nhân dân đói khổ, nhiều
người đã kéo nhau vào đất Thuận Hóa để tìm kế sinh nhai.
8
Đất Thuận Hoá, nơi ông được giao trị nhậm, từ lâu đã là nơi hợp tụ của
rất nhiều lớp người, với nhiều thành phần xã hội hết sức phức tạp[4, tr.110].
Và chính ông, cũng như các chúa kế nghiệp, cũng rất hiểu “đất Đàng Trong
vẫn là của những trung tâm văn hoá có quá khứ huy hoàng”[10, tr.219 ] . Hơn
thế nữa, là con trai thứ của Thái sư Nguyễn Kim (1467-1545), có anh là Tả
tướng Nguyễn Uông từng bị thế lực nhà Trịnh lập mưu sát hại, có chị là Ngọc
Bảo đang làm dâu họ Trịnh, lại đã từng chứng kiến và tham gia những cuộc
xung đột quân sự, chính trị quyết liệt nhằm giành lại quốc thống cho nhà Lê,
Nguyễn Hoàng hiểu rõ truyền thống văn hoá – chính trị xứ Bắc, sức mạnh
cùng những nhược điểm căn bản của thể chế quan liêu Lê – Trịnh ở Đàng
Ngoài.
Để yên lòng dân, thu phục nhân tâm, đồng thời để thu hút cư dân các địa
phương vùng Bắc Trung Bộ tiếp tục di cư vào Thuận Hoá sinh sống, Nguyễn
Hoàng đã ra sức “vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng,
được dân mến phục, bấy giờ thường xưng là chúa Tiên. Nghiệp đế dựng nên
thực là xây nền từ đấy” [26, tr. 28].
Lượng thấy sức lực chưa đủ khả năng để có thể đoạn tuyệt và đương
đầu với chính quyền Lê – Trịnh, Nguyễn Hoàng đã thực thi một chính sách
khôn khéo, đúng với chức phận của một kẻ bề tôi. Ông hiểu rằng với danh
nghĩa làAn Nam đô thống sứ ty đô thống sứ (1598), rồi An Nam quốc vương
(1647) thời Minh (1368-1644) và vua Lê vẫn được tái phong An Nam quốc
vương năm 1667 dưới triều Thanh (1644-1911), về danh nghĩa vua Lê vẫn là
người đại diện duy nhất cho chính thể[17, tr.169-178].
Sau chuyến đi Thanh Hoa yết kiến Lê Anh Tông (1557-1573) ở hành
cung An Trường và gặp Thái sư Trịnh Kiểm năm 1569, năm sau, nhân việc
Trấn Quốc công Bùi Tá Hán, Tổng trấn Quảng Nam qua đời, Nguyễn Bá
Quýnh tạm thay, Nguyễn Hoàng đã được chúa Trịnh giao cho kiêm lãnh Trấn
9
thủ xứ Quảng Nam thay cho Tổng binh Bá Quýnh đổi ra Nghệ An làm Trấn
thủ. Có thể coi đây là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược bởi chính quyền
Đàng Trong không chỉ có danh nghĩa chính thức để mở rộng hơn nữa ảnh
hưởng về phía nam, mà còn tạo thêm được thế phòng thủ có chiều sâu cho
một chủ trương chiến lược.
Như vậy, chính quyền Đàng Trong được thành lập với danh nghĩa chính
thức. Nguyễn Hoàng vừa lo phát triển kinh tế vừa lo củng cố quyền thống trị
để thoát li dần sự lệ thuộc vào họ Trịnh. Dần dần khu vực Thuận – Quảng trở
thành vùng đất cát cứ của họ Nguyễn.
1.1.2. Quá trình hình thành
Nội chiến Trịnh – Nguyễn và sự phân chia Đàng Trong – Đàng Ngoài
Người tiếp tục sự nghiệp của chúa Tiên Nguyễn Hoàng là chúa Sãi
Nguyễn Phúc Nguyên. Ngay sau khi thay cha làm Trấn thủ Thuận Quảng,
Nguyễn phuc Nguyên cho “sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong
ngoài đâu cũng vui phục, bấy giờ người ta gọi là Chúa Phật”[25, tr.38]. Mặc
dù vẫn được vua Lê chính thức phong cho làm Trấn thủ hai xứ Thuận Hóa,
Quảng Nam và gia hàm Thái bảo, tước Quận công, nhưng không giống với
cha, Nguyễn Phúc Nguyên luôn tìm lí do thoái thác hay trì hoãn việc cống nạp
cho triều đình vua Lê – chúa Trịnh.
