Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TÌM HIỂU VĂN HÓA LÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.81 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐHSP TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ
NGÀNH QUỐC TẾ HỌC – LỚP QTH3B

Cơ sở văn hóa Việt Nam
Tìm hiểu về văn hóa làng

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS Trần Văn Châu


Lời nói đầu
Làng là đơn vị cư trú cơ bản của nông thôn người Việt và đã hình thành từ rất
sớm (trước khi có Nhà nước). Đầu tiên làng là điểm tụ cư của những người cùng huyết
thống, sau đó để phù hợp với sự phát triển của xã hội và lịch sử , làng còn là điểm tụ cư
của những nhóm người cùng nghề nghiệp, bao gồm nhiều dòng họ khác nhau. Khi Nhà
nước ra đời, làng là một đơn vị hành chính cơ sở của nhà nước và là một tổ chức tự
quản, quân sự và văn hoá khá hoàn chỉnh. Cùng với việc xuất hiện làng trong lịch sử
Việt Nam, văn hoá làng cũng ra đời, trở thành nét đặc trưng của văn hoá dân tộc.
Nền văn hoá Việt Nam được tạo dựng trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp.
Cuộc sống của người Việt Nam gắn bó với làng xã, quê hương. Tập tục làng, truyền
thống và văn hoá làng là chất keo đặc thù gắn kết mọi thế hệ thành viên của làng.
Nhóm đươc thầy giao phó cho việc chứng minh văn hóa làng làm nên giá trị của văn
hóa Việt Nam nên đã cùng nhau phối hợp thực hiện, nghiên cứu xây dựng đề tài này.
Đây là một đề tài hấp dẫn, có tính thực tiễn cao trong việc bảo vệ bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam.
Mặc dù đã cố gắng hết sức trong việc nghiên cứu, xây dựng bài nghiên cứu, song
những sai sót là điều khó tránh khỏi. Nhóm rất mong nhận được sự đóng góp từ phía
Thầy và các bạn để đề tài của nhóm hoàn thiện hơn nữa.


Phần nội dung


I. KHÁI NIỆM VỀ LÀNG
Làng là một thiết chế xã hội, một đơn vị tổ chức chặt chẽ của nông thôn Việt trên
cơ sở địa vực, địa bàn cư trú, là sản phẩm tự nhiên tiết ra từ quá trình định cư và cộng cư
của người Việt, là địa điểm tập hợp cuộc sống cộng đồng tự quản và phong phú của
người nông dân. Ở đó, họ sống và làm việc, quan hệ, vui chơi, thể hiện mối ứng xử văn
hóa với thiên nhiên nhiên, xã hội và bản thân họ.
Trước khi tìm hiểu những đặc trưng cơ bản của làng, chúng ta cần xác định làng được
hình thành ở sườn đồi, thung lũng hoặc đồng bằng, ven biển. Vị trí của làng thường gần
khe, suối, sông, rạch đầm, hồ và trên các trục lộ giao thông. Theo ông Lê Văn Siêu (Việt
Nam Văn Minh Sử), làng ở Bắc Việt rộng trung bình trên dưới 200 hecta và đường bán
kính phải 800 mét. Quy mô này rất phù hợp với đời sống nông nghiệp vì tiện lợi trong
việc đi lại, canh tác, chăm sóc mùa màng (liền canh, liền cư). Mỗi làng thường có lũy tre
hay hàng rào bao bọc, có cổng làng, cây đa, giếng nước, bến đò… Bất cứ làng nào cũng
phải có đình làng để thờ thần khai canh (người lập ra làng), đền thờ thần Thần hoàng.
Ngoài ra một số làng có thêm chùa làng để thờ Phật, đền, miếu để thờ những nhân vật
lịch sử hay truyền kì.
II. VĂN HÓA LÀNG
1. Cơ cấu làng Việt
Làng Việt là một thành tố quan trọng trong cơ cấu xã hội Việt (nổi lên là gia đình (nhà) –
làng – nước, còn cấp vùng, tỉnh là đơn vị trung gian ít quan trọng hơn) với hai đặc trưng
cơ bản là tính cộng đồng và tính tự trị.
Làng được tổ chức rất chặt chẽ, không phải theo một mà nhiều cách, nhiều nguyên tắc
khác nhau, tạo nên nhiều loại hình, nhiều cách tập hợp người khác nhau, khác nhau
nhưng lại hòa đồng trong phạm vi làng. Về cơ bản, cơ cấu làng Việt (cổ truyền và hiện
đại) được biểu hiện dưới những hình thức tổ chức (liên kết, tập hợp người) sau đây:


