ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin 2
“Lí
thuyết về tích lũy cơ bản và vận dụng lí thuyết về tích
lũy tư bàn vào nền kinh tế của Việt Nam hiện nay”
Hà Nội, 12 / 2015
MỤC LỤC
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, Việt Nam bước
vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Mặc dù đã đạt được một số
thành tựu khá đáng kể trong việc phục hồi và phát triển kinh tế nhưng nhìn
chung Việt Nam vẫn đang nằm trong nhóm nước có nền kinh tế lạc hậu, thu
nhập bình quân đầu người còn thấp. Câu hái cấp thiết đặt ra với chúng ta bây
giờ là: “Làm sao để đưa Việt Nam thoát nghèo, trở thành một nước phát
triển?”
Để trả lời câu hái đó, chúng ta cần nghiên cứu và tìm ra các yếu tố dẫn
đến sự thành công và phát triển của các nền kinh tế hàng đầu thế giới. Các
nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng, mức sống của mỗi quốc gia phụ thuộc vào
năng suất lao động. Năng suất lao động lại phụ thuộc vào bốn yếu tố: tư bản
hiện vật, vốn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và tri thức công nghệ. Trong
đó, tư bản hiện vật là một yếu tố quan trong, được các nhà kinh tế học …..
coi là yếu tố tiên quyết trong việc phát triển kinh tế. Các nước phát triển đã
có một quá trình tích lũy lâu dài, lượng vốn tích lũy được đã đủ lớn để họ có
thể thực hiện các công trình, dự án phục vụ cho sự phát triển lâu bền. Còn
đối với các nước đi sau như Việt Nam, xuất phát điểm còn thấp, muốn phát
triển nhanh và đuổi kịp các nước tiên tiến cần tích lũy được nguồn vốn lớn.
Để có thể làm được điều đó, chúng ta cần tận dụng và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực trong nước, đồng thời tích cực thu hút thêm vốn đầu tư nước
ngoài. Hiểu được tầm quan trọng của việc tích lũy vốn, em đã chọn đề tài ‘Lí
thuyết về tích lũy cơ bản và vận dụng lí thuyết về tích lũy tư bàn vào nền
kinh tế của Việt Nam hiện nay’. Trong bài viết này em sẽ trình bày bản chất
của tích lũy tư bản, các nhân tố quyết định đến quy mô tích lũy tư bản, từ đó
đề ra một vài giải pháp tích lũy vốn có thể áp dụng vào nền kinh tế Việt
Nam hiện nay.
3
Là một sinh viên năm nhất, nhận thức và hiểu biết còn hạn hẹp, chưa
toàn diện vì thế nội dung khó tránh còn những sai sót, em mong nhận được
các ý kiến, góp ý của cô giáo nhằm hoàn thiện nội dung đề tài. Em cũng
chân thành cảm ơn cô ………………………..đã hướng dẫn và giúp em hoàn
thành đề tài này.
4
PHẦN NỘI DUNG
1. Lí thuyết về tích lũy tư bản
1.1 Thực chất của quá trình tích lũy tư bản
Để hiểu được bản chất của tích lũy tư bản, ta cần phân tích quá trình tái
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp lại và tiếp diễn một cách liên
tục, không ngừng. Tái sản xuất được chia thành hai loại: Tái sản xuất giản
đơn là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ. Tái sản xuất giản
đơn là đặc trưng của nền sản xuất nhá. Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản
xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn trước. Hình thái điển hình của tái sản
xuất trong chủ nghĩa tư bản không phải là tái sản xuất giản đơn mà là tái sản
xuất mở rộng. Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình
sản xuất với quy mô lớn hơn trước, với một tư bản lớn hơn trước. Muốn vậy,
phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Việc sử dụng
giá trị thặng dư làm tư bản hay sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành
tư bản gọi là tích luỹ tư bản.
Như vậy, thực chất tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặng dư. Xét
một cách cụ thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày
càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được là
vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.
Có thể minh hoạ tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa
bằng ví dụ sau: Năm thứ nhất : 80c + 20v + 20m. Giả định 20m không bị
nhà tư bản tiêu dùng tất cả cho cá nhân, mà được phân thành 10m1 + 10m2
(trong đó 10m2 giành cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản, còn 10m1 dùng
để tích luỹ). Phần giá trị thặng dư 10m1 dùng để tích luỹ được phân thành
8c1 + 2v1. Khi đó quy mô sản xuất của năm sau sẽ là 88c + 22v +22m(nếu
m vẫn như cũ). Như vậy vào năm thứ hai, quy mô tư bản bất biến và tư bản
khả biến tăng đều lên tương ứng.
