Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM ĐỌC VÀ HIỂU VỀ BÀI HAI ĐỨA TRẺ CỦA THẠCH LAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.44 KB, 13 trang )

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
ĐỌC VÀ HIỂU VỀ BÀI HAI ĐỨA TRẺ CỦA THẠCH LAM

BÀI SỐ 1:

1. Thạch Lam (1910 – 1942) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành
Nguyễn Tường Lân. Thạch Lam sinh ra ở Hà Nội, khi cha mất việc, ông về sống ở huyện
Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Tuổi thơ nơi phố huyện nghèo này đã để lại dấu ấn đậm nét
trong sáng tác của Thạch Lam. Ông cùng với Nhất Linh và Hoàng Đạo là những cây bút
chủ lực của nhóm Tự lực văn đoàn. Tuy vậy, sáng tác của Thạch Lam có phong cách
riêng so với hầu hết các nhà văn lãng mạn 1930 – 1945.
Tác phẩm chính : Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc (tập truyện ngắn), tiểu
thuyết Ngày mới, tiểu luận Theo dòng, tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường…
Tác phẩm của Thạch Lam có một giọng điệu trữ tình rất riêng. Nhẹ nhàng, tình
cảm và giàu chất thơ, tác phẩm của Thạch Lam có khả năng đi sâu vào trái tim người đọc.
Viết về cuộc sống khổ cực hay về những nét đẹp của Hà Nội xưa, văn Thạch Lam đều
thấm đượm tinh thần nhân văn chủ nghĩa.
2. Hai đứa trẻ là truyện ngắn xuất sắc, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
Thạch Lam. Một cách rất nhẹ nhàng mà thấm thía, qua tâm trạng của hai đứa trẻ và cảnh
sống nghèo cực của những người dân nơi phố huyện, nhà văn đã thể hiện những tư tưởng
nhân đạo sâu sắc về thân phận con người. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực, vừa thấm
đẫm tinh thần nhân đạo.
Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện, tác giả thường đi sâu
vào miêu tả nội tâm nhân vật với những cảm xúc và cảm giác mơ hồ, mong manh. Miêu
tả những diễn biến nội tâm tinh tế, sâu sắc của nhân vật là biệt tài của Thạch Lam. Trong
Hai đứa trẻ, nhà văn đã sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản, qua


đó đặc tả được cảnh nghèo và tương lai không mấy sáng sủa của những người dân phố
huyện. Với giọng điệu tâm tình, ngôn ngữ, diễn đạt tinh tế, giàu chất thơ, tác phẩm mang
lại cho người đọc những rung động hết sức tinh tế và nhân bản.


3. Giọng đọc nhẹ nhàng, thể hiện tinh tế cảm xúc và diễn biến nội tâm của chị em
Liên.
II - Kiến thức cơ bản
Thạch Lam là gương mặt khá đặc biệt của nhóm Tự lực văn đoàn. Là thành viên
của nhóm nhưng sáng tác của Thạch Lam không giống với các nhà văn khác cùng nhóm.
Các nhà văn Tự lực văn đoàn thường hướng ngòi bút tới tầng lớp trí thức tiểu tư sản.
Nhân vật của họ thường là những trí thức Tây học, những cô gái mới với những khung
cảnh sống nên thơ, những chuyện tình yêu lãng mạn. Tiến bộ hơn, họ thể hiện sự phản
kháng của những người trẻ tuổi với những nếp sống cổ hủ và những nguyên tắc phong
kiến khắt khe. Nhưng nhìn chung, Tự lực văn đoàn là nhóm sáng tác thiên về cảm hứng
lãng mạn tiêu cực, trốn tránh hiện thực bằng cách xây dựng nên những thế giới của ảo
tưởng để tự an ủi mình. Còn Thạch Lam thì lại khác, văn Tự lực văn đoàn thường đượm
nỗi buồn lãng mạn còn văn Thạch Lam lại chất chứa nỗi đau hiện thực. Ông hướng đến
những con người nghèo khổ, những số phận nhỏ bé bất hạnh. Không gay gắt, cay nghiệt
như Vũ Trọng Phụng, không sâu xa như Ngô Tất Tố hay hài hước như Nguyễn Công
Hoan trong phản ánh hiện thực nhưng văn của Thạch Lam vẫn thể hiện những giá trị hiện
thực sâu sắc.
Truyện ngắn của Thạch Lam thường giàu chất trữ tình, truyện không có cốt truyện.
Nhà văn không tạo dựng những tình huống truyện éo le, gay cấn, cũng không có những
xung đột thiện ác, giàu nghèo gay gắt. Truyện của Thạch Lam chỉ như những đoạn thủ thỉ
tâm tình, nhẹ nhàng mà thấm thía, nhưng vẫn có giá trị phản ánh hiện thực và thể hiện
những tư tưởng nhân văn sâu sắc. Hai đứa trẻ là câu chuyện về một ngày thường như bao
ngày tháng khác ở một phố huyện. Nhà văn chọn bối cảnh là một ngày chợ phiên. Và thời
điểm bắt đầu truyện là cảnh chợ chiều vừa tàn. Các tình tiết được kể tự nhiên theo chiều
thời gian tuyến tính. Liên và An dọn hàng và bắt đầu ngồi chờ đợi chuyến tàu đêm. Cuộc


