Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Những bài văn bài hai đứa trẻ thạch lam ngữ văn 11 (16)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.15 KB, 21 trang )

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
BÀI VĂN MẪU “CẢM NHẬN CỦA BẠN VỀ HÌNH TƯỢNG BÓNG TỐI
TRONG TRUYỆN NGẮN HAI ĐỨA TRẺ CỦA THẠCH LAM”

BÀI VIẾT SỐ 1:

Ít có nhà văn nào mà hình tượng bóng tối lại đi vào tác phẩm nhiều như Thạch
Lam. Có thể đậm nhạt khác nhau, nhưng trong truyện ngắn của ông, từ Nhà mẹ Lê đến
Cô hàng xén, Đêm ba mươi tết, … bóng tối ấy đều xuất hiện như những ám ảnh sâu sắc
trong người đọc, tiêu biểu nhất là cái bóng tối trong truyện ngắn Hai đứa trẻ đã thành một
ấn tượng không thể nào quên.
Đúng vậy, ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở
lại … như một ám ảnh không dứt như trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam: tác phẩm
mở đầu bằng những dấu hiệu của một “ngày tàn và kết thục bằng một “đêm tịch mịch
đầy bóng tối”, ở trong đó, màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả; đường phố và các
ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường
qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Một tiếng trống cầm canh ở
huyện, đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi cùng chìm
ngay vào bóng tối… Cả đoàn tàu từ Hà Nội mang ánh sáng lướt qua trong phút chốc rồi
cũng “đi vào đêm tối” … Người đọc cảm nhận đây không chỉ là đêm tối của thiên nhiên,
của không gian và thời gian, mà còn là bóng tối của cuộc đời, của những kiếp người nơi
phố huyện. Một bức tranh thiên nhiên đầy ấn tượng, được vẽ lên bằng những nét bút tinh
tế, lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Trong cái phông của khung cảnh bống tối dày đặc này, là những mảnh đời của
những con người sông trong tăm tôi. Họ là những con người bình thường, chỉ xuất hiện
thoáng qua, hầu như chỉ như một cái bóng, từ hình ảnh mẹ con chị Tí với hắng nước tồi


tàn đên một gia đình nhà xẩm sông lê la trên mặt đất, cho đến cả những con người không
tên: một vài người bán hàng về muộn, những đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt
nhạnh tìm tòi … Tất cả họ không được Thạch Lam miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân,


sô phận … nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai
cũng sống âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ giống như những cải bóng lầm lũi, lặng lẽ trong
cái bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả phố huyện. Bóng tối ấy bủa vây kín mít khiên cho
ngọn đèn leo lét của hàng nước chị Tí “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ” và ánh lửa từ
thùng phở bác Siêu cũng chỉ hắt ra một vầng sáng con con. Không phải ngẫu nhiên mà
hình ảnh ngọn đèn chị Tí cứ trở đi trở. lại đến bảy lần trong mấy trang truyện ngắn như
một biểu tượng đầy ám ảnh về những kiếp sông nhỏ nhoi leo lét, vô nghĩa giữa đêm tối
mênh.mông của cuộc đời. “Ngọn đèn và ánh lửa cuộc đời” ấy thật yếu ớt và tội nghiệp
gợi lên niềm xót xa thương cảm trong lòng người đọc trước một cảnh sống, mỏi mòn và
ngưng đọng. Cảnh phô’ huyện chiều tối hôm nay cũng giống như hôm qua và sẽ lặp lại
trong ngày mai: mẹ con chị Tí lại lễ mễ dọn hàng, bác phở Siêu lại gánh hàng ra và thổi
lửa, bác xẩm lại rải chiếu và bày cái thau sắt… Nhịp sống ấy cứ lặp đi lặp lại ngày này
sang tháng khác, đơn điệu, uể oải, buồn tẻ.
Và càng đau xót, ám ảnh hơn khi cái bóng tối ấy đã len vào con người, hủy hoại
cuộc sống con người, làm cho tâm hồn họ bị chai sạn và xơ cứng. Mà con người đó lại là
những em bé mới lớn, còn ngây thơ trong trắng. Mở đầu tác phẩm ta bắt gặp hình ảnh
Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái
buồn của buổi chiều xuyến thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị” và “chị thấy buồn man
mác trước cái giờ khấc của ngày tàn”. Thạch Lam không miêu tả tỉ mỉ đời sống vật chất
của Liên, nhà văn chủ yếu đi sâu thể hiện thế giới tinh thần của nhân vật với nỗi buồn
man mác, mơ hồ của một cô bé không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng cũng chưa phải là
người lớn. Tác giả gọi “chị” vì quả Liên là một người chị biết quan tâm săn sóc em, biết
đảm đang tảo tần thay mẹ, nhưng tâm hồn Liên thì vẫn còn là tâm hồn trẻ dại với những
khao khát hồn nhiên, thơ ngây, bình dị. Một tâm hồn như thế mà “buồn man mác trước


cái giờ khắc của ngày tàn” thì thật thấm thía biết bao, đáng cho ta suy nghĩ biết bao về
cảnh sống lúc bây giờ nơi phố huyện.
Liên đã nhìn thấy những con người bé nhỏ, tội nghiệp lầm lũi đi vào bóng tối: mẹ
con chị Tí bán hàng nước, bác phở Siêu, gia đình bác xẩm và bà cụ Thi điên cười sằng

sặc … Cuộc đời Liên cũng đã âm thầm đi vào bóng tối từ lúc nào, cô đã sống trong cái
bóng tối dày đặc của phố huyện từ bao lâu … mà đến nay, “đêm tối đối với Liên quen
lắm, chị không sợ nó nữa”. “Không sợ nó nữa” nghĩa là đã từng sợ. Chỉ mấy từ “không
sợ nó nữa” mà gợi ra bao liên tưởng. Hẳn là Liên đã từng sợ cái bóng tối dày đặc đã từng
bao vây những ngày đầu mới dọn về đây. Còn bây giờ Liên đã “quen lắm”. Sống mãi
trong bóng tối rồi cũng thành quen cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi
khổ. Có một cái gì tội nghiệp, cam chịu qua hai từ “quen lắm” mà nhà văn đùng ở đây.
Và người đọc cũng cảm thấy xót xa khi một tâm hồn thơ ngây non trẻ đã bị vùi sâu trong
bóng tối của cuộc đời đến mức thành chai sạn. Một câu văn ngắn mà hàm chứa bao ý
nghĩa, để lại nhiều dư vị, dư vang.
Cuối cùng là những con người dường như đã chìm ngập trong cái bóng tối của
cuộc đời không còn biết gì đến ánh sáng nữa như gia đình, bác xẩm lê la trên manh chiếu
rách và “ngủ gục trong bóng tối tự bao giờ”, như bà cụ Thi lảo đảo đi vào bóng tối và
mất hút trong cái bóng tối ấy. Những người khác còn lại chút ánh sáng thì mong manh
yếu ớt biết bao: ngọn đèn trên chõng hàng nước chị Tí “chỉ chiếu sáng một vùng đất
nhỏ”, ánh lửa từ thùng phở bác Siêu cũng chỉ hắt ra một vầng sáng con con còn ngon đèn
của “hai đứa trẻ” chỉ là “những hột sáng lưa thưa lọt qua phên nứa” … Bóng tối của phố
huyện đã bủa vây mịt mùng, kín mít, ngự trị lên cuộc đời nghèo nàn, tăm tối của họ …
Hình tượng bóng tối trong truyện ngắn Hai đứa trẻ chính là hiện thực cuộc đời lúc bấy
giờ: cuộc đời của những kiếp người nhỏ bé, vô danh, không bao giờ được biết đến ánh
sáng và hạnh phúc, cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm tối, nghèo đói, buồn chán
nơi phố huyện, và nói rộng ra, trên đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ và đói nghèo.
Hình tượng bóng tối là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Thạch Lam, gieo vào lòng ta