- Tổ chức theo địa vực (khu đất cư trú) với mô thức phổ biến: làng phân thành
nhiều xóm, xóm phân thành nhiều ngõ, mỗi ngõ gồm một hay nhiều nhà…thành những
khối dài dọc đường cái, bờ sông chân đê, những khối chặt kiểu ô bàn cờ theo hình vành

khăn từ chân đồi lên lưng chừng đồi và phân bố lẻ tẻ, tản mát, xen kẻ với ruộng đồng….
Mỗi làng, xóm, ngõ có cuộc sống riêng tư tương đối.
- Tổ chức làng theo huyết thống (gia đình, dòng họ). Ngoài các gia đình nhỏ, gia
đình hạt nhân, dòng họ có vai trò vị trí và vai trò quan trọng trong làng Việt, là chỗ dựa
vật chất, tinh thần cho gia đình; có tác dụng trong định canh và xây dựng làng mới, như
là trung tâm của sự cộng cảm trong các gia đình đồng huyết…. Có làng gồm nhiều dòng
họ, có làng chỉ một dòng họ và khi ấy làng và dòng họ (gia tộc) đồng nhất với nhau. Điều
đáng lưu ý là mức độ liên kết theo huyết thống trong phạm vi làng Việt là hết sức rạch
ròi, chi li với những tên gọi cụ thể (cố - cụ - ông – cha – bản thân – con cháu – chắt –
chút…).
- Tổ chức làng theo nghề nghiệp , theo sở thích và lòng tự nguyện (phe – hội,
phường nghề….). Mỗi làng có thể có nhiều phe (một tổ chức tự quản dưới nhiều hình
thức câu lạc bộ): phe tư văn quan trọng hơn cả và các phe khác ít quan trọng hơn; nhiều
hội: hiếu, hỷ, mua bán, luyện võ, tập chèo, đấu vật; các phường nghề: mộc, nề, sơn, chèo,
rối…
- Tổ chức làng theo lớp tuổi (truyền thống nam giới): tổ chức giáp thể hiện rất mờ
nhạt. Đây là môi trường tiến thân theo tuổi tác, tổ chức dành riêng cho nam giới, phụ nữ
không được vào. Bé trai mới lọt lòng được vào giáp ngay, được lên đinh, ngồi chiếu làng,
được nâng dần địa vị, được lên lão… Nói chung, giáp gắn chặt với làng.
- Tổ chức làng theo cơ cấu hành chính. Làng có khi gọi là xã (có xã gồm nhiều
làng), có khi gọi là thôn (khi nhất xã nhất thôn). Tiêu chuẩn để phân định rõ nhất là chính
cư và ngụ cư (nội tịch, ngoại tịch) một cách rất rành mạch. Chẳng hạn như hai loại dân
này có nghĩa vụ như nhau nhưng chỉ có dân chánh cư mới được chia ruộng làng. Tuy


nhiên, có một điều mở là dân ngụ cư có thể chuyển thành chính cư khi có điền sản và
sống (cư trú) ở làng ba đời trở lên.
Cũng xin nói thêm về vấn đề điền thổ, điền thổ của làng được chia thành hai loại là
công điền, công thổ và tư điền, tư thổ. Công điền, công thổ được chia cho dân làng canh
tác mà không được chuyển nhượng, mua bán. Để chi dụng cho mọi việc trong làng còn