Tình hình trở nên căng thẳng vào năm 1620 khi Trịnh Tráng sai Đô đốc
Nguyễn Khải đem 5000 quân đến cửa Nhật Lệ, định phối hợp với Chưởng cơ
Hiệp và Chưởng cơ Trạch (đều là các em của Nguyễn Phúc Nguyên) âm mưu
cướp ngôi chúa nhưng không thành. Nguyễn Khải buộc phải rút quân.
Nguyễn Phúc Nguyên nhân cớ này quyết định li khai hẳn với triều đình Lê –
Trịnh, “ từ đấy không nộp thuế cống nữa”. Quan hệ trong kìm chế kéo dài
được 7 năm. Có lúc nhân họ Trịnh rối ren (sự kiện Trịnh Tùng chết năm
1623), Nguyễn Phúc Nguyên đã toan cất quân đánh ra Bắc, nhưng rồi lại thôi.
10
Trịnh Tráng lên thay Trịnh Tùng thi hành chính sách cứng rắn với họ Nguyễn,
trong khi Nguyễn Phúc Nguyên đã không chịu nộp thuế, không chịu về chầu
triều đình, lại còn tỏ thái độ khinh thường chúa Trịnh.
Sau một thời gian ráo riết chuẩn bị, tháng 3- 1627 Trịnh Tráng “mượn
tiếng xem xét địa phương, cho quân thủy bộ đều tiến”. Nguyễn Phúc nguyên
huy động các lực lượng thủy binh, bộ binh và đặc biệt đem lực lượng tượng
binh “thúc đánh chặn ngang, làm cho quân Trịnh tan vỡ, chết rất nhiều”[25,
tr.43] . Trịnh Tráng thấy không thể tiếp tục dấn sâu vào thất bại đã quyết định
rút quân về, củng cố lực lượng chuẩn bị cho các cuộc tiến công mới với quy
mô và mức độ ác liệt hơn. Quân Nguyễn từ sau trận chiến năm 1627 đã
trưởng thành về nhiều mặt.
Họ Nguyễn đã lợi dụng địa hình vùng Bắc Thuận Hóa cho xây dựng
hàng loạt các chiến lũy phòng thủ( lũy Nhật Lệ, lũy Trường Dục).
Tháng 12- 1633, Trịnh Tráng thống lĩnh đại quân thủy, bộ tấn công vào
vùng cửa biển Nhật Lệ. Quân Nguyễn vừa đóng thêm cọc gỗ để chặn cửa
biển, vừa đắp thêm lũy Trường Sa để bảo vệ lũy chính. Sau hơn một tuần
không thể vượt qua được hệ thống chiến lũy, quân Trịnh nao núng. Nhân cơ
hội này, quân Nguyễn ào ạt tiến đánh khiến quân Trịnh chết đến quá nửa,
buộc Trịnh Tráng phải rút quân.
Vào đầu năm 1643, quân Trịnh lại tổ chưc một cuộc tấn công lớn đánh
vào châu Nam Bố Chính, nhưng quân Trịnh lại một lần nữa vẫn không thể
vượt qua được hệ thống phòng thủ hết sức vững chắc của quân Nguyễn. Trời
chuyển sang hè nóng nực, quân Trịnh ốm chết rất nhiều, lại buộc phải rút lui
về phía bắc.
Tròn 5 năm sau, tháng 2- 1648, quân Trịnh lại mở cuộc tấn công đại quy
mô vào cửa biển Nhật Lệ. Quân Nguyễn chống cự trong thế bất lợi, nhưng
vẫn giữ được lũy Trường Dục để làm kế cố thủ. Đang đêm tượng binh
11
Nguyễn bất ngờ đánh úp doanh trại quân Trịnh. Chúa Nguyễn Phúc Lan đích
thân chỉ huy đại binh tiêu diệt và băt sống đến vài ba vạn tàn quân. Sử nhà
Nguyễn cho rằng quân Nguyễn đã có nhiều lần đánh thắng quân Trịnh, nhưng
“chưa có trận nào thắng to bằng trận này”[25,tr. 58].