5
Nghiên cứu tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa cho phép rút
ra những kết luận vạch râ hơn bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Một là, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư
bản tích luỹ chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.Mác nói rằng
tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích luỹ mà thôi.
Trong quá trình sản xuất , lãi (m) cứ đập vào vốn,vốn càng lớn thì lãi càng
lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ trở thành phương tiện
mạnh mẽ để bóc lột chính người công nhân.
Hai là, quá trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền sản xuất
hàng hoá biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Sự trao đổi giữa họ
với nhau theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới việc người này
chiếm đoạt lao động không công của người kia. Trái lại, trong nền sản xuất
tư bản chủ nghiã, sự trao đổi giữa người lao động và nhà tư bản dẫn đến kết
quả là nhà tư bản chẳng những chiếm một phần lao động của người công
nhân, mà còn là người chủ sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Như
vậy đã có sự thay đổi căn bản trong quan hệ sở hữu. Nhưng sự thay đổi đó
không vi phạm quy luật giá trị.
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự lớn lên không ngừng của
giá trị. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản không ngừng tích luỹ và tái
sản xuất mở rộng, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột của
người công nhân.
Mặt khác, do cạnh tranh, các nhà tư bản buộc phải không ngừng làm
cho tư bản của mình tăng lên, bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ. Thật ra,
trong buổi đầu của sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự ham muốn làm giầu của
nhà tư bản thường chi phối tuyệt đối, nhưng đến một trình độ phát triển nhất
định, sự tiêu dùng xa phí của các nhà tư bản ngày càng tăng lên theo sự tích
luỹ tư bản.
6
1.2 Những nhân tố quyết định quy mô tích luỹ tư bản
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích luỹ
phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tiêu
dùng của nhà tư bản.
Nếu tỉ lệ phân chia đó đã có sẵn, thì râ ràng đại lượng của tư bản tích
luỹ sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. Do đó những
nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ chính là những nhân tố quyết định
quy mô của khối lượng giá trị thặng dư. Những nhân tố đó là :
Một là, trình độ bóc lột sức lao động
Nâng cao mức độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công.
Khi ngiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư, C.Mác giả định rằng sự trao
đổi giữa công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá. Nhưng trong thực
tế, công nhân bị nhà tư sản chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, bị cắt xén
một phần tiền công. Việc cắt xén tiền công giữ vai trò quan trọng trong quá
trình tích luỹ tư bản.
Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động râ ràng làm tăng
thêm giá trị thặng dư, dó đó làm tăng bộ phận giá trị thặng dư được tư bản
hoá tức là làm tăng tích luỹ. ảnh hưởng này còn thể hiện ở chỗ số lượng lao
động tăng thêm mà nhà tư bản chiếm không do tăng cường độ lao động và
kéo dài ngày lao động không đòi hái phải tăng thêm tư bản một cách tương
ứng (không đòi hái phải tăng thêm số lượng công nhân, tăng thêm máy móc,
thiết bị, mà hầu như chỉ cần tăng thêm sự hao phí ngyên liệu).