có các loại ruộng: ruộng tuần chia cho các tuần đinh lo việc canh gác, ruộng lính là ruộng
chia cho các gia đình có người đi lính, ruộng học dùng để khuyến học, ruộng lão dành
cho người già yếu, nghèo khó, ruộng oản dùng cho việc cúng tế. Công điền, công thổ do
ban lý hương quản lý và cứ ba năm hoặc năm năm lại chia cho dân canh tác để nộp thuế
hoặc làm các nghĩa vụ khác. Nói chung, công điền công thổ là tài sản của làng dùng cho
việc công đồng làng xóm và công tác xã hội. Dân cư trong làng được phân thành nhiều
dạng, cơ bản là các hạng: chức sắc (đỗ đạt hoặc có phẩm hàm vua ban), chức dịch (có
chức vụ trong bộ máy hành chính), lão, đinh, ty ấu, người già, trai đinh, trẻ con (trong các
giáp).
Về vấn đề ngôi thứ trong làng, ngôi thứ là thứ bậc các tầng lớp dân cư ở trong
làng, một vấn đề quan trọng của làng cổ truyền Việt Nam. Ngôi thứ quy định vị trí, chức
năng , quyền lợi của các thành viên trong làng lúc hội họp, hành xử việc làng, lúc cúng tế,
hội hè và ăn uống. Ngôi thứ vừa có tính tổ chức, vừa là tục lệ. Ngôi thứ được phân định
do hai nguồn gốc là vương tước do vua phong và thiên tước do truyền thống của làng và
chia làm năm thứ bậc.
Hạng thứ nhất gồm những chức sắc thuộc vương tước, tức là các quan từ nhất
phẩm để cửu phẩm và những người có các chức sắc khác do vua phong được hưởng
những đặc quyền, đặc lợi của làng. Hạng thứ hai gồm những bô lão từ 60 tuổi trở lên
được miễn thuế khóa, tạp dịch và những đóng góp công khác. Hạng thứ ba là kỳ mục
gồm những người ở trong bộ máy chính quyền của làng như lý trưởng, phó lý, chánh, phó
tổng đương nhiệm hoặc đã nghỉ việc. Họ được miễn mọi công việc trong làng và miễn
thuế thân. Hạng thứ tư là tư văn gồm những người có học hoặc có mua phẩm hàm được


làng miễn tạp dịch. Hạng thứ năm là tráng đinh hoặc hoàng đinh gồm tất cả những người
còn lại của làng chia làm hai lớp: 1 – 18 tuổi đến 48 tuổi gánh vác tất cả mọi việc mà làng
giao phó. Từ 49 tuổi đến 59 tuổi được miễn một nửa sưu dịch. Đây là cách phân chia
tương đối phổ biến. Làng Việt Nam có tính chất dân chủ tự trị, ngoài luật nước, mỗi làng
có lệ riêng phép vua thua lệ làng. Do đó, ngôi thứ của làng này có thể khác với làng nọ
Là một thiết chế của nông thôn Việt, có cơ cấu tổ chức phong phú nhưng chặt chẽ,

có tính cộng đồng và tự trị cao, làng Việt ở mặt trái, mang tính khép kín, bản vị. Song nó
lại chính là nơi lưu giữ, bảo vệ một thứ văn hóa làng chống lại sự xâm lăng, đồng hóa của
văn hóa ngoại lai. Làng Việt và văn hóa làng Việt đang là vấn đề rất thú vị cho những ai
quan tâm, nghiên cứu nó.
2. Nét đặc thù đặc trưng của văn hóa làng
Làng không chỉ là sản phẩm của một nền tổ chức chính trị nhà nước mà nó
còn là sản phẩm văn hoá mang bản sắc người Việt. Văn hoá làng được thể hiện thông qua
các biểu trưng văn hoá mang giá trị truyền thống: cây đa, bến sông, con đê, mái đình,
giếng nước đến các bản gia phả, hương ước, hội hè đình đám, những làn điệu dân ca, dân
vũ. Đó còn là phong tục tập quán, cách ứng xử, tâm lý, tín ngưỡng tôn giáo, phương thức
hoạt động, nghề đặc trưng.v.v…Có thể xem văn hoá làng chính là những khuôn thước
ứng xử nằm sâu trong mỗi con người, những nhân tố tạo nên tính cộng đồng. Và những
ứng xử giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, giữa các cộng đồng với
nhau được tổng kết qua kinh nghiệm sống đã trở thành văn hoá. Văn hóa làng như một
dòng nước ngầm không thể nhìn thấy nhưng lại có sức mạnh chi phối, điều khiển mỗi
người trong cộng đồng làng.
Các nhà nghiên cứu văn hoá cũng như sử học Việt Nam đều khẳng định
80% văn hoá vật thể là ở làng. Đó chính là “cây đa, bến nước, sân đình”, là ngôi chùa hay
những ngôi nhà cổ. Và cũng 80% văn hóa phi vật thể ra đời từ văn hoá làng. Đó là những
phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng.v.v…Nói sâu hơn thì văn hoá làng chính là cái gốc
của văn hoá dân tộc. Tổng thể nền văn hóa dân tộc đều mang bản sắc văn hoá vùng,