một niềm xót thương vô hạn đối với những kiếp người như thế, và hơn bảy thập kỉ qua,
nó vẫn là một ám ảnh sâu sắc không thôi đối với nhiều thế hệ người đọc.


BÀI VIẾT SỐ 2:


I.Giới thiệu tác giả Thạch Lam và phong cách nghệ thuật
Thạch Lam (1910-1942) là một trong các nhà văn lãng mạn nổi tiếng giai đoạn 3045. Khi những nhà văn khác như Nhất Linh, Khái Hưng thiên về tầng lớp trên xã hội thì
Thạch Lam lại lặng lẽ viết về những con người nhỏ bé, nghèo khổ Họ thường nép mình
trong bóng tối của một không gian hẹp: phố huyện tiêu điều xơ xác hoặc những xóm
nghèo ngoại ô Hà Nội,… mà không dám nhìn về tương lại, mạng nặng một mặc cảm
trong lòng khi nghĩ về mai sau. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút của mình về phía họ với tấm
lòng trắc ẩn chân thành.Văn Thạch Lam nhẹ nhàng với lối quan sát độc đáo và phân tích
tâm lí tinh tế. Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện, ít hành động, ít sự kiện, nhưng
đầy ắp những tâm trạng bâng khuâng. Nó có chiều sâu hun hút, chiều sâu của cuộc sống,
chiều sâu của lòng người. Mỗi câu chuyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương.
“Hai đứa trẻ” là đặc trưng của hồn văn Thạch Lam. Nhà văn Nam Cao đã tóm tắt
truyện như sau: Một mẩu chuyện sinh hoạt kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông
hàng trên phố huyện. Đêm đêm, bóng tối những người bình thường cũng lù mù đi qua
trước gian hàng. Trong cái bộn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có tiếng động mạnh và luồn
ánh sáng mạnh của chiếc xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em ngày nào cũng chờ một
con tàu đêm như thế.
II. Giới thiệu vẫn đề
Trong sự giao thoa giữa các nền văn học, Thạch Lam được coi là sứ giả hoà giải
cho văn xuôi và thơ, giữa hiện thực và lãng mạn tạo nên một phong cách hiện thực thi vị
trữ tình riêng biệt không lẫn với bất kì nhà văn nào. Xây dựng hình ảnh tương phản là thủ
pháp tiêu biểu trong văn chương lãng mạn Thạch Lam, được thể hiện trên nhiều phương
diện như xây dựng nhân vật, hoàn cảnh, các chi tiết nhỏ…và sẽ còn mờ nhạt khi không
nhắc đến hai hình ảnh tương phản độc đáo nhất: ánh sáng và bóng tối.


Ánh sáng và bóng tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luôn luôn
tồn tại bên cạnh nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là một thủ
pháp cơ bản được dùng để khắc họa con người và sự vật. Trong văn chương, nó được sử
dụng như một nghệ thuật nhằm tạo tình huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ

đề tác phẩm. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ”toàn bộ câu chuyện đặt trong một sự tương tranh
giữa bóng tối và ánh sáng "biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, một
thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả".
Tác phẩm có thể chia làm ba đoạn, mỗi đoạn gắn liền với một tâm trạng của nhân
vật chính, chị Liên:
a) Đoạn một: Tâm trạng Liên trước cảnh ngày tàn.
b) Đoạn hai: Tâm trạng Liên trước những cảnh đời tăm tối.
c) Đoạn cuối: Cảnh đợi tàu và niềm khát khao của Liên.
Có thể thấy xung đột, giao tranh giữa bóng tối và ánh sáng khá mạnh mẽ. Mở đầu
truyện ánh sáng yếu dần, sau đó bóng tối hiện lên rồi bao trùm lên tất cả. Chính ánh sáng
báo hiệu bóng tối và bóng tối cũng là cái nền cho ánh sáng.Tác phẩm như một bức tranh
phối hai gam màu tương phản nhưng vẫn không tách ra thành hai mảng riêng biệt, ánh
sáng và bóng tối đan xen, hoà vào nhau trong bản điệp khúc buồn man mác trên một phố
huyện nghèo, cùng làm nổi bật nhau. Khép lại ánh sáng và bóng tối lại mở ra. Cái khép
lại mở ra ấy cài vào nhau như tạo ra một cuộc sống mà ta thấy là luẩn quẩn, tù đọng và
ngột ngạt.
Ta thấy rõ được rằng, qua từng đoạn, bóng tối cứ ngập đầy dần, càng lúc càng
quánh đặc xâm chiếm toàn bộ cảnh vật và đi vào tiềm thức hai đứa trẻ, lấn át ánh sáng.
Ánh sáng thực chỉ là những khe sáng, vệt sáng, hột sáng li ti mờ nhạt, leo lét, yếu ớt, ánh
sáng trong trí nhớ của Liên, ánh sáng con tàu rực rỡ chỉ là mộng tưởng và sự tiếc nuối.
Cuối truyện nó rực lên mạnh mẽ, chói loà, rồi sau đó tắt hắn cho bóng đêm chiếm lĩnh
hoàn toàn không gian, cả tâm hồn con người.