Nhân việc quân Trịnh ở Bắc Bố Chính xâm lấn, cướp bóc, tháng 31655, chúa Nguyễn Phúc Tần sai Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật lần
đầu tiên kéo quân ra Bắc đánh quân Trịnh. Quân Nguyễn chiếm được 7 huyện
Nghệ An, nhưng gặp phải sự kháng cự quyết liệt của quân Trịnh. Cuối năm
1660, thấy không thể tiếp tục duy trì lực lượng ở Nghệ An được nữa, quân
Nguyễn lại lui về châu Nam Bố Chính, sửa sang thành lũy để ngăn chặn các
cuộc tấn công mới của quân Trịnh.
Đúng như dự kiến, cuối năm 1671, quân Trịnh tấn công vào Nam Bố
Chính. Quân Nguyễn lui vào giữ phía trong đại lũy và làm kế thanh dã. Tháng
2- 1672, một lần nữa quân Nguyễn đánh bật quân Trịnh ra khỏi bờ nam sông
Gianh.
“Tháng 6 -1672, chúa Trịnh dẫn 10 vạn quân thủy, bộ quyết phá tan hệ
thống phòng thủ của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cũng huy động cao độ lực
lượng, tung tin là có 26 vạn sẵn sàng đối chiến với chúa Trịnh. Hai bên đánh
nhau kịch liệt hàng tháng liền. Riêng vùng lũy Trấn Ninh, như sử nhà Nguyễn
chép : “quân Trịnh xác chết thành đống, quân ta cũng bị thương và chết rất
nhiều”.Cuối cùng, quân Trịnh phải rút về phòng giữ nghiêm ngặt ở châu Bắc
Bố Chính, lấy sông Gianh làm giới tuyến”[5, tr.287- 288].
Như vậy, từ năm 1627 – 1672 quân Trịnh đã 6 lần tấn công với quy mô
lớn vào khu vực phía nam sông Gianh, trong khi quân Nguyễn chỉ duy nhất
có một lần đánh ra phía bắc sông Gianh, chiếm đóng 7 huyện Nghệ An trong
5 năm.Sau 7 lần đánh nhau, có lúc đã lôi kéo cả người nước ngoài vào cuộc
chiến, mà kết cục không bên nào thôn tính được bên nào. Cuối cùng, hai bên
12
đều không thể kéo dài thêm cuộc chiến, đã quyết định lấy sông Gianh làm
ranh giới phân định khu vực thống trị. Vùng đất từ sông Gianh trở ra Bắc nằm
dưới quyền cai trị của chính quyền Lê – Trịnh gọi là Đàng Ngoài.Vùng đất từ
sông Gianh trở vào Nam được gọi là Đàng Trong của chính quyền chúa
Nguyễn độc lập và đối lập với Đàng Ngoài của vua Lê – chúa Trịnh.
1.2. CHÍNH TRỊ - KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐÀNG TRONG THẾ KỈ
XVII –XVIII
1.2.1. Chính trị
1.2.1.1. Tổ chức chính quyền
Đàng Ngoài, Đàng Trong chính thức trở thành hai thể chế chính trị riêng
biệt, đối lập nhau bắt đầu từ năm 1672 và về cơ bản kết thúc vào năm 1788,
khi Nguyễn Huệ tiến quân ra bắc lần thứ hai, xóa bỏ ranh giới sông Gianh,
lũy Thầy, bước đầu thực hiện thống nhất đất nước. Tuy nhiên, từ khi Nguyễn
Phúc Nguyên được giữ chức Trấn thủ Thuận Quảng và nhất là trong thời kỳ
nội chiến Trịnh – Nguyễn, bộ máy chính quyền riêng của chúa Nguyễn đã dần
dần hình thành ở khu vực Đàng Trong.