Hai là, trình độ năng suất lao động xã hội
Sức sản xuất của lao động mà tăng lên thì khối lượng sản phẩm, biểu
hiện một giá trị nhất định và do đó biểu hiện một đại lượng giá trị thặng dư
nhất định cũng tăng lên.Với một tỷ suất giá trị thặng dư không thay đổi, hay
thậm chí với một tỷ suất giá trị thặng dư đang giảm xuống, thì khối lượng
sản phẩm thặng dư vẫn tăng lên, miễn là tỷ suất giá trị thặng dư giảm xuống
chậm hơn mức tăng của sức sản xuất của lao động. Vì vậy, với một tỉ lệ
7
7
phân chia sản phẩm thặng dư thành thu nhập và tư bản phụ thêm không thay
đổi, sự tiêu dùng của nhà tư bản vẫn có thể tăng lên mà không cần giảm quỹ
tích luỹ. Nhưng như ta đã thấy, năng suất lao động mà tăng lên thì công nhân
cũng trở nên rẻ đi , và do đó tỷ suất giá trị thặng dư cũng tăng lên, ngay cả
khi tiền công thực tế được nâng cao. Tiền công này không bao giờ tăng lên
theo cùng một tỷ lệ với năng suất lao động. Cũng vẫn một giá trị tư bản khả
biến ấy lại vận dụng dược nhiều sức lao động hơn, và do đó nhiều lao động
hơn. Cũng vẫn một giá trị tư bản bất biến ấy lại biểu hiện thành một lượng tư
liệu sản xuất nhiều hơn, tức là nhiều tư liệu lao động , do đó cung cấp nhiều
yếu tố tạo ra sản phẩm, cũng như nhiều yếu tố tạo ra giá trị hơn, hay nhiều yếu
tố hấp thụ lao động hơn. Vì vậy, khi giá trị của tư bản phụ thêm không thay đổi
hay thậm chí giảm xuống, tích luỹ cũng vẫn được đẩy nhanh. Chẳng những quy
mô tái sản xuất được mở rộng về mặt vật thể, mà sản xuất giá trị thặng dư cũng
tăng lên nhanh hơn giá trị của tư bản phụ thêm.
Ba là, sự chênh lệch tư bản tiêu dùng và tư bản sử dụng
Tư bản tăng lên thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản
đã tiêu dùng cũng tăng lên. Nói một cách khác : khối lượng giá trị và khối
lượng vật thể của những tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, các thứ
khí tài cũng tăng lên; nhưng những thứ đó, trong một thời kì dài hay ngắn,
trong những quá trình sản xuất thường xuyên lặp đi lặp lại, đều hoạt động
với toàn bộ quy mô của chúng hay được dùng để đạt tới một hiệu quả có ích
nhất định, nhưng lại chỉ hao mòn dần dần, và do đó chỉ mất giá trị từng phần
một, nghĩa là chỉ chuyển giá trị ấy từng phần một vào sản phẩm mà thôi. Sự
hoạt động này của máy móc được xem như là sự phục vụ không công. Máy
móc, thiết bị càng hiện đại thì sự chênh lệch giữa tư bản được sủ dụng và tư
bản đã tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không công càng lớn, tư bản lợi
dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều, vì vậy quy mô
tích lũy của tư bản càng lớn.
Bốn là, quy mô tư bản ứng trước.
8
8
Với trình độ bóc lột không đổi thì khối lượng giá trị thặng dư sẽ do
khối lượng công nhân bị bóc lột quyết định. Do đó, quy mô của tư bản ứng
trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì giá trị thặng dư bóc lột
được và quy mô tích luỹ càng lớn.
2. Thực trạng quá trình tích lũy vốn ở Việt Nam
2.1 Trước những năm đổi mới (1986)
10 năm sau khi Tổ quốc thống nhất, nhìn chung nước ta đã có những
bước phát triển đáng kể trên nhiều lĩnh vực. Tuy vậy, xét chung trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân việc huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn là quá
thấp. Quá trình tích tụ và tập trung vốn ở trong các thành phần kinh tế, trong
các ngành... chủ yếu thông qua ngân sách nhà nước và vay ngân hàng với lãi
suất thấp, nhưng trong đó chủ yếu vẫn là nguồn vốn từ ngân sách. Trong khi
đó vốn của ngân sách Nhà nước thì có hạn, cấp không thường xuyên, vốn
vay của ngân hàng cũng có hạn. Trong khi dân cư và toàn bộ nền kinh tế lại
có tình trạng tồn đọng khá lớn lượng vốn nhàn rỗi, nhưng chưa có một cơ
chế phù hợp để tích tụ và tập trung nguồn vốn này cho toàn bộ nền kinh tế.
Bởi vì, lãi suất ở thời điểm đó quá thấp, lạm phát đang ở tốc độ “phi mã"
(biểu hiện bằng 2 con số)... Điều đó chứng tá rằng chưa có một cơ chế phù
hợp để tích tụ và tập trung có hiệu quả nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế
và sự nghiệp hiện đại hoá đất nước.