Khác với Vich-to Huy-go, bậc thầy về sử dụng hình ảnh tương phản bóng tối - ánh
sáng để chứng minh sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng của tâm hồn, của lương tri xã
hội, Thạch Lam sử dụng hình ảnh này để gây ấn tượng và thể hiện cái nhìn rất hiện thực
về cuộc đời.
IV. Hình tượng bóng tối
Cấu tứ truyện là cấu tứ vòng tròn xoay quanh hình ảnh bóng tối được lặp đi lặp lại

không dưới ba mươi lần. Khi miêu tả cảnh trời phố huyện cũng như cảnh đời của những
con người nơi đây, tác giả đã hướng con mắt từ nhiều thời điểm, từ hiều góc nhìn, nhiều
tâm cảnh khác nhau. Bóng tối như một ám ảnh, như một sự hăm dọa, như một quái vật.
Để rồi thật hãi hùng, nó hoạt động, thâm nhập, len lỏi một cách âm thầm, lặng lẽ. Nó
nhấn cả miền quê vào màn đêm đen mênh mông không đáy. Và bóng tối cũng chính là
không gian nghệ thuật cuả tác phẩm, không gian xã hội của con người.
a) Cảnh chiều muộn nới phố huyện

Bức tranh hiện thực, nơi phố huyện ngèo xơ xác, tiêu điều hiện lên khi ánh hoáng
hôn cuối cùng của một ngày đã nhạt. Cái bóng tối đầu tiên xuất hiện trong truyện bắt đầu
từ hình ảnh dãy tre trước làng đen kịt. Ngày tàn, dãy tre làng tưởng như đã mất hết sự
sống, khoác lên mình tấm áo choàng màu đen. Tiếng trống thu không rời rạc, lẻ tẻ và tắt
dần. Âm thanh như rơi tõm vào khoảng không gian đang chết lặng. Không có hồi âm, nó
chỉ nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn người.
Như một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh lại hiện ra trong khung cảnh
chợ vãn buổi chiều khi còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn gánh, vài đứa trẻ
đi thu lượm các thứ lặt vặt. Cái bức tranh ấy một lần hiện lên trong “Gió lạnh đầu mùa”
nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khăc ngày tàn trong “ Hai đứa
trẻ”. Từ thiên nhiên đến số phận con người đều có một cái gì tàn lụi, không tương lại, leo
lét một cách tôi nghiệp trong nghèo đói, buồn chán và tăm tối.


Dần dần xâm chiếm và ngự trị, bóng tối không chỉ ở ngoại cảnh mà nó cũng dần
len vào tâm hồn con người. “Chiều, chiều rồi”- Câu văn thốt lên như một tiếng thổn thức,
chút buồn, chút bâng khuâng và gì đó lưu luyến, bàng hoàng như một tiếng thở dài.
Liên là nhân vật trung tâm của tác phẩm, được Thạch Lam dành những nét miêu tả
sinh động và hết sức trìu mến, yêu thương. Đó là những nét vẽ sâu lắng khám phá thật
sâu về tâm hồn lắm xúc cảm, giàu tình thương của Liên. Dường như ngòi bút của Thạch
Lam đã đạt đến độ thăng hoa khi tinh tế dựng lên một thế giới nội tâm của trẻ thơ chân
thực và phong phú. Thạch Lam rất thành công khi miêu tả đôi mắt Liên, vừa trong trẻo

một nét hồn nhiên, vừa đượm buồn một sự day dứt. Đôi mắt ấy như một điểm nhấn ám
ảnh trong không gian phố huyện và như một cánh cửa đi vào thế giới tâm hồn Liên. “Đôi
mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thám thía vào tâm hồn
ngây thơ chị”. Cảnh phố huyện lúc chiếu tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ
lặp đi lặp lại một các đơn điệu buồn tẻ. Phút ngày tàn cũng để lại cho Liên một nỗi buồn
khó tả. Tâm hồn trẻ thơ đang bị bóng tối xâm chiếm dần dường như sắp chai sạn. Qua đôi
mắt trong veo lại hiện lên bao hình ảnh lam lũ thân quen của những con người vẫn ẩm
thầm, chịu đựng cuộc sống trong bóng tối.
Hình ảnh bà cụ Thi điên, có thể nói đây là nạn nhân của nhịp sống mòn mỏi quanh
cái phố huyện này. Người điên thì còn đó, thể xác cuộc sống vật chất vẫn hiện hữu nhưng
dường như ý thức đã không còn, trí tuệ, tinh thần đã kiệt quệ, tầm hồn ấy đã bị bóng tối
chiếm đi mất, cụ Thi như một cái cây đã tàn lụi, héo úa, kiếp người heo hắt đắm chìm
trong rượu bất lực không thể giải thoát, không chút niềm tin, không một hi vọng đang
khuất dần vào bóng đêm tịch mịch. Hình ảnh “bà cụ đi lẫn về bóng tối, tiếng cười khanh
khách nhỏ dần về phía làng” chỉ thoáng qua nhưng gieo vào lòng người đọc bao nỗi day
dứt bi thương. Từ bóng tối đi ra, rồi lại tìm vào bóng tối.
b)Cảnh đêm tối.
Trời nhá nhem tối và rồi dần dần đi vào màn đêm đen đặc. Không gian phố huyện
u tối và buồn thương, bóng tối bao phủ và đeo đẳng những kiếp người nhỏ bé. “ Tối hết
cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng


sẩm đen hơn nữa. Đến cả tiếng trống cầm canh cũng không xuyên qua được bóng tối dày
đặc, nó chỉ “tung lên một tiếng ngắn khô khan không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào
bống tối”. Hiếm có tác phẩm nào trong văn học mô tả bóng tối dày đặc như hai đứa trẻ
của Thạch Lam. Tối quá, nhưng tại sao một đứa trẻ như An vẫn không thấy sợ, tại sao
Liên lại quen ngồi lặng lẽ nhìn vào bóng tối ? Bóng tối dường như đã đi vào tiềm thức hai
chị em vì đã bao đêm sống miên man trong bóng tối.
Âm thầm trong đêm đen phố huyện là những mảnh đời của những con người bé
nhỏ, cam chịu. Họ xuất hiện thoáng như một chiếc bóng. Bóng tối là hướng đi về, đi đến,

đi ra của biết bao con người…Khi những người bán hàng, kiếm ăn ban ngày “từ từ đi
trong đêm”, chìm vào bóng tối thì từ trong bóng tối ấy, những người kiếm ăn đêm lại lục
tục kéo ra. Từ bác phở Siêu, mẹ con chị Tí hàng nước, vợ chồng bác Sẩm, ..tất cả những
bóng hình lam lũ, đau khổ và cam chịu ấy thu vào đôi mắt Liên với một tình thương khôn
cùng.. Đây không phải là sự sống thực sự mà là cầm cự cuộc sống, tranh giành với cái đói
và cái chết. Tâm hồn nhạy cảm và yêu thương đã biết xót xa, đã biết thương cảm cho
những số phận xung quanh mình nhưng lại bất lực, không biết làm gì để giúp họ vì ngay
chính chị cũng đang phải đối diện với bóng tối quanh mình. Trên cái bóng tối đen đặc
nền, là những phiến cảnh cuộc đời, về những con người bé mọn, thậm chí ngay cả những
khát khao của họ, những cậu chuyện họ nói với nhau cũng quá mờ nhạt.
Vợ chồng bác xẩm, ngồi trên manh chiếu, thau sắt trắng trước mặt, thằng con bò
ra nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát. Bác Xẩm góp tiếng đàn run bần bật trong
đêm tối mà không hề có một chút ánh sáng nào. Cuộc đời này vẫn đang mờ hồ, mò mẫm
chìm trong cát bụi và bóng đêm của số phận và sự im lặng, không thể thắp lên được một
ngọn đèn nào cho riêng mình. Đó là những kiếp người tàn dười mái lá nát. Cảnh phố
huyện đêm ấy cũng giống như ngày hôm qua, và sẽ lại ở ngày mai nhưng nó còn lặp lại
cho đến bao giờ nữa?
Thạch Lam hạ bút viết một câu văn đầy nỗi day dứt, thấm thía nỗi buồn thân phận
và niềm cảm thông: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho


sự sống nghèo khó hàng ngày của họ”. Nhưng họ vẫn tiếp tục cầm cự cuộc sống nghèo
nàn ấy, trong cái bóng tối uất ức nhẫn nại của đời nhà quê.
c) Bóng tối sau khi con tàu đi qua
Tưởng như đã quá quen với bóng tối, tưởng như tất cả cứ lặp đi lặp lại, tù đọng,
nhức buốt, lặng thầm từ ngày này qua ngày khác…Song với Liên và An, vẫn muốn tìm ở
đời thường cái mới lạ. Đêm nào hai chị em cũng cố thức để đợi đoàn tàu đêm đi qua.
Chúng chờ đợi chuyến tàu suốt một ngày buồn tẻ. Chờ thật lâu chỉ để được nhìn đoàn tàu
chạy qua phố huyện vài phút. Và rồi con tàu lại vụt đi, tiếp tục cuộc hành trình. Ánh sáng
chói loà cũng mất, để lại phố huyện một lần nữa lại chìm vào đêm tối. Trong Liên không

còn là nỗi buồn man mác của một buồi chiều quê nữa mà đó là sự hẫng hụt. Bóng tối ấy
lại bủa vây xung quanh, lại nuốt chửng cả phố huyện nghèo tĩnh mịch, càng quánh đặc
hơn. Những con đom đóm Liên cũng không nhìn thấy nữa. Bác Siêu gánh hàng đi về, chị
Tí dọn hàng, và rồi tất cả lại chìm vào giấc ngủ. Bóng tối không chỉ đến với những hòn
sỏi mấp mô, không còn chỉ trên bờ sông, trên những con đường, không chỉ trên những
hàng quán bé nhỏ của những người dân nghèo, không chỉ lấp đầy đôi mắt Liên nữa mà
giờ đây mó còn phủ kín cả giấc mơ của chị. “Những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm
hồn Liên và hình ảnh thế giời quanh mình mờ đi trong mắt chị…Liên ngập vào giấc ngủ
yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối”
Ý nghĩa hình tưọng bóng tối
Trong bóng tối là những cuộc đời bóng tối. Bóng tối tả thực diễn tả không gian
cảnh vật phố huyện về đêm. Lặp đi lặp lại gián tiếp hình tượng bóng tối cũng chính là
cách tác giả bộc lộ chủ đề tác phẩm qua cảm quan thương xót và tạo cho truyện một ẩm
hưởng cấu tứ như một bài thơ trữ tình. Nó đã tái hiện một bối cảnh xã hội giai đoạn trước
cách mạng. Bóng tối bủa vậy, đè nặng lên những kiếp người sống trong bế tắc. Họ là
những con nguời nhỏ bé vô danh cuộc sống mãi chôn vùi trong tăm tối, nghèo đói, buồn
chán, uể oải, mòn mỏi, quẩn quanh nơi phố huyện luôn mơ về ánh sáng và hạnh phúc.
Tiếng nói phê phán và Thạch Lam cũng đặt ra vấn đề khi những kiếp người cứ chìm dần


vào bóng tối, khi những đứa trẻ đã một phần bị bóng tối xâm chiếm thì thực sự những
người lớn đã sống hoàn toàn trong tăm tối đó rồi.
V. Hình tượng ánh sáng
Thạch Lam dùng ánh sáng để tả bóng tối. Những hột sáng ít ỏi, nhỏ nhoi lọt thỏm
giữa không gian phố huyện làm tăng thêm cái mênh mông, không khí buồn lặng của
khung cảnh phố huyện vào đêm. Nỗi buồn chán của hai đứa trẻ và những người dân phố
huyện nếu khi chớm đêm mới chỉ ở mức độ mơ hồ thì càng về khuya nó càng rõ nét.
Xuất hiện trong truyện là những điểm sáng li tí như những nét chấm phá cho bức
tranh phố huyện mà nền của nó là một màn đêm dày đặc. Bóng tối vừa mang nghĩa biểu
trưng cho cuộc sống tù đọng, quẩn quanh nơi phố huyện vừa là phông nền chính nhằm

làm nổi bật hai loại ánh sáng:
a) Ánh sáng mờ nhạt là ánh sáng xa vời từ thiên nhiên (những vì sao những con
đom đóm đêm) và là ánh sáng từ những ngọn đèn nơi phố huyện.
b) Ánh sáng mạnh mẽ, sáng rực là ánh sáng đô thị - vừa là quá khứ đầy tiếc nuối,
vừa là tương lai, là miền mơ ước của hai đứa trẻ và Ánh sáng con tàu - ánh sáng thức tỉnh
đời sống tỉnh lẻ, như một cầu nối từ hiện tại (ánh sáng phố huyện) về quá khứ (ánh sáng
đô thị), rồi hướng tới tương lai. Từ đây ánh sáng là biểu tượng của ước mơ, của khát khao
hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
a)Ánh sáng nhạt nhoà
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám
mây ánh hồng như hòn than sắp tàn.” Một nguồn ánh sáng của thiên nhiên vũ trụ bao la,
nhưng nó lại báo hiệu sự tàn lụi. Gam màu nóng và rực rõ đối lập hoàn toàn với với màu
đen của luỹ tre trước làng trên nền trời phố huyện. Mặt trời gay gắt cháy hết mình đang
gắng gượng chiếu những tia sáng cuối cùng, để rồi sau đó nhường chỗ cho bóng tối.
Ánh sáng hiếm hoi của màn đêm đêm được tác giả chớp nhanh trong cái nhìn lãng
mạn. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong
manh của thứ đom đóm lập loè, đến cái xa vời của ngàn vì sao trên trời cao. Khung cảnh


trời đêm trái ngươc hẳn với phố huyện lúc bấy giờ. An và Liên lặng lẽ ngắm dải ngân hà
mênh mông như tìm trong đó những ước mơ xa xăm, xa vời quá, xa đến nỗi, hai chị em
không thể với tới được. “Vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ nhưng đầy
bí ẩn và xa lạ và làm mỏi trí” để rồi cuối cũng , Liên lại cúi về với mặt đất, lại một lần
nữa nhìn những gì cuộc sống đang diễn ra quanh ngọn đèn vặn nhỏ leo lét của chị.
Như một nếp sống, phố huyện ban đêm là nơi của những con người cùng chung
tâm trạng, hoàn cảnh. Mỗi người góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, một vài âm
thanh. Tất cả tạo nên bức tranh phố huyện nghèo. Ngoài cụ Thi điên và vợ chồng bác
Xẩm, mỗi người đều được tác giả thắp lên một ngọn đèn cho dù nó quá đơn sơ,leo lét,
nhỏ bé. Qua con mắt Liên, tất cả những kiếp sống lầm than, cơ cực, tàn tạ chìm vào trong
đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí chiếu sáng một vùng đất nhỏ, cái bếp