sống của chị em Liên và những người dân nơi phố huyện như vợ chồng bác Xẩm, mẹ con
chị Tí, bác phở Siêu đều chẳng có gì đặc biệt. Tất cả đều bàng bạc, lặng lẽ và lầm lụi.
Chuyện chợ tàn, chuyện chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua với một chút hi vọng được nhìn

thấy trong một khoảnh khắc rất ngắn thứ ánh sáng sang trọng trên những toa tàu, hồi ức
về những ngày sống sung sướng ở Hà Nội của hai đứa trẻ và những suy nghĩ của cô bé
Liên là tất cả tình tiết cơ bản của câu chuyện. Một câu chuyện dung dị, đời thường, không
tô vẽ và một lối kể chuyện như tâm tình thủ thỉ với chính mình là những nét riêng trong
nghệ thuật kể chuyện của Thạch Lam ở Hai đứa trẻ.
Trong Hai đứa trẻ, nhà văn đặc biệt chú ý đến miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật.
Chính vì thế mới gọiHai đứa trẻ là loại truyện ngắn trữ tình. Nhà văn chú ý miêu tả tâm
trạng của cô bé Liên. Cảnh vật cũng được nhìn bằng ánh mắt của Liên. Là nhân vật trung
tâm của truyện, những hành động của Liên không được chú tâm miêu tả. Câu chuyện như
một dòng tâm trạng của nhân vật, từ khi chứng kiến cảnh chiều xuống đến khi chuyến tàu
đêm đi qua. Có thể nói nhân vật Liên thuộc loại nhân vật trữ tình trong văn xuôi. Qua
những cảm nhận của Liên về cảnh vật và cuộc sống xung quanh, nhà văn thể hiện một
nỗi buồn thấm thía và sâu sắc về số phận con người. Nỗi buồn của cô bé Liên cứ tăng tiến
dần theo sự muộn dần của đêm. Khi chợ tàn và khi nhìn cảnh chiều đến, một buổi chiều
êm như ru của phố huyện, lòng Liên man mác buồn mà không rõ nguyên nhân. Khi bóng
đêm bao trùm phố huyện, “một đêm mùa hạ êm như nhung”, lại càng đáng sợ hơn. Cuộc
sống quá buồn tẻ. Chẳng hứa hẹn một điều gì thay đổi cả. Nỗi buồn của Liên không trực
tiếp thể hiện qua ngôn ngữ mà thể hiện ở ánh mắt “trong mắt chị bóng tối ngập đầy
dần”, qua tâm trạng chờ đợi chuyến tàu đêm. Cuộc sống nơi phố huyện nghèo ấy vô
cùng đơn điệu, ngày hôm sau là sự lặp lại y nguyên ngày hôm trước : chị Tí lại dọn hàng
nước dù chẳng hi vọng gì nhiều, vợ chồng bác Xẩm xuất hiện với chiếc đàn bầu ảo não,
người nhà thầy thừa đi gọi người đánh tổ tôm… Kể cả buổi chợ đúng phiên cũng tiêu
điều xơ xác, hàng họ bán chẳng được là bao. Cuộc sống tối tăm và ngột ngạt, đơn điệu và
buồn tẻ. Sống trong cảnh bế tắc ấy, những người như chị em Liên đã tìm được một cứu
cánh tinh thần. Họ đã hàng đêm miệt mài ngồi chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua với chút hi


