TỰ TÌNH
- Trong hệ thống những bài thơ mang chứa tâm sự của Hồ Xuân Hương, "Tự
Tình" là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cơ đơn
thầm thía của người u đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp những cảnh ngộ éo le,
một con người ln khao khát tình u nhưng gặp tồn dang dở bất hạnh.
- “Tự tình” nghĩa là bày tỏ tình cảm của mình, bày tỏ lịng mình, thân phận của
mình. Xuân Hương bộc bạch nỗi niềm của mình cho chính mình nghe. Cái tơi trữ tình
của bài thơ là cái tôi cô đơn, bị bỏ rơi, bị quên lãng trên dịng đời. Đó cịn là cái tơi
táo bạo, muốn phá tung những trói buộc của hồn cảnh, dun phận, khao khát
được hưởng hạnh phúc, tuổi xuân trọn vẹn.
- Bài thơ mở ra từ một khoảnh khắc đặc biệt:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
“Đêm khuya” là lúc mọi suy nghĩ, nỗi niềm của con người lắng đọng lại, con người
đối diện với chính mình, sống thật với mình nhất. Hai chữ “đêm khuya” gợi cho
người đọc liên tưởng tới hình ảnh con người bị bủa vây bởi thời gian lạnh lẽo, trong
không gian mênh mông, quạnh vắng. “Đêm khuya” cũng là thời điểm Hồ Xuân Hương
cảm nhận được trọn vẹn và sâu sắc thân phận mình. Trong khơng gian ấy, chủ thể trữ
tình nghe tiếng trống canh vẳng vẳng vang lên. “Văng vẳng” là âm thanh từ xa vọng
lại, dù là nghe được rất rõ ràng nhưng âm thanh ấy không đủ sức xua đi cái tĩnh mịch
của màn đêm vì vậy mà nó càng làm cho đêm sâu hơn, lịng người càng trống vắng
hơn. Có thể nói, với bút pháp lấy động tả tĩnh, nữ sĩ đã phác hoạ thành công một
không gian hiu quạnh đang bao lấy mình. Hơn thế nữa, bà còn cảm nhận âm thanh
tiếng trống như “dồn” hơn mọi ngày. Từ “dồn” trong câu thơ có thể hiểu là dồn dập
nhưng lại không phải để chỉ nhịp độ của tiếng trống có thực mà dường như đó chỉ là
cảm nhận trong lòng nhà thơ, cảm thức về sự chảy trơi chóng vánh của thời gian.
Cảm thức về thời gian đã dấy lên trong lòng người những lo âu, muộn phiền, trăn trở
về đời mình. Tuổi xuân, nhan sắc, hạnh phúc cũng theo đó mà đi. Càng khao khát
càng tuột khỏi tầm tay.
- Câu tiếp theo: thủ pháp đối lập làm nổi bật cảnh ngộ cô đơn của chủ thể trữ
tình: Trơ cái hồng nhan với nước non
“Trơ” khơng chỉ là trơ trọi, lẻ loi mà còn là bẽ bàng, tủi hổ. Biện pháp đảo ngữ kết
hợp với cách ngắt nhịp rất lạ, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc về nỗi niềm cô
đơn, buồn tủi của nữ sĩ. Hai chữ “Hồng nhan” chỉ nhan sắc, vẻ đẹp của người phụ nữ,
nay gợi ra nỗi xót xa bạc phận của đời người, gợi tả được sâu sắc sự bất công không
phải riêng một kiếp người gánh chịu mà phải chăng đó là tình cảnh chung của bao
phận má hồng. Xuân Hương như cất tiếng nói cho bao bậc tài nữ, tài tình trong xã hội
đương thời. Từ “cái” là từ chỉ đồ vật, như vật thể hoá vẻ đẹp người phụ nữ. Cụm từ
“cái hồng nhan” gợi ra sự rẻ rúng, mỉa mai của xã hội phong kiến đối với dung nhan
thiếu nữ, xem thường giá trị thực sự của nó. Có lẽ vì thế mà trong “Đoạn trường tân
thanh”, Nguyễn Du đã từng viết:
“Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho cho hại, cho tàn, cho cân”.