lửa của bác Siêu phát ra quần sáng con con, ngòn đền hoa kì vặn nhỏ của Liên, ánh sáng
đèn lồng của mấy người làm công ở hiệu khách đi đón bà chủ ở tỉnh về,… chỉ mấy đốm
sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy không thể xua đi bóng tối xung quanh, chẳng
làm cho phố huyện sáng sủa thêm được mà chỉ càng khiến cho đêm tối mù mịt dày đặc
hơn mà thôi.
Trong bóng đếm, không thể nhận ra hình ảnh con người. Cũng chính từ những
đốm sáng đã trở nên thân thuộc ấy mà những người cùng chung hoàn cảnh, cùng chung
số phận nhận ra nhau trong đêm tối. Tất cả phố huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước
của chị Tí. Hình ảnh ngọn đèn nơi hàng nước chị Tí chỉ chiếu một vùng đất nhỏ ấy chập
chờn trở đi, trở lại bảy lần trong tác phẩm xuất hiện từ khi phố xá lên đèn cho đến khi tất
cả chìm hẳn trong màn đêm đen đặc là hình ảnh đày ám ảnh và có sức gợi nhiều về
những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối sống vô nghĩa giữa đêm đen mênh mông của
cuộc đời. Đó là hình ảnh được xem như biểu tượng cho sức sống của phố huyện. Ngọn
đèn leo lét của chị như một biểu tượng cho hi vọng của những con người lầm lũi nơi đây.
Sống trong bóng tối, họ vẫn không ngừng hi vọng, không ngừng chờ đợi một điều gọi là
hạnh phúc. Ngọn đèn chập chờn đi từ cõi thực vào cõi mộng và đã đi sâu vào tuổi thơ của
hai đứa trẻ. Chính hình ảnh ngọn đèn chị Tí mà Liên một lần nữa hồi tưởng lại trước khi


chìm vào giấc ngủ đầy bóng tối. “Ngọn đèn và ánh lửa cuộc đời” ấy thật yếu ớt và tôi
nghiệp gợi lên niềm xót xa thương cảm trong lòng người đọc trước một cảnh sống mòn
mỏi và ngưng đọng.
c)Ánh sáng từ con tàu và trong trí nhớ của Liên
Ở đây, ta bắt gặp cả một cảm quan triết học trong lối mô tả của Thạch Lam. Ánh
sáng và âm thanh đó là những dấu hiệu của sự sống. Bóng tối và sự tĩnh mịch là dấu hiệu
của hư vô. Hiện tại của chị em Liên là phố huyện, nơi chỉ có bóng tối và sự tĩnh mịch, sự
sống đang đuối dần. Còn quá khứ của chúng là Hà Nội- một vùng “sáng rực rỡ và lấp
lánh”, tạo ra một sự tương phản giữa phố huyện và thủ đô, là gợi ra sự tương phản giữa
bóng tối và ánh sáng, hư vô và sự sống, bất hạnh và hạnh phúc…Quá khứ đã mất, hiện tại
tối tăm, còn tương lai thì vô vọng. Hàng ngày, chị em gửi những mơ ước xa xôi vào đoàn

tàu chạy qua phố huyện, nó như ảo ảnh của tương lai. Nhìn hiện tại mà buồn, ngoài nhìn
quá khứ hoài niệm mà nuối tiếc ngậm ngùi và mơ tưởng về tương lai bằng những khát
khao mơ hồ. Ánh sáng từ con tàu, và ánh sáng trong trí nhớ của Liên, rực sáng lên giữa
khung cảnh bóng đêm tĩnh mịch bởi lẽ nó là ánh sáng của ước mơ đã thắp sáng cả tâm
hồn Liên đang bị bóng tối lấp đầy dù chỉ trong giây phút, nó là quá khứ, là thực cảnh mà
Liên đã từng được sống, từng cảm nhận.
Kí ước về Hà Nội hiện lên từ mùi phở thơm của bác Siêu- cái mùi thơm của món
hàng xa xỉ mà hai chị em Liên chưa từng một lần thử. Hà Nội, nơi ấy đầy ánh sáng,
huyên náo và nhiều những thứ ngon lành màu sắc. Quá khứ xa vời sao trái ngược hoàn
toàn với thực tại đang hiện hữu. Bởi vậy mà Liên thấy nhớ, thấy lưu luyến, thấy nuối tiếc.
Hồi tưởng về quá khứ - cái trạng thái dường như chỉ có trong một con người đã từng trải
hiện lên trong tâm hồn của một cô bé như Liên. Phải chăng, cuộc sống quẩn quanh nơi
phố huyện này đã khiến một tâm hồn trẻ thơ già dặn hơn như thế.
Chuyến tàu là hoạt đông, là sự ồn ào cuối cùng trong ngày. Rõ ràng, chị em Liên
không thức để bán mấy thứ lặt vặt cho khách trên tàu, mà chúng cố đợi để thấy được nhịp
sống sôi động, chưa chịu thoả hiệp với cuộc sống tẻ nhạt. Đoàn tàu đến được báo hiệu
“bằng ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi”. Một màu xanh của niềm tin, hi vọng


thắp sáng trong Liên, rồi sau đó, trước mắt chị là một thế giới tươi sáng, rực rỡ. “Con tàu
như đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn ngọn đèn chị Tí và ánh lửa
bác Siêu.” Dưới ánh mắt của trẻ thơ, chiếc tàu là hình ảnh của một thế giới văn minh,
huyên náo và đầy ánh sáng. Đoàn tàu đi từ Hà Nội, đi từ chính tuổi thơ êm đềm, bình
yên, nhiều màu sắc của Liên khiến chị bồi hồi và nhớ lại tuổi thơ nhấp nháy sắc màu và
náo nhiệt âm thanh ấy. Giờ đây, hình ảnh quá khứ ở trước mắt Liên rõ rệt hơn, không còn
là những kí ức mơ hồ nữa. Quá khứ, Hà Nội không còn nhạt nhoà hiện lên với mùi phở
mà giờ nó như đang ở rất gần. Đoàn tàu đã trở thành cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.
Chờ tàu đến hay chờ một thế giới hồi sinh, chờ một phút giây được sống trong hồi tưởng.
Tâm hồn trẻ thơ không thể sống trong hiện tại, cũng không có quyển mơ ước đến tương
lai mà chỉ có thể quay về ngóng vọng môt quá khứ.