vọng vô cùng mong manh. Liên và An háo hức chờ đợi chuyến tàu để được gặp lại chút
ánh sáng của những ngày còn được sống sung túc. Những người bán hàng chờ đợi khách
xuống tàu dù họ vẫn biết chẳng mấy khi có khách xuống ở cái ga xép này. Họ đều chờ

đợi và khi chuyến tàu đi qua là một ngày đã khép lại. Chuyến tàu là nơi gửi gắm niềm hi
vọng hàng đêm của họ và nó mang đến phố huyện một luồng ánh sáng mới dù chỉ trong
chốc lát để họ có thể thoát ra khỏi sự yên ả đến ghê sợ của đêm. Đó là thời điểm vui nhất
của chị em Liên bởi chuyến tàu là thứ ánh sáng tinh thần duy nhất để chị hồi ức lại những
ngày đã qua. Chuyến tàu mang đến chút sôi động trong chốc lát nhưng cũng lại làm tăng
lên cái ảm đạm và tĩnh mịch của đêm phố huyện. Qua diễn biến nội tâm của nhân vật,
nhà văn đã thể hiện thật sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của những con người nhỏ bé. Những
kiếp người nhỏ bé vô danh nơi phố huyện nhỏ ấy rất dễ bị xã hội lãng quên. Tâm trạng
của Liên cũng là tâm trạng chung của bao người đang phải sống trong bế tắc của những
thân phận nhỏ bé, nghèo hèn. Nhà văn đã thể hiện một niềm cảm thông sâu sắc và tình
thương yêu đối với những người không may mắn ấy.
Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và vẻ đẹp thẩm mĩ của tác phẩm còn được thể
hiện ở nghệ thuật lựa chọn và sáng tạo chi tiết của tác giả. Chọn những chi tiết có sức gợi
tả cùng với thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản, nhà văn đã khắc hoạ thành công
cảnh nghèo và cảnh sống buồn tẻ, bế tắc của người dân nơi phố huyện nghèo thời kì
trước Cách mạng. Miêu tả sự nghèo nàn, tàn tạ, tác giả không tả nhà cửa, cửa hàng hay
cảnh làm ăn, sinh hoạt mà chọn tả cảnh chợ tàn với hình ảnh “mấy đứa trẻ con nhà nghèo
ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh
tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của người bán hàng để lại…”. Nhưng chắc rằng
chúng khó kiếm được gì bởi những thứ còn bỏ lại ở chợ chứng tỏ đây là miền quê chẳng
giàu có gì. Cảnh chợ tàn bao giờ cũng gợi buồn và càng tàn tạ hơn với cảnh một phiên
chợ chiều nghèo khó. Chỉ với những chi tiết nhỏ vậy thôi, cách tả của Thạch Lam làm
cho người ta thấy buồn thấm thía. Khi miêu tả sự nghèo đói, Ngô Tất Tố để chị Dậu phải
bán chó, bán con thậm chí có nguy cơ phải bán mình. Nguyễn Công Hoan để vợ chồng
anh Pha phải rơi vào bước đường cùng, Nam Cao để Chí Phèo, để nhà văn Hộ phải đánh


mất cả nhân cách của mình. Sự đói khổ huỷ hoại cả thể xác và linh hồn con người. Thạch
Lam thì khác. Nhẹ nhàng nhưng thấm thía, nhà văn trữ tình này để cho cuộc sống tự nó
bộc lộ và bản chất xã hội tự nó thể hiện mình mà vẫn phản ánh được bộ mặt thật của hiện