Ở giai đoạn này, do chưa nhận thức được sự cần thiết và sự tồn tại lâu
dài của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội nước ta, vì thế sau khi nước nhà thống nhất, chúng ta đã nóng vội,
muốn xoá bá ngay các thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể để
đưa các doanh nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã ở miền Bắc lên quy mô
lớn, mau chóng thực hiện quốc doanh hoá, tập thể hoá ở miền Nam mà chưa
tính đến trình độ quản lý, khả năng trang bị kỹ thuật, khả năng về vốn trong
9
9
dân và nhất là hiệu quả kinh tế, nên chúng ta đã tạo ra quá trình tập trung
vốn một cách hình thức trong toàn bộ nền kinh tế. Vào những năm 80 Đảng
và Nhà nước ta đã có sự điều chỉnh bước đầu trong nhận thức và chủ trương
trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư như : “Nội dung chính của công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm 80 là tập
trung sự phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu
2.2 Giai đoạn 1986 - 1990
Ở giai đoạn này, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã khẳng định:
“Nhiệm vụ bao trùm cả mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây
dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường tiếp theo...". Ba chương trình mục tiêu đó thực
chất là sự chuyển hướng chiến lược công nghiệp hoá từ việc ưu tiên công
nghiệp nặng một cách ồ ạt và hình thức sang lấy nông nghiệp, công nghiệp
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm. Đây là một bước chuyển
cực kỳ quan trọng, hợp với điều kiện phát triển kinh tế của đất nước. Xuất
phát từ những quan điểm chủ trương đổi mới trên, Đảng ta đã chỉ râ phải
khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc
doanh đóng vai trò chủ đạo, kiên quyết xoá bá cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, hình thành cơ chế kế hoạch theo phương thức định hướng là chủ yếu, sử
dụng đúng đắn các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, tiến tới quản lý bằng phương
pháp kinh tế là chủ yếu. Như vậy, ở giai đoạn này, Đảng và Nhà nước ta đã
không chỉ đề cao nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước mà đã thực sự tính đến
vai trò rất quan trọng của mọi tầng lớp nhân dân trong tiến trình phát triển
kinh tế xã hội. Chính sách tạo vốn thời kỳ này đã chú trọng đến nguồn vốn
của hàng vạn cơ sở sản xuất, của hàng triệu gia đình xã viên, trong các thành
phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư nhân, tư bản tư nhân và vốn của một số công
nhân viên chức, vốn của những người lao động hợp tác ở nước ngoài về, vốn
đầu tư từ bên ngoài...
10
10
Đặc điểm bao trùm của quá trình tích tụ và tập trung vốn trong nước ở
giai đoạn này chính là chúng ta đã từng bước xã hội hoá được các nguồn vốn
đầu tư, khắc phục những quan điểm phiến diện trước đây là chỉ dựa vào
kênh đầu tư của ngân sách Nhà nước, còn ở giai đoạn này, các nguồn lực sản
xuất của xã hội được huy động tốt hơn.
Các tổ chức trung gian tài chính cũng đã bắt đầu đổi mới hoạt động tích
tụ và tập trung vốn. Với một loạt ngân hàng thương mại được ra đời và
chuyển sang hoạt động kinh doanh tiền tệ tín đã tạo ra những yếu tố ban đầu
để hình thành thị trường vốn. Trong hệ thống này các ngân hàng thương mại
đã được chủ động trong các hoạt động kinh doanh, vì thế nó đã phát triển
ngày càng đa dạng, địa bàn kinh doanh ngày càng được mở rộng đến mọi
thành phần kinh tế với các hình thức tích tụ và tập trung vốn khá phong phú
và uyển chuyển. Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân đã phát triển mạnh và có
vai trò tích cực trong quá trình tích tụ và tập trung vốn ngay trong những
năm đầu của sự nghiệp đổi mới.
Đặc biệt trong thời gian này chính sách kinh tế nhiều thành phần của
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh thức tiềm năng kinh
tế của nhân dân qua việc phát triển mạnh mẽ tích tụ và tập trung vốn từ các
hộ gia đình và nhiều loại hình kinh tế hợp tác xã đa dạng trong việc phát
triển toàn bộ nền kinh tế. Chính điều đó đã làm cho hàng triệu hộ gia đình
trên khắp đất nước năng động trong sản xuất kinh doanh, đã đẩy mạnh quá
trình tích tụ và tích luỹ vốn.