Chúng đến gần để được nhúng chìm vào ánh sáng chói loà toả ra từ ngọn đèn ghi,
từ các toa tàu sáng loá. Cái đoàn tàu của thiên hạ lại trở thành cuộc chơi của tuổi thơ một
cách tội nghiệp. Nhưng cái niềm vui nhỏ nhoi ấy cũng đâu có trọn vẹn. Tàu hôm này
không đông, và kém sáng hơn. Hạnh phúc giản đơn không trọn vẹn thật đấy, nhưng nó
vẫn là niềm vui, vẫn là khát vọng, vẫn là mơ ước nên được đón nhận bằng tất cả niềm
háo hức. Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sáng rực rỡ nhất, mạnh mẽ nhất, nó vụt loé lên,
nhanh như một ngôi sao băng vút qua bầu trời…Đẹp nhưng nhanh quá, nhanh đến nỗi chị
em Liên chỉ kịp ngước theo mà không kịp chắp tay cậu nguyện. Đêm nào tàu cũng đi
qua, đêm nào tâm hồn tuổi thơ ấy cũng ngóng đợi. Nhưng chưa một lần nào tàu đủ sức
hồi sinh cho phố huyện, thay đổi cuộc sống, biến ước mơ của hai chị em thành hiện thực.
Con tàu lại tiếp tục hành trình. Hai đứa trẻ như bị hút theo những đốm lửa than tung bay
trên đưòng sắt, cái chấm nhỏ của đèn xanh treo toa cuối xa dần rồi khuất hẳn sau luỹ tre.
Ánh sáng xanh ấy chính là ánh sáng cuối cùng Liên nhìn thấy, xa dần, xa dần nhưng còn
lung linh, vương vẫn mãi trong lòng người. Tàu vụt quá, mang theo cả một thế giới trong
mơ đi mất. Phố huyện bừng tỉnh rồi lại chìm vào đêm tối câm lặng. Tối hơn, yên tĩnh hơn
và đáng sợ hơn.
VI.Hình tượng bóng tối và ánh sáng:


Có khá nhiều ý kiến bàn luận về hình tượng bóng tối và ánh sáng lặp đi lặp lại
trong tác phẩm “Hai đứa trẻ”. Bóng tối là cảnh thật, từ cái có thật ấy mà bóng tối trở
thành hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Theo sự cố ý nhấn mạnh của Thạch Lam, hình
ảnh biểu tượng này gợi lên sự tăm tối, tù đọng , luẩn quẩn mà những con người nghèo
khó khó có thể vượt qua. Còn ánh sáng chính là hi vọng của những con người ấy. Nhưng
họ hi vọng vào đâu, hi vong cái gì..thì “Liên không hiểu” và tác giả cũng không hiểu. Bởi
thế, dù truyện được coi là Thạch Lam đã chơi ánh sáng trong những trang viết của mình,
song đã là trò chơi thì dù có muốn nhưng trang viết của ông vẫn ngập tràn bóng tối.
Ngoài đời chưa có ánh sáng nên nỗi ước mong ánh sáng càng tha thiết thì khi nó bị bóng
tối lần lướt lại càng khiến ta não lòng hơn. Câu chuyện cũng chính là một phần tuổi thơ
của Thạch Lam, tuổi thơ nơi phố huyện Cẩm Giàng.

So sánh với hình tượng bóng tối và ánh sáng trong tác phẩm “Chữ người tử tù” ta
thấy.Cả hai tác giả đều sử dụng ánh sáng và bóng tối như một nguyên tắc đối lập, một thủ
pháp nghệ thuật. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tối vừa đối lập, vừa bổ sung,
nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng. Chính vì vậy ánh sáng
trong Chữ người tử tù là ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài hoa, nhân cách, nên
tác phẩm cũng được kết thúc đẹp bằng sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của
thiên lương con người. Bóng tối vừa là cuộc sống tù đọng, quẩn quanh mòn mỏi âm u nét giống với bóng tối trong Hai đứa trẻ - nhưng nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác
trong cuộc sống cũng như trong bản chất con người. Với Thạch Lam, ông chỉ đơn giản
hướng ngòi bút về cuộc sống, về ước mơ và về hạnh phúc. Nhưng đến cuối truyện, ánh
sáng đã bị bóng tối lấn át hoàn toàn, cả phố huyện, cả những suy nghĩ cuối cùng của
Liên, cả giấc ngủ của Liên cũng ngập đầy bóng tối. Có lẽ nào bóng tối đã dành lấy phần
thắng về mình.
VII.Thông điệp của tác giả và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Thạch Lam đã đem đến cho người đọc những dây tơ xúc cảm tinh tế mà phức tạp,
nhiều yêu thương và lắm mơ ước trong cô bé Liên. Để đôi mắt trẻ thơ nhìn cuộc sống tù
túng, ngột ngạt chính là cách Thạch Lam đặt ra câu hỏi cho mỗi người. Trẻ em phải được


yêu thương đùm bọc, được che chở trong mỗi trường thuân lợi. Nhưng trái lại, Liên và
An là những mầm non mới nhú trên trên mảnh đất cằn cỗi khắc nghiệt. Đặt hai đứa trẻ
trong một môi trường tối tăm để chúng vật lộn với khó khăn và để chúng biết khát khao,
tự thắp lên ước mơ cho mình, Thạch Lam thể hiện niềm thông cảm sâu sắc dành cho
chúng và cho những con người đang sống từng ngày trong tối tăm nơi phố huyện. Tuy
sống trong hoàn cảnh khổ cực tuy chịu nhiều khó khăn nhưng chị em Liên, chị Tí, bác
phở Siêu…vẫn không hề bị luỵ ngã. Họ vẫn khao khát, vẫn mơ ước đến một tương lai
tươi sáng hơn cho dù mơ ước, hi vọng đó chỉ nhỏ nhoi, leo lét như những ngọn đèn của
họ. Đó chính là niềm tin sâu sắc của Thạch Lam và là gí trị nhân đạo mà nhà văn gửi gắm
trong tác phẩm.
Câu chuyện như một nỗi day dứt về kiếp người, kiếp đời. Tác giả đã gióng lên một
hồi chuông thức tình bao con người đang luẩn quẩn trong nghèo đói, lầm than, thức tỉnh

những con người sắp gục ngã trong đêm tối. Việc cần làm ngay bây giờ là thay đồi xã
hội. Thật đáng sợ khi những hình ảnh nhỡn tiền vẫn diễn ra hàng ngày trước mắt Liên.
Nếu cuộc sống không thay đổi thì còn biết bao hình ảnh tối tăm, còn bao hình ảnh như bà
cụ Thi điên sẽ chờ đợi Liên ở phía trước. Tương lai chỉ là sự kéo dài của cái hiện tại ngán
ngẩm hay sao? Vẽ ra cái tương quan của hai đứa trẻ với phố huyện, Thạch Lam đã ngầm
nói lên cái tăm tối nhọc nhắn của thế giới ấy. Hai đứa trẻ đang phải sống trên một cái thế
giới già nua, không chút ánh sáng. Liệu những mầm non ấy có thể lớn lên thành những
cái cây tươi tốt khoẻ mạnh được hay không? Hay chúng là héo hon, xơ xác tàn tạ như
những cái cây trưởng thành của phố huyện này. Hãy cứu lấy những trẻ em, hãy cứu lấy
tương lai của phố huyện. Dường như đó là tiếng kêu thổn thức của Thạch Lam. Từng
dòng chữ của truyện ngắn Hai đứa trẻ là tiếng kêu của lòng trắc ẩn mênh mông, một sắc
thái riêng của tư tưởng nhân đạo.
Hãy thay đổi xã hội, để những ước mơ nhỏ nhoi giản dị trở thành hiện thực, để
tương lai ngời sáng hơn. Và để những đứa trẻ như Liên và An không phải mòn mỏi chờ
đợi một thế giới khác, một thế giới xa vời không tưởng chừng như thể với tới được…