thực. Cái độc đáo trong lựa chọn chi tiết của Thạch Lam là như vậy. Chỉ bằng chi tiết mà
tái hiện được cả bộ mặt hiện thực.
Nghệ thuật lựa chọn chi tiết còn được thể hiện khi miêu tả cảnh đêm. Nhà văn đã
dùng ánh sáng để miêu tả bóng tối. ánh sáng ngọn đèn dầu ở hàng nước chị Tí, ở gánh
phở của bác phở Siêu làm nổi bật sự mênh mông của đêm tối ở làng quê. Nghệ thuật
tương phản làm người đọc cảm nhận rõ hơn sự mênh mông của đêm tối. Còn ánh sáng
đoàn tàu vụt qua trong thoáng chốc với những ồn ào và sôi động của nó càng tăng thêm
sự tĩnh mịch, tăm tối và buồn tẻ nơi phố huyện nghèo. Và ánh sáng ngọn đèn dầu của chị
Tí chập chờn đi vào giấc ngủ của Liên – hình ảnh kết thúc câu chuyện- đã để lại một
niềm day dứt, một dư âm cho tác phẩm
Nhẹ nhàng và tinh tế, Thạch Lam đã vẽ lên một bức tranh đầy sức gợi về một phố
huyện nghèo. Qua tâm trạng của Liên, cuộc sống của hai chị em và người dân nơi phố
huyện ấy, nhà văn không chỉ phản ánh hiện thực mà còn thể hiện một tư tưởng nhân văn
có giá trị lâu dài. Trước hết, tác phẩm là bức tranh chân thực về đời sống phố huyện
nghèo với những kiếp người nhỏ nhoi, tội tình (hai đứa trẻ, chị bán hàng nước ban ngày
đi mò cua xúc tép, vợ chồng người hát xẩm&hellip. Chẳng có gì đảm bảo cho tương lai
của họ. Phía trước họ càng nhìn càng tối, ánh sáng của hi vọng dù có nhưng chỉ le lói ở
chính nơi họ ngồi. Hiện thực thì nghèo khó, không gì hứa hẹn ở tương lai, những con
người nhỏ bé ấy sống như thế nào. Họ gửi gắm ước mơ vào chuyến tàu đêm với một
luồng ánh sáng phù hoa tan biến rất nhanh. Qua việc tả cảnh kiên trì hàng đêm chờ tàu
qua rồi mới dọn hàng, mới đi ngủ của những con người ấy, nhà văn muốn thể hiện một tư
tưởng nhân văn. Đó là khẳng định sự bất diệt của khát vọng, ước mơ. Cuộc sống dù
nghèo khổ, tăm tối và bế tắc đến đâu cũng không thể dập tắt được hi vọng và khát vọng
của con người.


Tác phẩm đã thể hiện tình thương yêu vô bờ và sự trân trọng của nhà văn đối với
những thân phận nhỏ bé trong xã hội. Một cốt truyện nhẹ nhàng nhưng giá trị thật sâu sắc
và thấm thía. Với một con đường rất riêng, ngòi bút của Thạch Lam đã đánh thức lòng
trắc ẩn trong tâm hồn mỗi con người và làm nảy sinh ở họ những tình cảm nhân văn cao