Quá trình tích tụ và tập trung vốn của đất nước trong giai đoạn 1986 1990 đã có những bước chuyển biến đáng kể, nó được tiến hành đồng qua
các kênh: Kênh ngân sách Nhà nước, kênh tín dụng, kênh đầu tư của nhân
dân, kênh đầu tư từ khu vực nước ngoài (tuy nhiên với tỷ lệ còn thấp)..., chứ
không phụ thuộc duy nhất vào một kênh ngân sách Nhà nước như ở các giai
đoạn trước. Chính từ thực tiễn này đã cho chúng ta những kinh nghiệm quý
11
11
giá về tích tụ và tập trung vốn từ nhiều nguồn khác nhau và càng làm bộc lộ
ra những khuyết điểm ẩn dấu trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu
bao cấp là đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn vốn qua ngân sách Nhà nước, mà
không tính đến khả năng to lớn về vốn còn đang tiềm ẩn trong các thành
phần kinh tế khác.
Tuy nhiên, bên cạnh những nét khởi sắc về tích tụ và tập trung vốn
trong nước ở giai đoạn này vẫn bộc lộ một số vấn đề cần phải tiếp tục tháo
gỡ như: Người dân chưa tích cực bỏ vốn ra đầu tư sản xuất kinh doanh vì
chưa thật tin tưởng vào sự ổn định kinh tế, còn sợ lạm phát, chưa có nhiều
hình thức huy động vốn thiết thực và linh hoạt, lãi suất chưa hấp dẫn, môi
trường kinh tế, môi trường pháp lý và hệ thống hành chính còn lắm thủ tục
phiền hà, hơn nữa thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển, thậm chí nhiều
bộ luật cần thiết cho đầu tư còn thiếu như: Luật thương mại, luật dân sự,
thiếu những quy định đồng bộ đối với những nhà đầu tư trong và ngoài
nước, đặc biệt là sự chưa râ ràng về quyền sở hữu bất động sản, sự thiên vị
về tín dụng đối với các xí nghiệp quốc doanh... Một điều đáng chú ý trong
việc tích tụ và tập trung vốn trong nước giai đoạn này là nguồn thu ngân
sách Nhà nước đã được bổ sung khá nhiều, do đó đã có những bước chuyển
biến trong việc khai thác và biết cách bồi dưỡng, duy trì nguồn thu. Đây là
một trong những thành công lớn. Tuy nhiên, ngân sách nhà nước vẫn còn
thất thu nghiêm trọng, xuất không đủ nhập, bội chi ngân sách vẫn lớn và
chưa có biện pháp bù đắp khả thi, dẫn tới lạm phát vẫn ở mức cao. Những
nguyên nhân dẫn tới tình hình trên thì khá nhiều, nhưng có nguyên nhân
quan trọng và trực tiếp, đó là do công tác tích tụ, tập trung vốn quản lý và sử
dụng vốn chưa tốt...Mặt khác, ở giai đoạn này còn thiếu vắng nhiều giải
pháp tích tụ và tập trung vốn hữu hiệu. Điều quan trọng là chúng ta chưa tạo
ra được một phong trào tiết kiệm thực sự ăn sâu vào suy nghĩ và hành động
của mỗi người dân, mỗi công sở và mỗi doanh nghiệp... Vì thế, tỷ lệ tiết
kiệm và đầu tư trong tổng sản phẩm quốc nội còn quá thấp so với các nước
12
12
xung quanh. Chính những điều đó đã dẫn tới nhiệm vụ tích tụ và tập trung
vốn đặt ra trong giai đoạn này không thực hiện được như mong muốn, vì thế
tình hình kinh tế - xã hội vẫn ở trong tình trạng khủng hoảng, lạc hậu, mức
sống của người dân vẫn thấp. Thực trạng đó đòi hòi chúng ta phải đổi mới
sâu sắc và nhanh hơn tiến trình đổi mới sâu sắc và toàn diện mọi lĩnh vực
của nền kinh tế.
2.3 Từ 1991 đến nay
Đảng và Nhà nước ta tiếp tục những quan điểm chủ trương chính sách
đổi mới và phát huy tối đa những kết quả bước đầu của giai đoạn trước
(1986 - 1990), do đó Đại hội Đảng lần thứ VII đã nhấn mạnh: “Để thực hiện
mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan
trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát
triển.... phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển nền công nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, không ngừng nâng cao lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Để thực hiện được các mục tiêu đề ra chỉ trong điều kiện khi có đủ vốn, đặc
biệt là nguồn vốn trong nước, tuy nhiên cần tranh thủ vốn đầu tư từ nước
ngoài.