“Nước non” là hình ảnh tượng trưng cho xã hội, cho cuộc đời. Hai hình ảnh thơ
đối lập đặt cạnh nhau càng tơ đậm thêm tình cảnh đơn cơi, trống vắng của người nữ
sĩ. Thế nhưng, bên cạnh nỗi đau Xuân Hương là bản lĩnh Xuân Hương. Từ “trơ” không
chỉ là tủi hổ, bẽ bàng mà còn là thách thức. Từ “trơ” kết hợp với từ “nước non” thể
hiện sự bền gan, thách đố của Hồ Xuân Hương trước xã hội phong kiến.
- Hai câu thực vừa là ngoại cảnh vừa là tâm cảnh. Nghệ thuật tiểu đối và cặp từ
trái nghĩa: chén rượu - vầng trăng, say - tỉnh, khuyết - trịn góp phần làm nổi bật sự
dở dang, mong manh của duyên phận. Câu thơ nào cũng gợi lên bi kịch của con
người.
Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa trịn
Câu thứ nhất nhấn mạnh bi kịch tinh thần. Dường như Xuân Hương muốn
mượn rượu để quên đi nỗi niềm xót xa, buồn tủi của mình. Nhưng hơi rượu thoảng
qua khơng thể giúp thi sĩ quên được cảnh ngộ muộn màng, lỡ dở ấy. “Say lại tỉnh” bao nhiêu chua chát, đắng cay dồn tụ vào chữ “lại “. Từ “lại” vừa cho thấy - đây
không phải lần đầu thi sĩ khao khát vượt thốt khỏi sự cơ đơn vừa gợi lên cái vịng
quanh quẩn đầy bế tắc của tâm trạng con người. Tỉnh rượu là lúc con người trở về
với thực tại, thấm thía cảnh ngộ bơ vơ và thất vọng vì hạnh phúc vẫn vượt quá tầm
tay với. Nỗi đau dường như tăng lên gấp bội.
Câu thứ hai thể hiện bi kịch éo le của duyên phận, của cuộc đời nhà thơ. Nếu
vầng trăng hiện thân cho mơ ước về hạnh phúc vẹn đầy, là khát khao yêu đương đẹp
đẽ thì “trăng bóng xế, khuyết chưa trịn” là cảnh ngộ ngang trái, trớ trêu. Theo qui
luật khách quan của tự nhiên: trăng khuyết rồi sẽ tròn, nhưng trăng của Xuân Hương,
dù đã xế bóng vẫn khuyết như thuở ban đầu cho nên vầng trăng tàn, khuyết ấy chính
là hình ảnh ẩn dụ cho duyên phận của bà. Từ “khuyết” là nhãn tự của câu thơ, đồng
thời của cả bài thơ, nhấn mạnh sự khuyết thiếu người tri âm. Xuân Hương bị bỏ rơi
trên dịng thời gian vơ tình. Nỗi xót xa buồn tủi không thể giấu được. Nụ cười ngạo
nghễ thách thức ẩn đi, nhường chỗ cho giọt nước mắt đầy vơi. Câu thơ cịn ẩn chứa
đâu đó chút hy vọng mong manh qua từ “chưa”. Chỉ là trăng chưa tròn, nhưng biết
đâu sẽ có lúc trịn. Ngay trong tuyệt vọng Xn Hương vẫn khát khao, có lẽ chính
điều này đã làm nên sức sống mạnh mẽ cho bà.
- Hai câu luận cho thấy rõ hơn bản lĩnh Hồ Xuân Hương, bài thơ chuyển mạch
bất ngờ, mà vẫn tự nhiên, hợp lí:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn
Thi liệu rất đời thường, giản dị, thế mà hình ảnh thơ vẫn sống động và giàu sức
gợi. Thủ pháp đảo ngữ đã đẩy “Xiên ngang, đâm toạc” - những động từ mạnh lên
đằng trước để diễn tả một cách độc đáo qui luật vận động của đá, rêu. Rêu- đá trong
cảm quan của nữ sĩ không phải vật vơ tri vơ giác, nó sống cuộc đời của con người,
biểu hiện trạng thái của con người. Rêu xanh vừa mềm mại, mỏng manh vừa cứng
cỏi, sắc mạnh. Chúng biết “xiên ngang mặt đất” phá bỏ những rào cản trước mặt để
tồn tại, để chứng tỏ mình. Ngay đến sỏi đá cũng quyết liệt dữ dội “đâm toặc chân
mây” để khẳng định sự hiện hữu của mình trên thế gian. “Chân mây, mặt đất” như
những hình ảnh tượng trưng cho xã hội phong kiến đang bó buộc Xuân Hương khiến
cho bà như rêu, đá cũng muốn phá tan, bứt tung những vịng trói ấy mà sống thực là
mình. Hai câu luận đảo trật tự ngữ pháp gây ấn tượng mạnh mẽ về tâm thức quẫy
đạp, phá cách ở người thi sĩ này.