đẹp.
III - Liên hệ
1. Vậy có thể kết luận được chăng : sức hấp dẫn chủ yếu của những trang viết
Thạch Lam là ở tâm hồn dân tộc. Thật vậy, có thể nói thêm rằng : chính mảnh hồn dân
tộc ấy trong tâm linh nhà văn Thạch Lam đã chi phối ngay cả quan điểm sáng tác hiện
thực lẫn tinh thần nhân đạo (như người Việt sống vốn giàu tình cảm cộng đồng : “Bầu ơi
thương lấy bí cùng…”, và chan chứa tình người : “Thương người như thể thương
thân”&hellip. Rồi cũng chính tính cách Việt sẽ chi phối một nét văn phong khó lẫn của
tác giả Gió đầu mùa, đó là tính “duy cảm” nổi bật trong não trạng người Việt : “Trong
những truyện ngắn trong tập Gió đầu mùa của Thạch Lam, người ta thấy rất nhiều đoạn
mà cảm tình, cảm tưởng hay cảm giác có một địa vị rất quan trọng, nhiều khi nó là then
chốt cho cả một truyện” (Vũ Phan – Nhà văn hiện địa ; quyển tư, tập hạ). Hồn dân tộc
thấm đẫm trái tim, ý thức dân tộc sáng trong trí não ; do đó Thạch Lam mới viết được
những dòng như tuyên ngôn về tinh thần tự hào dân tộc trong tác phẩm bút ký đặc sắc Hà
Nội băm sáu phố phường : “Người Pháp có Paris, người Anh có London, người Tàu có
Thượng Hải… Trong các sách vở, trên các báo chí, họ nói đến thành phố của họ một
cách tha thiết, mến yêu… Ta phải nghe người Pháp nói đến Paris, người ở Paris mới
hiểu được sự yêu quý ấy đến bực nào. Chúng ta cũng có Hà Nội, một thành phố có nhiều
vẻ đẹp, vì Hà Nội đẹp thật (chúng ta chỉ còn tìm những vẻ đẹp ấy ra), và cũng chính vì
chúng ta yêu mến. Yêu mến Hà Nội cũng như người Parisien chính hiệu yêu mến
Paris…” ; và mới có được những cảm nhận rất phong phú và tinh tế khi thưởng thức tính
độc đáo của món quà dân tộc “đặc sắc bình dân” là cốm mới mùa thu : “Cơn gió mùa hạ
lướt qua vừng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về
của một thức quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy, khi đi qua những cánh


đồng xanh, mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm
mát của bông lúa non không ? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng
phất hương vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đông lại, bông lúa càng
ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời […]. Cốm là thức quà

riêng biệt của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang
trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam”
(Hà Nội băm sáu phố phường). Có thể xem truyện ngắn Hai đứa trẻ như một phiên bản
thu nhỏ hầu hết những đặc điểm về nội dung tư tưởng tình cảm cũng như văn phong
Thạch Lam đã nói ở trên.
2. Cái tài của Thạch Lam là ở chỗ : thật dung dị, thật nhẹ nhàng, chỉ bằng vài trang
văn xuôi giàu chất thơ mà đưa được người đọc về một thế giới của một cuộc sống tối
tăm, buồn tẻ, đáng thương… đáng thương nhất là hai đứa trẻ. Vì lẽ ấy, tác phẩm là một
lời kêu cứu : Hãy cứu lấy cuộc sống của những con người như Liên và An, hãy tìm cách
cải tạo sự tẻ nhạt của những “ao đời” tù đọng…
3. … Trong văn hoá Việt Nam trước Cách mạng 1945, Thạch Lam là một trong số
những nhà văn được nhiều cảm tình của người đọc. Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh,
nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc. Dưới cái hình thức không
những thoát ra khuôn sáo cũ của cách hành văn đương thời mà lại có rất nhiều đức tính
sáng tạo ấy, văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn
nhạy cảm và từng trải về sự đời. Thạch Lam có những nhận xét tinh tế về cuộc sống hàng
ngày. Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân
cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo thành thị khác và thôn quê. Thạch
Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người chung
quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những
tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học. Mặc dù in ra ít, sách Thạch Lam có đánh dấu
lại được cái tâm hồn súc tích, rộng rãi và tiến bộ của một nhà văn xuôi chân chính…


BÀI SỐ 2:

Tác giả: Thạch Lam (1910-1942)
a. Cuộc đời:
- Ông là nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn.
- Đặc điểm con người: Sống trầm tĩnh và điềm đạm, rất tinh tế. Đặc điểm ấy để lại

dấu ấn rõ nét trong sáng tác của ông.
b. Quan điểm sáng tác
- “Văn chương không phải đem đến cho người đọc sự thoát li, sự quên những thứ
đen tối trước mặt mà trái lại văn chương là một thứ vũ khí thanh cao để vừa tố cáo vừa
thay đổi thế giới giả dối và tàn ác và làm cho lòng người được trở nên trong sạch và
phong phú hơn.” Vì thế tuy là một nhà văn lãng mạn nhưng sáng tác của ông có xu
hướng nghiêng về hiện thực mà “Hai đứa trẻ” là một minh chứng cho điều đó.
c. Đặc điểm sáng tác.
- Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn với một lối viết riêng: truyện của ông thường
không có cốt truyện, li kì, đặc biệt. Các tình huống truyện, sự kiện chủ yếu mang chức
năng bộc lộ trạng thái tâm trạng. (Các nhân vật thường ít nói năng, hành động. Vì thế
truyện ngắn của ông được gọi là truyện ngắn tâm tình giàu sắc thái trữ tình và mang đậm
chất thơ).
- Ông là nhà văn mở đường cho kiểu viết truyện ngắn không có cốt truyện li kì.
- Thế giới nhân vật trong truyện của ông thường là lớp trí thức nghèo khổ ở những
làng quê nghèo, phố huyện nghèo khổ.
- Không khí chung trong nhiều truyện ngắn của ông thường có nét buồn, tiêu điều,
xơ xác. Sự sống như tàn lụi, mòn mỏi.
=> Các đặc điểm trên được thể hiện rõ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.


2. Tác phẩm:
- Là truyện ngắn được in trong tập “Nắng trong vườn” xuất bản năm 1938. Đây là
tác phẩm được coi là tiêu biểu nhất trong phong cách viết truyện ngắn của Thạch Lam.
B. Đọc – hiểu tác phẩm
1. Phần 1: Từ đầu … tiếng cười khanh khách nhỏ dần về cuối làng: Cảnh phố
huyện lúc chiều xuống. => Tác giả tập trung thể hiện tâm trạng buồn man mác, mơ hồ,
khó hiểu của chị em Liên trước cảnh ngày tàn.)
2. Phần 2: “Trời đã bắt đầu đêm… tâm hồn Liên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ
hồ không hiểu: Cảnh phố huyện trong đêm tối" => Tác giả tập trung mô tả tâm trạng

buồn khắc khoải trong cảnh đời chờ mong ước một cái gì tốt đẹp, tươi sáng hơn cho cuộc
sống leo lét, tù đọng trong hiện tại.
3. Phần 3: Đoạn còn lại => Cảnh phố huyện nghèo lúc đoàn tàu từ Hà Nội về và
tâm trạng buồn thấm thía về cuộc sống mỏi mòn không thể đổi thay còn những gì tốt đẹp,
tươi sáng mà hai chị em Liên mong ước chỉ là kì vọng quá xa xôi giống như một đoàn tàu
từ Hà Nội về vụt qua phố huyện.
=> Nhận xét chung: Bố cục 3 phần của câu truyện đều tập trung lí giải lí do thức
đợi được nhìn chuyến tàu từ Hà Nội về.
II. Nội dung tác phẩm
1. Tác phẩm tập trung thể hiện cuộc sống lụi tàn leo lét của những kiếp người sống
nghèo đói không ánh sáng, không hạnh phúc, không tương lai.
Mở đầu là cảnh ngày tàn:
- Ánh mặt trời trong buổi chiều ấy được tác giả ví như hòn than sắp tàn.
- Đồng điệu với ngày tàn là chợ tàn: mọi người về hết, tiếng ồn ào cũng mất, trên
mặt đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía… Các sự vật cũng tàn tạ: cái
chõng cũng sắp tàn.