Khi vào Nam dựng nghiệp, từ lúc còn là Trấn thủ Thuận Hóa cho đến
khi kiêm quản cả Quảng Nam, Nguyễn Hoàng giữ đầy đủ quan hệ một phiên
thần của nhà Lê. Ngay đến cả những năm mâu thuẫn trở thành đối nghịch,
chúa Trịnh đã nhiều lần đem quân đánh dẹp, mà Nguyễn Hoàng vẫn giữ quan
hệ thần thuộc với vua Lê, “thường nộp thuế má, không thiếu năm nào”.
Từ năm 1600, mặc dù đã tự ý cắt đứt quan hệ lệ thuộc, nhưng chính
quyền họ Nguyễn về cơ bản vẫn chưa có sự thay đổi. Phải đến khi chúa
Nguyễn Phúc Nguyên lên nắm chính quyền, bộ máy chính quyền khu vực
Thuận Quảng mới bắt đầu có những thay đổi lớn.
Năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên quyết định bãi bỏ Đô ty, Thừa ty,
Hiến ty theo hệ thống của nhà Lê.Tại Chính dinh, ông đặt ra các ty Xá sai (coi
13
việc văn án từ tụng, do Đô tri và Ký lục giữ), Tướng thần lại (coi việc trưng
thu tiền thóc, phát lương cho quân các đạo, do cai bạ giữ) và Lệnh sử (coi
việc tế tự, lễ tiết và chi cấp lương cho quân đội Chính dinh, do Nha úy giữ).
Bên cạnh đó còn có các ty Nội Lê sử kiêm coi các thứ thuế, Tả Lệnh sử và
Hữu Lệnh sử chia nhau thu tiền sai dư ở hai xứ về nộp Nội phủ. Tại các dinh
ở ngoài, tùy theo từng nơi, có nơi Nguyễn Phúc Nguyên chỉ đặt một ty Lệnh
sử, nhưng cũng có nơi đặt hai ty Xá sai và Lệnh sử để trông coi việc từ tụng
của quân dân, sổ sách đinh điền và trưng thu thuế ruộng [25, tr. 38-39].
Đầu năm 1615, các quy chế mới về chức trách và quyền hạn của các
phủ, huyện được ban hành. Theo quy chế này thì Tri phủ, Tri huyện giữ việc
từ tụng; các thuộc viên: Đề lại, Thông lại chuyên việc tra khám, Huấn đạo, Lễ
sinh chuyên việc tế tự. Năm 1620, Nguyễn Phúc Nguyên lấy lí do chúa Trịnh
vô cớ gây chiến đã quyết định chấm dứt hoàn toàn việc cống thuế cho chính
quyền Lê – Trịnh. Năm 1630, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã làm theo kế của
Đào Duy Từ trả lại sắc của chúa Trịnh Tráng. Đây là sự khẳng định dứt khoát
chính quyền chúa Nguyễn ở phía nam là chính quyền độc lập, cắt đứt hẳn mọi
quan hệ lệ thuộc với chính quyền Lê – Trịnh ở phía bắc. Chiến tranh Trịnh –
Nguyễn càng đẩy sự phân cách này ra xa hơn và do không bên nào giành
được thắng lợi quyết định mà cuối cùng sông Gianh, lũy Thầy đã thành giới
tuyến phân cách giữa hai chính quyền đối lập.
Năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát quyết định xưng vương, xây dựng
chính quyền ở Phú Xuân thành một triều đình riêng, biến xứ Đàng Trong
thành vương quốc độc lập và đối lập với Đàng Ngoài. Nguyễn Phúc Khoát
cũng tiến hành sắp xếp lại các đơn vị hành chính, chia đựt toàn bộ Đàng
Trong ra làm 12 dinh. Tại các dinh, chúa Nguyễn đều đặt các chức Trấn thủ,
Cai bạ và Ký lục để cai trị. Bên dưới dinh là cấp phủ và cấp huyện; dưới
14
huyện là tổng, xã (khu vực đồng bằng), thuộc, thôn, phường, nậu, man(khu
vực miền núi và ven biển).