miền. Mà cái tạo nên văn hoá vùng miền chính là văn hoá làng, đơn vị tổ chức nhỏ nhất.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc có nền văn hóa riêng biệt. Vì vậy nền văn
hóa Việt Nam cũng đa dạng và vô cùng phong phú.
Với đơn vị là làng, văn hóa đã hiện ra như là những khuôn thước ứng xử
nằm ở tầng sâu trong đời sống cộng đồng; như là hệ thống các giá trị đặc thù qui định và
ngầm điều khiển các quan hệ cộng đồng; như là sự tổng hợp của những kinh nghiệm sống
hình thành qua lịch sử của các cộng đồng. Mỗi con người Việt Nam, nếu có được cái may

mắn là sinh ra và lớn lên ở làng, thì dù đi đâu, về đâu; dù làm nghề nay hay nghề kia; dù
mang quốc tịch này hay quốc tịch khác cũng đều khó có thể thoát ly khỏi tâm thức làng,
lề thói làng, giá trị làng, cái đã ăn sâu vào văn hóa cá nhân.
"Phép vua thua lệ làng" thành ngữ gắn liền với quá trình phát triển của làng
Việt. Thông qua thành ngữ này, văn hóa làng luôn biểu đạt cái đặc trưng riêng, cái có ý
nghĩa riêng, cái mang lại sức mạnh của làng. Lịch sử cho thấy, tất cả những gì là ngoại
nhập hay ngoại sinh, nếu muốn có chỗ đứng thực sự ở làng thì phải tìm cách "chung
sống" với văn hóa làng.
Chính từ thực tiễn lịch sử của dân tộc Việt mà chúng ta nhận ra văn hóa
làng. Xác định sự tồn tại hiện thực của văn hóa làng là sự phát triển phù hợp với sự tiến
triển của các ngành tri thức về văn hóa. Có lẽ chỉ khi đặt trong tương quan với các dạng
thức văn hóa vùng và các loại văn hóa cộng đồng khác, mới thấy rõ hơn tính đặc thù và ý
nghĩa của văn hóa làng.
Sở dĩ có nhiều bài ca dao, nhiều nhạc khúc ca tụng làng bởi vì làng không những
là nơi chôn nhau cắt rốn mà làng có những đặc điểm tiêu biểu, sâu lắng đã đi vào lòng
người từ thuở mở mắt chào đời. Đó là các sinh hoạt làng, những biểu tượng của làng và
những đặc trưng của làng.
Thứ nhất là sinh hoạt làng là các sinh hoạt công ích và sinh hoạt lễ hội.


Sinh hoạt công ích là những sinh hoạt đem lại sự lợi ích cho cộng đồng làng xóm.
Trước hết là những hoạt động có tính cách bắt buộc nhằm đối phó với môi trường tự
nhiên như đắp đê điều, đường sá, cầu cống, đồn điền. Bên cạnh đó, dân làng tự nguyện
tham gia, trợ giúp công sức, tiền của cho những gia đình bị thiên tai, hỏa hoạn, nghèo
khó, tang ma, Lá lành đùm lá rách. Những sinh hoạt này thể hiện tính cộng đồng làng
xóm trong ý nghĩa biểu tượng của trăm bọc trăm trứng.
Sinh hoạt lễ hội là một sinh hoạt rất quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần
của cộng đồng làng xã. Những dịp cúng tế, lễ hội từ nhỏ đến lớn, ngôi thứ là vấn đề tiên
khởi và khá phức tạp. Tùy hương ước của mỗi làng, hoặc theo vương tước, hoặc theo
thiên tước để cử ra các ngôi vị chủ tế, bồi tế, đông tây xướng trong lúc hành lễ và đến cả