BÀI VIẾT SỐ 3:

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, một trong những "ngôi sao" toả sáng từ
nhóm bút Tự lực văn đoàn, phải nhắc đến Thạch Lam. Đặc sắc trong sáng tác của Thạch
Lam là ở thể loại truyện ngắn, thường không có cốt truyện hoặc có nhưng rất đơn giản.
Lôi cuốn người đọc chính là giọng văn tâm tình, bình dị, man mác chất thơ rất đỗi trữ
tình của ông. Với tình cảm chân thành hướng về tầng lớp dân nghèo nơi thành thị, thôn
quê, Thạch Lam mở ra thế giới mơ hồ, thầm kín bên trong mỗi người, để lại dư vị khó
quên trong tim người đọc. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của
Thạch Lam là tập truyện ngắn Nắng trong vườn. Trong đó, Hai đứa trẻ đã tô đậm hiwn cả
về cuộc sống của những kiếp ngươid nghèo khổ, mòn mỏi những năm trước Cách mạng
tháng Tám. Khắc sâu thêm sự ám ảnh về từng mảnh đời trong cái phố huyện nghèo ấy là
hình tượng "bóng tối" - một chi tiết nghệ thuật đắt giá, nhiều hình ảnh.

Nếu như ngôn từ được xem như chất liệu đầu tiên để hình thành một tác phẩm văn
học thì chi tiết nghệ thuật mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng, góp phần nổi bật
lên chủ đề tư tưởng của toàn bộ tác phẩm cũn như hấp dẫn người đọc. Chi tiết nghệ thuật
thường mang phong cách và sự sáng tạo vô biên của người nghệ sĩ. Vậy nên, sẽ chẳng có
gì kì lạ khi Hai đứa trẻ mang một phong cách rất riêng của Thạch Lam: hầu như không có
cốt truyện, cũng chẳng có tình tiết nào gay cấn xuất hiện. Lần lượt hiện ra trong tác phẩm
chỉ là một buổi chiều tàn, một phiên chợ tàn và xuyên suốt đó là những kiếp người bị vây
hãm trong bóng tối. Trong những con người ấy có hai chị em Liên và An, hai đứa trẻ đặc
biệt được tác giả nhắc nhiều và cũng thông qua lăng kính cảm xúc của chúng để cảm và
nhìn cuộc đời xung quanh trong tác phẩm.
Nhưng để khiến truyện ngắn này trơr nên đặc biệt lôi cuốn và lay động tâm hồn
người đọc, Thanh Lam cần nhiều hơn thế. Vậy là, hình tượng "bóng tối" trở thành một
"phông nền" không thể thiếu, một chất xúc tác quan trọng tạo nên hiệu ứng nghệ thuật
mạnh mẽ.


Định nghĩa "bóng tối" đơn giản chỉ là phần không gian không có ánh sáng, con
người trở nên khó khăn để di chuyển và nhìn thấy mọi thứ xung quanh. Bóng tối dần dà
gắn liền với nỗi sợ hãi, những gì u ám, buồn bã nhất trong tâm tưởng của con người.
"Bóng tối" trong ý niệm ở truyện ngắn Hai đứa trẻ cũng không mang nghĩa gì tươi sáng
hơn. Đó là "bóng tối" trong thiên nhiên khi về đêm, trong cuộc đời những con người
nghèo khổ nơi phố huyện và phảng phất trong tâm trạng của họ, tạo nên sự tương phản
cùng cực với "ánh sáng".
Trong khung cảnh thiên nhiên, bóng tối hiện lên với những thứ ánh sáng loe lét,
mong manh, yếu ớt điểm xuyết. Từ một buổi chiều "êm ả như ru" mau chóng ngả tối khi
"các nhà đã lên đèn cả rồi" và "trời nhá nhem tối". Bóng tối nơi đây ập đến nhanh nhưng
dường như chẳng ai cảm thấy muộn phiền. Bởi khi đó, cuộc sống mưu sinh của những
con người phố huyện mới thật sự được bắt đầu. Hình ảnh con người va thiên nhiên lần
lượt thay phiên nhau xuất hiện. Mỗi khoảnh khắc mà bầu trời đêm ngày càng đặc màu
thêm đều được Thạch Lam ghi lại bằng những câu văn thi vị dần theo sắc thái trời đêm.

Ban đầu, tác giả chỉ nhắc đến sự bao phủ của màn đêm một cách ít ỏi, nhưng sau đó, khi
màn đêm sống dậy, ông lại giành cho nó những gì thi vị nhất. Đó là "một đêm mùa hạ êm
như nhung và thoảng qua gió mát". Còn dưới mặt đất, "đường phố và các con ngõ dần
chứa đầy bóng tối", "tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về
nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa". Bóng tối được miêu tả trực tiếp, len lỏi
và dày đặc ở khắp mọi ngóc ngách. Khôn gian yên ả và bóng tối còn được tô đậm hơn
qua những thứ ánh sáng yếu ớt trong nhà bác phở Mĩ, nhà ông Cửu,... chiếu ra phố khiến
những hòn đá nhỏ "một bên sáng, một bên tối"; rồi ánh sáng sao trời "lẫn với vệt sáng
của những con đom đóm". Ánh sáng hiện hữu nơi nơi nhưng lại yếu ớt và thêm nhỉ bé
trong sự bao phủ của bóng đêm. Bút pháp tương phản, đối lập trong ánh sáng mơ hồ, leo
lét với bóng đêm rõ rệt, dày đặt đã làm nổi bật lên khung cảnh phố huyện vừa thu vị vừa
trữ tình, lại vừa chân thật dến ngỡ ngàng. Bóng đêm ấy cũng không hề tách rời với phân
người mà lồng vào bóng người, đi ngạo nghễ cùng với con người ở khắp nơi. Chỉ những


điều ngỡ như rất bình thường ấy, bóng tối còn trở thành một gì đó lớn lao, đáng sợ hơn và
hé lộ thêm về bóng tối cuộc đời của những kiếp người lâm lũi nơi phố huyện nghèo.
Từ bức tranh thiên nhiên với gam màu tối bao phủ, Thạch Lam còn gợi lên "bức
tranh" đặc biệt sâu thẳm tâm hôn con người. Tác giả chỉ nói phớt qua về đôi mắt của
Liên. Đó là đôi mắt mà "bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía
vào tâm hồn ngây thơ của chị"; đi kề đó là cái buồn "man mác trước cái giờ khắc của
ngày tàn". Dường như chỉ có ở Thạch Lam, góc tối từ hiện thực, xã hội nghèo khổ được
phản ánh qua lăng kính tâm hồn của những nhân vật đặc biệt: trẻ thơ. Câu nói "không
hiểu sao" vang lên rồi lại dội vào tâm hồn người đọc, tâm hồn của nhà văn với biết bao
sót xa, thương cảm. Những tâm hồn non nớt, trong trẻo ấy, vì đâu lại bị kiềm hãm, vây ố
vết đen của cuộc đời? Để rồi dần dà, nó trở thành một phần không thể chối bỏ được, và
"chỉ không sợ nó nữa". Tiếng "không sợ" lại càng tô đậm thêm nỗi sợ hãi vốn dĩ đã có,
nay trở nên lớn hơn bao giờ hết, và tâm hồn bé nhỏ ấy bỗng thành gai góc, bất lực. Bóng
tối chan chứa trong đôi mắt, tràn ngập tâm hồn của Liên - thứ bóng tối mơ hòi mà không
thể thoát ra được.