Khi mới vào Nam dựng nghiệp, chúa Nguyễn chọn tiến cử làm phương
thức chủ yếu tuyển dụng quan lại. Phương thức này vẫn còn được sử dụng
rộng rãi cho đến cuối thế kỉ XVIII. Chế độ khoa cử ở Đàng trong đã xuất hiện
muộn, lại không được tổ chức đều đặn, nên số quan lại được tuyển chọn theo
con đường này không nhiều và không đóng vai trò thực sự quan trọng. Trong
khi đó, chế độ mua bán quan tước, chế độ nộp tiền để được thăng chức càng
ngày càng phát triển và trở thành phương thức chủ yếu để tuyển chọn quan lại
Đàng Trong thế kỉ 18. Hơn thế, chúa Nguyễn không cấp lương bổng cho quan
lại, mà tất cả đều thu ở dân , đều bắt dân đóng góp để nuôi bộ máy quan liêu
ngày một phình to và có nhiều đặc quyền đặc lợi. Lê Quý Đôn nhận xét: “
Quảng Nam, Thuận Hóa chỉ hai trấn thôi mà họ Nguyễn đặt quan lại, thuộc
ty, hương trưởng, kể có hàng nghìn, nhũng lạm quá lắm. Tát cả bổng lộc đều
lấy ở dân, dân chịu sao được”[3, tr.146]. Đây chính là chỗ yếu căn bản của bộ
máy chính quyền họ Nguyễn ở Đàng trong.
Vào giữa thế kỉ 18, hệ thống nhà nước của họ Nguyễn đang trở thành
nạn nhân của chính thành quả của mình. Các đơn vị hành chánh chính của
vương quốc họ Nguyễn sang thế kỉ XVIII đòi hỏi phải được điều chỉnh.
Vương quốc chủ yếu được chia thành hai xứ Thuận Hóa gồm vùng đất
từ Quảng Bình, ranh giới phía bắc của vương quốc, tới Huế, và Quảng Nam,
gồm tất cả vùng đất còn lại ở phía nam, tới tận đồng bằng sông Cửu Long. Sự
phân chia này đã có từ thời Hồng Đức vào thế kỉ XV khi người Việt chiếm
được vùng đất phía bắc đèo Cả. Đây là một sự phân chia khá hợp lý cho tới
giữa thế kỉ XVII. Tuy nhiên, vào cuối thập niên 1670, xứ Quảng Nam ngày
càng được mở rộng xuống đồng bằng sông Cửu Long. Từ thời điểm này,
15
Quảng Nam bắt đầu phát triển nhanh chóng thành một vùng sản xuất thóc
gạo.
Khác với Đàng Trong
Trong giai đoạn này , bộ máy chính quyền Đàng Ngoài có nhiều biến
chuyển mạnh mẽ, nhất là trong bộ máy chinh quyền nhà nước. Vua Lê chỉ còn
là hư danh, quyền lực trong nước thực sự nằm trong tay chính quyền của các
chúa Trịnh. Quyền hạn của vua Lê bị hạn chế đến mức tối đa, quy định chặt
chẽ cả chế độ bổng lộc của nhà vua, thành lập một số cơ quan giúp việc gồm
3 phiên : Binh, Hộ và Thủy sư. Đến thế kỉ 18, chuyển 3 phiên thành 6 phiên :
Lại, Lễ, Bộ, Binh, Hình, Công.
Ở địa phương, các đạo thừa tuyên được đổi gọi là các trấn, do trấn thủ
hay trấn đốc đứng đầu, phụ trách các trấn ti. Các cơ quan giúp việc có Hiến Ti
và Thừa Ty.
Quan lại được tuyển theo hình thức thi cử, có cả tuyển cử. Việc tuyển
chọn quan lại không còn nghiêm minh như trong giai đoạn trước, có thể dùng
tiền bạc để mua quan, quan lại ngày một đông nhưng không có tài chủ yếu là
vơ vét, bóc lột nhân dân “bấy giờ quan chức nhũng lạm, phức tạp, một lúc cất
nhắc bổ dựng đến hơn 1000 người, làm quan cầu may, viên chức thừa thãi,
không còn phân biệt gì cả.