lúc thừa hưởng những phẩm vật đã dâng cúng cho thánh thần cũng phải có ngôi thứ.
Dưới thời vua Tự Đức từ cửu phẩm đến nhất phẩm, từ suất đội trở lên (võ) mới được ngồi
ở gian giữa.
Mỗi làng hằng năm có hai lễ tế cơ bản, tiêu biểu là tế thần Thành Hoàng, một năm
vào mùa xuân để cầu phúc, một vào mùa thu để cầu an. Ngoài ra ở một số làng, nhất là
vùng Bắc Bộ, vùng đất cổ có nhiều lễ hội liên quan đến nhân thần và thiên thần. Chẳng
hạn như lễ hội đền Hùng (xã Di Cương, Vĩnh Phú), lễ hội Thánh Gióng (làng Phù Đổng,
Hà Nội), lễ vía Bà Chúa Xứ (núi Sam, An Giang). Bên cạnh đó, còn có những lễ liên
quan đến thiên thần, tiêu biểu là những lễ hội nông nghiệp. Trước hết là lễ tế trời vào đầu
năm, lễ Hạ điền vào đầu mùa cấy lúa, lễ Thượng điền vào lúc hết mùa cấy, lễ Thường tân
vào lúc mới gặt lúa, lễ Cầu mưa lúc gặp nắng hạn.
Lễ tế hằng năm trong làng nghiêng về cuộc sống tâm linh, về đạo để dân làng tỏ
lòng biết ơn và xin thần thánh, trời đất được bình an, thịnh vượng. Hội thì nghiêng về đời
thường, tức là dân làng tụ họp để vui chơi, giải trí, trao đổi tình cảm, ôn luyện truyền bà
bá nghề nghiệp. Các hội phổ biến là đua ghe, đô vật, kéo co, nấu cơm… nhằm rèn luyện
thân thể và nghề nghiệp. Hội chọi gà, chọi trâu, đánh đu, hoa đăng… để vui chơi giải trí.


Hội Lim với hát quan họ, hát chèo, hát đố để thỏa mãn các nhu cầu của đời sống tình cảm
và thẩm mỹ.
Sinh hoạt làng đã hình thành từ thời đại các vua Hùng và phát triển từ thế kỷ X trở
đi. Sinh hoạt làng hầu như bao gồm mọi sinh hoạt của nước, làng nước. Cho nên từ mô
hình làng đến tổ chức sinh hoạt, làng như một quốc gia thu hẹp. Sinh hoạt làng trong đó
lễ hội là nền tảng của đời sống tinh thần. Nó củng cố tình làng, nghĩa xóm, trật tự, kỷ
cương và tinh thần dân tộc.
Thứ hai là các biểu tượng của làng – tiêu biểu và tương đối phổ biến của làng
hàm chứa ý nghĩa văn hóa làng là đình làng, cây đa, bến nước.
Hầu như làng nào cũng có đình. Đình là một biểu tượng hội tụ nhiều chức năng và
ý nghĩa. Trước hết, đình là trụ sở hành chính, nơi làm việc của ban lý hương, nơi hội họp,
thu thuế, phân xử phạm nhân… Tiếp đến, đình cũng là tụ điểm văn hóa của làng, nơi diễn

ra hội hè, hát tuồng. Đình còn là tọa độ của mối cộng cảm, nơi nhen nhúm, gửi gắm tình
cảm của dân làng, nơi thờ phụng các vị thần sáng lập làng với những nhân vật có công
đức với làng, với nước, nơi dân làng đến lễ lược cúng bái. Nói chung, đối với người Việt
Nam, đình làng là biểu tượng của tính cộng đồng, nó liên quan đến quá khứ, hiện tại và
tương lai. Đình chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của
cộng đồng. Do vậy, dân làng tự nguyện góp công sức để xây dựng, bảo tồn vì Đình tan là
làng mạt.
Cây đa cổ thụ là tín hiệu về môi trường tự nhiên của làng, là biểu tượng về sự sinh
tụ trường thọ của cộng đồng xóm làng. Cây cổ thụ cành lá sum suê, che mưa đỡ nắng
thường gắn liền với quán nước. Do vậy, cây đa là nơi nghỉ ngơi của dân làng sau những
giờ lao động, nơi dừng chân của lữ khách, nơi thề nguyện lứa đôi. Cây đa cũng là không
gian cư ngụ của thần. Sợ ông thần phải sợ cây đa. Cây đa vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa
có ý nghĩa xã hội và tâm linh nên cây đa là biểu tượng của tính cộng đồng, là niềm hãnh
diện của xóm làng.