- Hai câu kết đọng lại cảnh ngộ khuyết thiếu trong hạnh phúc lứa đôi.
Ngán nỗi xuân đi xn lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Tồn bài có hai từ “xuân”. Chữ “xuân” hiểu theo hai nghĩa:chỉ thiên nhiên, đất
trời và chỉ tuổi thanh xuân của con người. Mùa xn của thiên nhiên tuần hồn “lại
lại”. Cịn xuân của đời người thì cứ mãi miết ra đi. Từ “lại” thứ nhất là trợ từ, có
nghĩa là thêm lần nữa, từ “lại” thứ hai là động từ, nghĩa là trở về. Vẫn là cái cảm thức
về thời gian tàn nhẫn nhưng trong câu thơ này, nổi bật hơn cả là cảm giác chán ngán.
Câu thơ mang âm vị đắng cay như người đã trải qua những “xuân”, lặp đi lặp lại đến
nỗi không muốn bận tâm đến nữa. Tuổi trẻ khi đã qua thì ước mơ được hạnh phúc,
được yêu thương lại càng xa vời hơn. Xuân của đất trời trôi đi bạc bẽo nhắc con
người nhớ đến cảnh ngộ của chính mình: Mảnh tình san sẻ tí con con.
Hồ Xuân Hương đã gọi cái hạnh phúc mà mình đang có là “mảnh tình”, tức là đã
được sẻ ra từ hạnh phúc của người khác. “Mảnh tình” ấy vốn dĩ đã nhỏ bé mỏng
manh, dễ tan vỡ ,nay lại càng nhỏ nhoi hơn nữa khi phải sẻ san cho người khác, vì
vậy mà nó chi cịn là “tí con con”. Từ láy “con con” như điệp lại, đã nhỏ, sẽ nhỏ hơn
rồi có khi sẽ khơng cịn nữa. Tình càng nhỏ, càng san sẻ thì nỗi đau trong lịng người
càng tăng. Bằng cách nói tăng tiến: “mảnh tình-san sẻ-tí-con con”, nhà thơ đã khắc
họa nỗi đau tột cùng của một người phụ nữ dưới kiếp chồng chung.
Xuân Hương khơng chỉ cất tiếng nói cho chính bản thân mình mà còn than cho
những người đàn bà khác trước cái khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến. Xuân Hương
đã nói một cách mãnh liệt nhất, với cái mạnh mẽ của sự phản kháng trước số phận
của những người phụ nữ nói chung trong xã hội cũ:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng.
Cả bài thơ là mn vàn cảm xúc, có lúc nhà thơ xót xa, nuối tiếc, lúc thì yếu
đuối, đau nhức, lúc lại mạnh mẽ mong muốn thể hiện mong muốn của mình, rồi cuối
cùng lại chán chường thất vọng. Ngôn ngữ thơ mang đậm chất dân gian được sử
dụng khéo léo giàu sức biểu cảm tinh tế. Tài thơ Nôm của Hồ Xuân Hương còn thể
hiện qua việc sử dụng các biện pháp nghệ thụât độc đáo như đảo ngữ, lấy động tả
tĩnh, dùng những động từ mạnh cùng cách viết thơ trữ tình bằng thơ đường luật.
Bài thơ thực sự đã tạo nên một dấu ấn trong sáng tác của Xuân Hương. Nó là
tiếng lịng Xn Hương đồng thời cũng là nói thay cho bao “khách má hồng”.
“Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.