Như vậy, sự khác nhau giữa việc tổ chức chính quyền chứng tỏ Đàng
Ngoài và Đàng Trong trở thành hai thể chế chính trị riêng biệt, đối lập nhau.
Các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã xây dựng cho mình một chính quyền, một
vương quốc độc lập, cắt đứt hẳn mọi quan hệ lệ thuộc với chính quyền Lê –
Trịnh ở Đàng Ngoài. Do đó, việc xây dựng quân đội là cấp bách để bảo vệ
chính quyền Đàng Trong khỏi sự đánh chiếm của Đàng Ngoài cũng như sự
xâm lược của các nước khác. Cho nên lực lượng quân đội Đàng Trong được
xây dựng và tổ chức ngày càng chặt chẽ và lớn mạnh.
16
Mặt khác, sau khi Nguyễn Hoàng mât, thế tử Nguyễn Phúc Nguyên
được nối nghiệp chúa, đã tiếp tục thực hiện những chính sách nhằm mở rộng
lãnh thổ về phía Nam và bảo về, phát triển những thành quả mà chúa Nguyễn
Hoàng đã dựng lên.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã tiến hành nhiều cải cách trong bộ máy
chính quyền Đàng Trong, thực hiện nhiều chính sách nhằm khuyến khích,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Đàng Trong. Tiềm lực của Đàng Trong đã
đủ sức để đương đầu với chính quyền họ Trịnh ở Đàng Ngoài . Cuộc chiến
tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh- Nguyễn bùng nổ và kéo dài hàng
chục năm sau đó. Vừa phải tập trung lực lượng để đối phó với họ Trịnh, chúa
guyễn cũng rất chú trọng và quan tâm đến việc bảo vệ lãnh thổ và nhân dân
của mình ở vùng đất phía Nam.
Trong giai đoạn đầu của công cuộc Nam tiến mở rộng lãnh thổ xuống
phía Nam của các chúa Nguyễn, thì việc bảo vệ nhân dân, chủ quyền của
mình trước những âm mưu xâm chiếm của nước láng giềng Champa, chính
quyền chúa Nguyễn ít gặp phải những trở ngại và khó khăn. Nhưng đó là cả
một quá trình đầy gian nan, những thử thách đó càng được nhân lên khi
những lưu dân người Việt có những bước tiến lớn trên vùng đất của Thủy
Chân lạp. Chính quyền của chúa Nguyễn từng bước được thiết lập vững chắc
ở vùng Nam Bộ ngày nay, nhưng cũng phải chống lại nhiều hơn nhưng âm
mưu của nước Chân Lạp và tham vọng mở rộng lãnh thổ về phía Đông của
nước Xiêm La và những âm mưu bạo loạn từ trong nước.
Cuộc chiến giữa chính quyền chúa Nguyễn và nhân dân Đại Việt trên
vùng đất mới với thế lực ngoại bang này trong việc âm mưu chiếm vùng đất
phía Nam nước ta ngày nay diễn ra phức tạp và có nhiều vấn đề quan trọng.
Vì vậy, việc xây dựng lực lượng quân đội ngày càng lớn mạnh để có khả năng
17
chống lại các thế lực ngoại bang, bảo vệ vùng đất phía Nam mà các chúa
Nguyễn đã dày công xây dựng.
1.2.1.2. Ngoại giao và quá trình mở rộng lãnh thổ
Bên cạnh đó, đế tiếp tục củng cố quyền lực, phát triển tiềm lực kinh tế,
phòng thủ nhằm đối phó với nguy cơ tấn công từ Đàng Ngoài, các chúa
Nguyễn thực hiện mở rộng lãnh thổ về phía nam bằng việc khôn khéo đưa ra
những đối sách với các nước láng giềng, tích cực khai phá đất đai, từng bước
xác lập chủ quyền của mình. Nhằm phục vụ cho chính sách ngoại giao đó thì
các chúa Nguyễn đã ra sức xây dựng tiềm lực thật mạnh, trong đó có tiềm lực
quân sự.