- Cuối cùng hiện lên giữa cái không gian và thời gian tàn tạ ấy là những mảnh đời,
những kiếp người cũng tàn tạ:
+ Những đứa trẻ đi nhặt rác, tiếp đó là hình ảnh bà cụ Thi điên xuất hiện – người
điên thì cuộc đời cũng gần như tàn tạ, vô nghĩa.
+ Gánh hàng nước của hai mẹ con chị Tí với một gia tài còm cõi – tất cả chỉ trên
vai người mẹ và bàn tay đứa trẻ. Hai mẹ con chị ngày thì đi bắt cua, bắt ốc, đêm đến dọn
hàng nước nhưng cũng như mọi hôm, hai mẹ con chị cũng không hi vọng vì chi thốt lên:
“Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì.”
+ Gánh phở của bác Siêu xuất hiện bằng hình ảnh có vẻ như tươi sáng, đáng giá
nhất nhưng lại ế ẩm vì quá xa xỉ, nhiều tiền, không phải ai cũng mua được.
+ Gia đình bác xẩm với tiếng đàn ế ẩm không có người nghe.
+ Nổi bật lên giữa những mảnh đời ấy là hình ảnh hai chị em Liên. Mặc dù họ có

một gian hàng để bán nhưng gia tài chẳng đáng bao nhiêu. Với gia tài như thế, họ cũng
không hi vọng có một cuộc sống khá giả hơn.
=> NX chung: Có thể nói mỗi con người xuất hiện trong câu truyện đều có một
cảnh ngộ riêng nhưng đều mang một đặc điểm chung là tất cả đều sống trong mòn mỏi,
buồn chán, bế tắc, không một chút hi vọng gì về cuộc sống hạnh phúc, tươi sáng hơn
nhưng điều quan trọng nhất là tất cả những mảnh đời ấy, cảnh ngộ ấy đã hiện lên qua cái
nhìn bùi ngùi, thương cảm của nhà văn. Tất cả được thể hiện rất rõ qua cách hành văn,
qua những chi tiết tưởng như ngẫu nhiên: mùi vị của đất, cảnh chợ tàn, hai đứa trẻ nghĩ
đến bát phở…đặc biệt là chi tiết ánh đèn leo lét nơi ngọn đèn hàng nước của chị Tí cứ láy
đi láy lại (xuất hiện 7 lần trong tác phẩm) tạo ra ở người đọc nỗi thương cảm trong khi đó
hiện tại là một màn đêm dày đặc đầy bóng tối. Kết thúc tác phẩm, hình ảnh ngọn đèn ấy
gây một ấn tượng day dứt cuối cùng đi vào giấc ngủ của chị em Liên: “Liên thấy mình
sống giữa bao sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng
đất nhỏ”.


2. Nhịp sống ở phố huyện nghèo trong câu truyện cứ lặp đi lặp lại một cách quẩn
quanh đơn điệu, tẻ nhạt và tù túng:
- Chị em Liên chiều nào cũng ngồi đếm tiền dù họ chẳng bán được bao nhiêu,
ngày nào cũng ngồi trên chiếc chõng sắp tàn và đêm nào cũng kiên nhẫn thức chờ đợi để
được nhìn tàu từ Hà Nội về.
- Mẹ con chị Tí dù chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào cũng dọn hàng
- Gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt để trước mặt, nhưng bác
chưa hát vì chưa có khách nghe thì thỉnh thoảng góp chuyện bằng tiếng đàn bầu bật trong
yên lặng.
+ Cảnh sống của họ thật bấp bênh, bế tắc. Chừng ấy người trong bóng tối ngày
này qua ngày khác cứ sống trong sự quẩn quanh, tẻ nhạt ấy. Đó là lối sống mà Xuân Diệu
từng viết: “Hết cơm mai rồi lại cơm chiều”.
+ Đó là cuộc sống của những con người trong ao đời bế tắc, tù túng nhưng cũng
chính đó lại là lí do thức đợi tàu của bằng ấy mảnh đời nơi phố huyện nghèo bởi chuyến

tàu đêm từ Hà Nội về như đem đến cho họ một thế giới khác hẳn. Đó là hình ảnh của một
cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc hơn mà bằng ấy con người trong đêm tối mong ước, hi
vọng và hướng tới. Qua đó ta thấy được cái nhìn đầy cảm thông, trân trọng với những
khát vọng, ước mơ đổi đời của những mảnh đời nghèo khổ, lam lũ trong phố huyện
nghèo mặc dù hi vọng đó chỉ mong manh mơ hồ như chuyến tàu vụt qua. Nó quá xa vời,
vô vọng như ánh sao trên trời không thể vươn tới.
3. Tâm trạng nỗ lực, kiên trì thức đợi tàu của chị em Liên.
a. Lí do thức đợi tàu
- Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vì đó là hình ảnh của tuổi thơ
hạnh phúc trong quá khứ đã mất. Nay được nhìn đoàn tàu, hai chị em Liên tưởng như
đang được sống lại trong giây lát tuổi thơ hạnh phúc đã mất.