Bến nước đối với những làng ven sông suối hoặc giếng nước là nơi cung cấp
nguồn nước của cộn đồng, nơi tụ tập của dân làng, chủ yếu là nữ giới để lấy nước, giặt
rửa. Bến nước cũng là cửa ngõ giao lưu của cộng đồng xóm làng với xã hội bên ngoài.
Trong mối quan hệ lứa đôi, bến nước là biểu trưng cho tính cách của người phụ nữ
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Nói chung, bến nước là biểu tượng của quê hương, của tính cộng đồng, của tính
mở trong mối tương quan với tính đóng của lũy tre làng trong quá trình tồn tại và phát
triển làng.
Tóm lại, đình làng, cây đa, bến nước là biểu tượng của tính cộng đồng, chủ yếu là
nơi hình thành tình làng nghĩa xóm, ý thức đồng bào và quê hương đất nước. Nó cũng là
biểu tượng của tính tự trị, tính độc lập, tự chủ của xóm làng, của cộng đồng dân tộc. Bên
cạnh đó, tính cộng đồng và tự trị cũng dẫn tới óc bè phái và ý lại, tính gia trưởng và tính
địa phương.

3. Chuẩn mực trong lệ làng
Lệ làng là xuất phát từ đời sống thực tế của người dân trong làng xã, sinh ra lệ tức
có những hương ước giao kết với làng này làng khác, được làm cái này không được làm
cái kia.
Làng xã mang tính tự trị: làng nào biết làng đấy, các làng tồn tại khá biệt lập với
nhau và có phần nào biệt lập với triều đình phong kiến. Mỗi làng là một “vương quốc”
nhỏ với hệ thống pháp luật riêng (các làng gọi là hương ước) và tiểu triều đình riêng (hội
đồng kì mục là cơ quan lập pháp, lí lịch là cơ quan hành pháp, nhiều làng tôn xưng bốn
cụ cao tuổi nhất làng là tứ trụ). Trong không gian làng xã, pháp luật bị đẩy xuống hàng
thứ yếu và mọi vấn đề về phát triển đều quy về cái gọi là “giải quyết nội bộ”.
Giá trị xã hội của lệ làng


- Lệ làng với nhiều điều khoản, nhiều nội dung khác nhau có ý nghĩa thiết thực
trong việc bảo vệ an ninh làng xã, phát triển sản xuất, giữ gìn thuần phong mĩ tục, phát
triển văn hóa giáo dục.
- Lệ làng không chỉ đề ra các hình thức trừng phạt với các việc làm sai trái mà còn
đề ra hình thức khen thưởng cho việc tốt, có ích cho làng. Như vậy. lệ làng có vai trò
quan trọng đối với việc ổn định nếp sống trong làng, bổ sung cho luật pháp khi cần xử lí
những vấn đề rất có thể nảy sinh từ nếp sống đặc thù của làng.
- Lệ làng không chỉ có ý nghĩa như là luật pháp mà còn có ý nghĩa như hệ thống
tiêu chuẩn đạo đức. Vì vậy nó chứa đựng những giá trị văn hóa dân gian, hàm chứa nhiều
yếu tố tích cực.


Danh sách thành viên nhóm thực hiện đề tài
1. Nguyễn Minh Kha (Nhóm trưởng) – K38.608.074
2. Nguyễn Đắc Tuấn – K38.608.035
3. La Phúc Hải – K38.608.067
4. Nguyễn Thị Nhân – K38.608.094

5. Huỳnh Vũ Đan Thanh – K38.608.020


Tài liệu tham khảo
1. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Khoa học xã hội và nhân văn TP.
HCM năm 1997
2. Huỳnh Công Bá, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Thuận Hóa, 2008
3. Trần Lâm Bền, Hỏi đáp về cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin 2006
4. Lễ hội cổ truyền, Lê Trung Vũ (chủ biên ), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
5. Việt Nam phong tục tái bản, Phan Kế Bính, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1990.
6. Tạp chí Quê hương online


Mục lục



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×