“Đến năm 1697, các chúa Nguyễn đã hoàn thành xong việc chinh phục
Chiêm Thành, lập ra trấn Thuận Thành. Kể từ đây, biên giới của Đàng Trong
tiếp giáp với Chân Lạp và quá trình khai phá, xác lập chủ quyền ở Nam Bộ
với các mối quan hệ chồng chéo, phức tạp với Chân Lạp và Xiêm trở nên trực
tiếp và gay gắt”[28, tr. 170].
Không chỉ xâm chiếm Chân Lạp, Xiêm còn nhiều lần tấn công Đại Việt
vào các năm 1771, 1783, 1784. Nước Xiêm không chỉ là nguy cơ đối với
Chân Lạp mà còn là nguy cơ đối với cả Đại Việt.
Trước tình hình đó, các chúa Nguyễn buộc phải có đối sách để ngăn
chặn nguy cơ từ phái Xiêm, đồng thời thực hiện mục đích mở rộng đất đai về
phía Nam.Những đối sách của các chúa Nguyễn đã được thực hiện một cách
khôn khéo, đa dạng và rất linh hoạt: bằng con đường hôn nhân , lợi dụng mâu
thuẫn giữa Chân Lạp và Xiêm trong ngoại giao, sử dụng lực lượng người
Hoa, thậm chí can thiệp trực tiếp vào nội tình chính trị của Chân Lạp để mở
mang bờ cõi.
Quá trình khai mở đất đai về phía Nam của người Việt là một quá trình
diễn ra tịnh tiến với nhiều đối sách khác nhau của các chúa nguyễn, khi bằng
18
biện pháp ngoại giao khôn khéo, có khi tiếp nhận đất đai do sự “trả ơn” một
cách tự nguyện hay nhờ tạo điều kiện thuận lợi của một cuộc hôn nhân, đặc
biệt là dùng sức mạnh quân sự để đánh đuổi kẻ thù và phỏng thủ từ xa.
1.2.2. Kinh tế - Xã hội
Vùng đất Thuận Quảng kể từ sau năm 1471 là đất của nhà Lê. Nguyễn
Hoàng làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa năm 1558 và kiêm Trấn thủ xứ Quảng
Nam năm 1570 cũng chỉ là thực hiện xứ mệnh của vua Lê giao cho. Tuy có ý
đồ cát cứ, nhưng suốt 50 năm trấn nhiệm ở Thuận Quảng, Nguyễn Hoàng đã
làm tròn trọng trách theo sự ủy thác của vua Lê, được vua Lê phong cho tước
vị cao và đánh giá là người có công lớn với triều đình.
Ruộng đất và thuế khóa ở Thuận Quảng thời Nguyễn Hoàng hầu như
vẫn được duy trì theo các quy định cũ của nhà Lê. Số ruộng cày cấy hàng năm
mà các phủ, huyện tự khai và chúa Nguyễn cho tập hợp lại rồi báo cáo về
triều đình, đồng thời cũng tính được tổng số lượng thuế phải nộp. Triều đình
về cơ bản tin theo báo cáo của chúa Nguyễn , tuy nhiên đôi khi cũng tổ chức
các cuộc khám đạc và chúa Nguyễn phải chấp hành đầy đủ các yêu cầu của
đoàn kiểm tra.
Từ sau năm 1600, mặc dù từ chối việc trở về triều đình yết kiến vua Lê
nhưng trong thực tế các chính sách về ruộng đất và thuế khóa mà Nguyễn
Hoàng thực thi cũng chưa có thay đổi đáng kể. Mọi kì vọng “dựng nghiệp
lớn” và biến Đàng Trong thành giang sơn riêng của dòng họ mình, Nguyễn
Hoàng phó thác cả vào hoàng tử thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên.
Nguyễn Phúc Nguyên đã cắt đứt quan hệ với triều đình vua Lê – chúa
Trịnh, không chỉ tiến hành cải đổi bộ máy chính quyền mà các chính sách về
ruộng đất, thuế khóa cũng không giữ khuôn mẫu cũ.
Đứng trước sự phát triển của nền thương mại quốc tế, để đáp ứng yêu
cầu phát triển của vùng đất mới, các chúa Nguyễn đã không ngừng đưa ra
19