Thạch Lam không chỉ nhìn xuyên qua bóng đêm dày đặc trong tâm hồn trẻ thơ mà
cả của những mảnh đời lay lắt với cuộc sống mưu sinh. Cái mùi vị nghèo khổ vương vấn
trong "mùi âm ẩm" của "hơi nóng ban ngày lẫn với mùi cát bụi" hay "rác rưởi, vỏ bưởi,
vỏ thị, lá nhãn, lá mía" của ngày họp chợ chiều đã vãn người. Hình ảnh mấy đứa trẻ con
nhà nghèo "nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được" sau
phiên chợ tàn càng chấm một nét rất thực của sự nghèo khổ, đen nó vượt ra cả những câu
chữ vô hồn. Điểm nhìn của tác giả chính là cái nhìn của Liên "trông thấy đôgj lòng
thương". Chỉ nhẹ nhàng như thế thôi mà người đọc cũng có thể cảm nhận được tâm trạng
của nhà văn khi cầm bút viết những dòng ấy và thêm cảm mến ông hơn. Khôg chỉ có vậy,
những con người nhỏ bé nơi phố huyện đều được Thạch Lam ưu ái, "tặng" cho một vị trí
đặc biệt trong thiên truyện. Đó là mẹ con chị Tí với gánh hàng nước đơn xơ: hai cái ghế
và một cái chõng cùng vài cái bát uống nước. Ngày chị "mò cua, bắt tép", đến chập tối lại
dọn hàng nước dưới gốc cây bàng. Cuộc sống cứ xoay vòng đều đặn như thế, Liên và


những con người ấy trở thành bạn hàng lúc nào không hay. Những lời đối đáp rời rạc
giữa họ khiến không gian thêm độ tĩnh mịch mà còn có chút gì đó hắt hiu, gượng gạo.
Mỗi lời nói của họ luôn ẩn chứa một phần tâm hồn được bộc lộ. Như tiếng chép miệng
trả lời của Liên một cách uể oải của chị Tí "sớm với muộn nà có ăn thua gì" càng hằn rõ
tâm trạng vô định, chán chường, hay đúng hơn, bai mảnh hồn mòn rỉ, mỏi mệt như chị.
Đó còn là bà cụ Thi điên vẫn hay mua rượu ở hàng Liên. Bà cụ xuất hiện từ bóng tối với
tiếng cười khô khốc trong đêm, rồi khi đi cũng là "lần vào bóng tối, tiếng cười khanh
khách nhỏ dần về phía làng". Hay bac Siêu với gánh phở là "một thứ quà xa xỉ, nhiều
tiền" mưu sinh mỗi ngày. Đó cong là vợ chồng bác xẩm cùng đứa con thơ thường "bò ra
đất", (nghịch nhătj rác bẩn vùi trong cát). Có cả người mẹ của chị em Liên bận bịu với
công việc hàng xáo chẳng thể thảnh thơi cùng con... Mỗi con người ấy hiện lên với tâm
trạng, hoàn cảnh khác nhau. Thế nhưng ở họ đều có chung một nỗi cô đơn, nghèo khổ,
sống lay lắt ngày qua ngày nơi phố huyện. Bóng tối không những phủ lên những nơi họ
đi qua mà còn vây kín trong lòng họ, toát ra từ cử chỉ, lời nói và cả dáng vử. "Chừng ấy
người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ"

nhưng cái mong ước ấy cũng rất đỗi chênh vênh, mơ hồ và xa xăm.
Nhưng dẫu bóng tối chễm chệ bao kín lấy không gian cho đến từng nhân vật trong
thiên truyện, ánh sáng dù yếu ớt nhưng vẫn tồn tạu mà không mất đi. Vì thế, sự đối lập
giữa bóng tối và ánh sáng trở thành một nghệ thuật độc đáo trong truyện ngắn Hai đứa
trẻ. Ánh sáng toả ra từ thiên nhiên vũ trụ, trong phố huyện, nơi đoàn tàu và cả hồi ức xa
xăm mang dáng dấp của niềm tin và hy vọng. Đó không chỉ là hy vọng của những kiếp
người lầm than, nhỏ bé mà còn chính là niềm tin của Thạch Lam. Cho dù bóng tối cuộc
đời, sẹ thật gần như nuốt chửng ánh sáng, hiện lên liên tục và đầy ám ảnh nhưng nhờ thế,
những hình ảnh hiện ra trong tâm tưởng ta mới rõ nét hơn, tâm hồn ta thấm thía hơn và
dư vị, dư âm của thiên truyện lại kéo dài hơn trong lòng người đọc. Bằng cốt truyện ngắn
trữ tình, cốt truyện đơn giản, giọng văn nhẹ nhàng phảng phất niềm xót thương, Thạch
Lam đã thật sự thể hiện nét tài hoa và bộc lộ tấm lòng mình. Nhà văn đã biểu lộ niềm trân
trọng ước mong đổi đời cuat những con người trước Cách mạng tháng Tám, tuy còn mơ


hồ của họ. Đồng thời, ông cũng đã gửi gắm một thông điệp lớn hơn và bấn biến theo thời
gian: đừng bao giờ ngừng hi vọng và tin tưởng những điều tốt đẹp ở tương lai.
Hai đưa trẻ của Thạch Lam mang giá trị nhân đạo to lớn và hiện thực sâu sắc. Một
trong những điều giúp nhà văn bộc lộ toàn vẹn hơn thông điệp của mình chính là nhờ
hình tượng bóng tối. Từ đó, tác giả đã tô đậm hiện thực đen tối của nước ta trước Cách
mạng, tố cái xã hội cũ bất công và mang khoảng cách lớn giữa "giàu" và "nghèo". Truyện
ngắn này, phải chăng cũng là "món quà" ông trìu mến gửi đến họ - những kiếp người
quẩn quanh, lay lắt trong bóng tối với sự thấu hiểu, trân trọng nhất? Phải chăng là những
gì xuất phát từ con tim nhiều rung cảm và chân thành nên tác phẩm cũng đã lay động biết
bao nhiêu độc giả thế hệ sau, để giá trị của nó vì thế còn mãi vẹn nguyên qua bao trầm
tích của thời gian.




×