- Vì đó là hình ảnh của một thế giới khác hẳn cuộc sống tăm tối nơi phố huyện. Đó
là hình ảnh của tương lai cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc mà hai đứa trẻ hằng mong
ước, chờ đợi. Bởi thế mà khi đoàn tàu đi rồi “Liên vẫn lặng theo mơ tưởng”.
- Được nhìn thấy chuyến tàu đêm vì đó là nhịp sống sôi động cuối cùng của một
ngày.
- Không chỉ vậy, hai chị em còn thức đợi tàu để có thể bán thêm một ít hàng cho
hành khách theo như lời của mẹ.
b. Ý nghĩa của tâm trạng thức đợi tàu:
- Chuyến tàu đêm là biểu tượng cho sự sống có ánh sáng, có hạnh phúc, nó hoàn
toàn đối lập với cuộc sống mỏi mòn, quẩn quanh, bế tắc của người dân phố huyện.
=> Qua tâm trạng thức đợi tàu, Thạch Lam đã thể hiện thái độ trân trọng, thương
cảm đối với những kiếp người nhỏ bé sống trong nghèo nàn, tăm tối. Qua tâm trạng đó,
nhà văn như muốn lay tỉnh những con người đang sống trong buồn chán, quẩn quanh, bế
tắc: “Hãy nỗ lực vươn lên một cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc”. Nhà văn hi vọng họ
không chấp nhận, không cam chịu đựng sống trong ao đời tù túng, mòn mỏi nơi phố
huyện mà hãy chờ đợi, hi vọng hướng tới một cuộc sống hạnh phúc, tươi sáng hơn. Đó
cũng là niềm tin của nhà văn: cho dù họ sống trong tù túng, mòn mỏi vẫn không mất đi

khát vọng hướng tới cuộc sống hạnh phúc.Mặt khác qua tâm trạng đó, nhà văn Thạch
Lam lên tiếng tố cáo, lên án xã hội đã vùi dập, đẩy con người vào cuộc sống tăm tối, nhất
là trẻ thơ. Cuộc sống nơi phố huyện có khác nào mảnh đất cằn cỗi, bạc phếch mà hai chị
em Liên như hai mầm non mọc trên đó sẽ ra sao? Nó sẽ tàn héo, lụi tàn. Nhà văn lên
tiếng đòi thay đổi cuộc sống, đem lại cho những đứa trẻ cuộc sống xứng đáng hơn, có
hạnh phúc, có tương lai.
4. Qua “Hai đứa trẻ” nhà văn còn thể hiện tấm lòng thiết tha gắn bó với quê
hương, đất nước, thiên nhiên.
- Qua câu truyện, tác giả đã dựng lên cái gần gũi, thân thiết, rất gần gũi, thân thiết,
gợi cảm.


- Các nhân vật trong câu truyện dù sống trong cuộc sống tù đọng, leo lét, mòn mỏi
vẫn thiết tha với cuộc sống nơi phố huyện: “Một mùi ẩm thấp bốc lên, hơi nóng của ban
ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất,
của quê hương này”.
- Dù sống trong nghèo khổ, lam lũ, hai đứa trẻ vẫn thiết tha ngắm sao và tìm sông
Ngân Hà và con vịt theo sau ông thần Nông, ngắm những đợt hoa bàng khẽ rơi khe khẽ,
vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây.
=> Đó là những hình ảnh của quê hương, đất nước rất thân thuộc quanh ta nhưng
qua cách hành văn nhẹ nhàng, dịu dàng đầy chất thơ đã trở nên gợi cảm biết bao. Từ đó
nhà văn bồi đắp cho người đọc tình yêu quê hương đất nước



×