Có thể nói, nét nổi bật về tích tụ tập trung vốn trong giai đoạn này là sự
đổi mới trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Xuất hiện một số trung
tâm tài chính khác như công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư... Đặc biệt là ngành
ngân hàng ở nước ta đã có sự chuyển biến để thích ứng với cơ chế mới, hệ
thống ngân hàng được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, đặt nền
móng cho những ứng xử hiện đại năng động và hiệu quả của hệ thống ngân
hàng đã đang và sẽ vươn lên làm tốt chức năng là trung tâm tiền tệ, tín dụng
và thanh toán của các thành phần kinh tế, tích tụ và tập trung được nguồn
vốn nhàn rỗi trong các thành phần kinh tế được nhiều hơn, thúc đẩy mạnh
13
13
mẽ nhịp độ tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định giá trị đồng tiền Việt
Nam...
Về ngân sách nhà nước, nguồn thu trong nước chủ yếu là từ thuế. Công
tác thuế có nhiều chuyển biến tích cực, đã tạo ra hệ thống thuế tương đối
thích hợp với cơ chế thị trường. ở giai đoạn này đã hình thành được hệ thống
thuế áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế, sửa đổi các luật thuế
hoàn chỉnh như thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế sử dụng đất v.v... nâng tỷ
lệ động viên qua thuế và phí trong GDP tạo thành nguồn thu chính của ngân
sách nhà nước. Nhà nước cũng quan tâm nghiên cứu điều chỉnh, xử lý hợp lý
mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng qua ngân sách để thực hiện mục tiêu
CNH-HĐH.
Đặc biệt trong giai đoạn này, đầu tư ngoài ngân sách tăng nhanh đóng
vai trò quan trọng đối với mức tăng vốn đầu tư của toàn xã hội, trong việc
giải quyết việc làm, góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội.
Hoạt động tích tụ và tập trung vốn đầu tư trong và ngoài nước là lĩnh
vực rộng lớn và tương đối còn mới đối với Việt Nam. Trong khi đó kinh tế
thế giới và khu vực đang trong quá trình chuyển biến căn bản. Muốn hội
nhập một cách tự tin và hiệu quả vào nền kinh tế đó thì phải tích tụ và tập
trung vốn, tạo cho mình một nội lực vững vàng tích luỹ từ nội bộ của nền
kinh tế, bên cạnh đó còn phải biết huy động nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
3. Một số giài pháp tích lũy vốn cho Việt Nam
3.1 Tích luỹ vốn qua ngân sách
Giải pháp hàng đầu có tính chất quyết định tới khối lượng vốn đầu tư
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân chính là tích tụ và tập trung có hiệu quả
nguồn vốn qua ngân sách Nhà nước. Nguồn vốn được huy động đó sẽ đóng
vai trò quan trọng để giải quyết các nhu cầu của Nhà nước về chi thường
xuyên, chi đầu tư phát triển kinh tế...Vì thế, việc nâng cao hiệu quả quá trình
14
14
tích tụ tập trung vốn qua Ngân sách nhà nước là việc làm hết sức cấp bách,
cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Việc tích tụ, tập trung vốn qua kênh
ngân sách nhà nước phải dựa chủ yếu vào: Thu thuế, phí và lệ phí; phát huy
tiềm năng vốn từ các nguồn tài nguyên quốc gia, từ nguồn tài sản công còn
bỏ phí, từ vay nợ... trong đó thu thuế và phí vẫn là nguồn thu quan trọng
nhất.
3.2 Tích luỹ vốn qua kênh ngân hàng và thị trường chứng khoán
Trong những năm trước mắt và cả lâu dài, việc tích tụ và tập trung vốn
trong nước qua các trung gian tài chính tín dụng( Ngân hàng thương mại,
Công ty tài chính, quỹ bảo hiểm, quỹ tín dụng các loại ) vẫn là các trung
gian vốn lớn nhất trong nền kinh tế. Vì thế, phải coi trọng và tăng cường
hiệu quả huy động vốn qua các tổ chức này, ở nước ta hiện nay khi thị
trường chứng khoán còn chưa tác động mạnh mẽ( bởi vì mới có quyết định
thành lập ngày 28/11/1996, thủ tướng Vừ Văn Kiệt đó ban hành nghị định số
75/ CP về việc thành lập uỷ ban chứng khoán nhà nước ), thì có nghiệm vụ
tích tụ và tập trung vốn trong thời gian trước mắt vẫn là trung tâm hoạt động
của ngành ngân hàng. Việc hình thành thị trường chứng khoán là một yêu
cầu bức thiết của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Điều quan trọng đối với
chúng ta hiện nay là sớm đưa thị trường chứng khoán đi vào hoạt động và
mở rộng ảnh hưởng đến sự tích tụ và tập trung vốn trong nước.
Việt Nam từ khi chuyển sang cơ chế thị trường thì trong nền kinh tế đó
hình thành hai loại thị trường tài chính : Loại thị trường phi chính thức vẫn
tồn tại từ trước tới nay, do những người dân trao đổi với nhau, cho vay và trả
cho nhau. Phần thị trường này vẫn đúng một vai trò rất quan trọng trong đời
sống kinh tế của đất nước, đặc biệt là ở các vùng nông thôn miền núi. Điều
đó đó cho thấy hệ thống cơ sở hạ tầng về tài chính của Việt Nam còn rất yếu,
khó đủ sức tích tụ và tập trung đồng vốn vận động thông suốt cho nền kinh
tế tăng trưởng mạnh. Như vậy, một vấn đề cấp thiết đặt ra là làm thế nào thu
hút được nguồn vốn của người dân còn trôi nổi ở thị trường phi chính thức
15
15
để tích tụ và tập trung đưa vào thị trường chính thức qua hệ thống ngân hàng
thương mại và hệ thống thị trường chứng khoán.
3.3 Tích luỹ vốn qua các tổ chức tài chính tín dụng
Trong những năm trước mắt và cả về lâu dài , các tổ chức tài chính tín
dụng vẫn là các trung gian tích tụ và tập trung vốn lớn nhất trong nền kinh
tế, ở nước ta hiện nay khi mà thị trường chứng khoán chưa phát triển thì hoạt
động tích tụ và tập trung vốn chủ yếu thông qua hoạt động ngân hàng, đó
chính là cầu nối để đáp ứng mối quan hệ cung cầu giữa người có vốn dư và
người cần vốn. Khi đáp ứng được điều đó chính là ngân hàng đó chở thành
nhân tố quan trọng để kích thích đầu tư phát triển.
16
16
KẾT LUẬN
Lí thuyết và thực tế đã chứng minh: Tích lũy tư bản ( hay tích lũy
vốn) là một thành tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Với Việt Nam,
khi mà lượng vốn tích lũy còn chưa thực sự nhiều, nhiệm vụ này càng trở
nên cấp thiết. Trong quá trình tích lũy vốn những năm qua, chúng ta đã đạt
được nhiều thành tích đáng ghi nhận. Nhờ có tích tụ và tập trung vốn tốt mà
ngành công nghiệp không ngừng được đổi mới công nghệ, ngành nông
nghiệp không ngừng được ứng dụng những thành tựu khoa học vào trong
sản xuất, ngành ngân hàng làm ăn có hiệu quả. Thế nhưng bên cạnh đó,
không thể phủ nhận rằng quá trình tích lũy vốn ở nước ta vẫn còn tồn tại
nhiều bất cập, khó khăn, một bộ phận vốn không được sử dụng có hiệu quả.
Các nước đi trước, dù thành công hay thất bại, đều đã phải trả giá để có
những bài học quý báu trong lĩnh vực này. Chúng ta là những nước đi sau,
xét trên một khía cạnh nào đó, có thể học hỏi từ các bài học kinh nghiêm của
các nước đi trước, từ đó rút ra những cách thức, phương pháp phù hợp với
nền kinh tế Việt Nam. Những chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc
phát triển kinh tế nói chung và tích lũy vốn nói riêng đã và đang phát huy tác
dụng. Những thành tích mà chúng ta đã đạt được trong suốt thời gian qua đã
dần khẳng định tính đúng đắn của chính sách mở cửa, phát triển nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sớm đạt được mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
17
17
DANH MỤC THAM KHẢO
1. PGS, TS. Nguyễn Viết Thông, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc Gia,2010.
2. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7 - Nxb - CTQG 1991.
3. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8 - Nxb - CTQG 1996.
18
18