PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG THỜI KỲ ĐẾN NĂM
2010 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO ĐẾN NĂM 2020
Vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) gồm 2 thành phố (Hà Nội, Hải
Phòng) và 10 tỉnh (Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc,
Quảng Ninh, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình), có diện tích tự nhiên
là 2,06 triệu ha, dân số năm 2004 khoảng 18,9 triệu người; chiếm 6,3% diện tích
và 23,07% dân số của cả nước; mật độ dân số cao nhất (1.087 người/km 2) và
diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp nhất so với các vùng khác,
bình quân đất nông nghiệp khoảng trên 500m 2/người, chỉ tương ứng cho trên
30% lao động nông nghiệp và có xu hướng ngày càng thu hẹp trong quá trình đô
thị hoá.
Sau hơn 15 năm đổi mới, vùng ĐBSH thể hiện là một trong những vùng
phát triển năng động của cả nước, chỉ đứng sau vùng Đông Nam Bộ (ĐNB) và
đã góp phần quan trọng tạo nên sự chuyển biến tích cực của tình hình kinh tế xã hội nước ta khi bước vào kỷ nguyên mới.
I - HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA VÙNG ĐỒNG
BẰNG SÔNG HỒNG
1-Vị trí và đặc điểm nổi bật của vùng đồng bằng sông Hồng
1.1- Vùng ĐBSH có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá- xã
hội ở phía Bắc và cả nước; có vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) Bắc Bộ là
động lực phát triển chung, có thành phố Hà Nội là Thủ đô của cả nước.
Vùng ĐBSH có lịch sử, truyền thống cách mạng, văn hóa lâu đời, nơi cội
nguồn của dân tộc, là nơi địa đầu của Tổ quốc ở phía Bắc, có vị trí chiến lược về
phát triển đất nước và hợp tác quốc tế của Việt Nam; có đường hàng hải quốc tế
và đường xuyên Á đi qua, có các cảng biển Hải Phòng, Cái Lân, các sân bay
quốc tế, có Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học
công nghệ lớn của cả vùng Bắc Bộ và cả nước; là đầu mối giao thông quan
trọng, từ ĐBSH đi các nơi rất thuận tiện, bằng cả đường bộ, đường sắt, đường
sông, đường biển, đường hàng không. Sự phát triển kinh tế- văn hoá- xã hội của
vùng ĐBSH hội tụ được các yếu tố để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước;
có ý nghĩa tác động và lan toả trực tiếp đến các tỉnh trung du- miền núi phía Bắc
và các tỉnh Khu IV cũ, các vùng chưa phát triển.
Năm 2004, vùng ĐBSH đóng góp 23,3% GDP của cả nước, tổng thu
ngân sách của vùng khoảng 33,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,3% thu ngân sách của
cả nước; giá trị kim ngạch xuất khẩu chiếm 20,5% tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước; thu hút được khoảng 27% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Riêng
vùng KTTĐ Bắc Bộ mức thu ngân sách bình quân đầu người gấp 1,6 lần và giá
trị xuất khẩu bình quân đầu người gấp 1,5 lần mức trung bình của cả nước.
Năm 1997, Chính phủ đã ra quyết định thành lập vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ, gồm 5 tỉnh, thành phố là: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên,
Quảng Ninh. Đây là vùng lãnh thổ có tiềm lực kinh tế lớn thứ hai sau vùng
KTTĐ phía Nam, có tác động thúc đẩy phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả
nước. Trong hội nghị các tỉnh vùng KTTĐ Bắc Bộ ngày 14-15/7/2003, Thủ
tướng Chính phủ đã có quyết định "Đồng ý bổ sung 3 tỉnh: Hà Tây, Bắc Ninh,
Vĩnh Phúc vào vùng KTTĐ Bắc Bộ" (Thông báo kết luận của Thủ tướng Chính
phủ tại Hội nghị các tỉnh Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, số 108/TB-VPCP
ngày 30/7/2003 của Văn phòng Chính phủ). Tổng diện tích của vùng KTTĐ Bắc
Bộ sau khi bổ sung 3 tỉnh là 11.346,7 km2, bằng 3,5% diện tích cả nước và dân
số (tính đến năm 2004) là 13,42 triệu người, bằng 16,4% so cả nước.
1.2- Vùng ĐBSH là vùng có tiềm năng to lớn để phát triển mạnh và
toàn diện kinh tế- văn hoá- xã hội - giao lưu quốc tế và khu vực
ĐBSH vừa có đồng bằng châu thổ hình thành vựa lúa lớn thứ hai của
nước ta, vừa có vùng đất trung du địa hình cao dọc theo phần lớn tuyến đường
18, 21 có điều kiện thuận lợi để phân bố công nghiệp và phát triển đô thị.
- Vùng ĐBSH có tiềm năng lớn về du lịch, phía đông giáp Vịnh Bắc Bộ,
tổng chiều dài bờ biển 620 km, có tài nguyên du lịch biển đặc sắc: nhiều bãi
biển đẹp, cảnh quan nổi tiếng như Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long cùng các hải đảo
đã được UNESCO công nhận là “di sản tự nhiên của thế giới”; trong nội địa có
các danh thắng chùa Hương, Ao Vua, Suối Hai, Tam Cốc, Bích Động...; với trên
1700 di tích lịch sử- văn hoá (chiếm 70% di tích của cả nước) được xếp hạng,
tạo khả năng phát triển du lịch sinh thái đa dạng, hấp dẫn.
- Vùng ĐBSH có lịch sử lâu đời trong công cuộc dựng nước và giữ nước,
là cội nguồn văn hoá lúa nước của dân cư người Việt, có vị trí góp phần đảm
bảo an ninh lương thực và nông sản xuất khẩu, đứng thứ hai trong cả nước.
Nghề trồng lúa nước truyền thống, rau, hoa, quả, cây cảnh, chế biến nông
hải sản thực phẩm, thu hút trên 70% dân số của ĐBSH, là nguồn hàng hoá lớn
để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
- Vùng ĐBSH có lịch sử phát triển công nghiệp và đô thị sớm nhất nước
ta
Các ngành nghề truyền thống sản xuất tiểu thủ công nghiệp, mỹ nghệ
phát triển khá sớm, lan toả đáng kể sang các vùng khác.
Các thành phố cùng với ngành công nghiệp được phát triển từ lâu đời, đã
xuất hiện tầng lớp thị dân và đội ngũ công nhân công nghiệp tương đối đông và
có kỹ năng khá hơn nhiều vùng (năm 2004 toàn vùng có 1,25 triệu người làm
việc trong ngành công nghiệp, chiếm 12,8% so toàn bộ lao động của vùng và
chiếm 24,7% lao động công nghiệp của cả nước).
Vùng ĐBSH tuy không nhiều khoáng sản, song có một số khoáng sản
quan trọng: chiếm 98% trữ lượng than đá của cả nước (riêng của Quảng Ninh),
25% trữ lượng đá vôi sản xuất xi măng, 40% trữ lượng sét cao lanh để làm gốm
sứ và vật liệu chịu lửa.
2
Cho đến nay, ĐBSH vẫn là một trong hai vùng (ĐBSH và ĐNB) tập trung
công nghiệp, dịch vụ lớn nhất và có kết cấu hạ tầng cũng như cơ sở vật chất kỹ
thuật đã tạo dựng và phát triển nhất cả nước.
1.3- Là vùng có thế mạnh hơn cả về nguồn nhân lực và khả năng
nghiên cứu triển khai khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức
khoẻ so với các vùng khác
Dân trí cũng như chất lượng nguồn nhân lực khá hơn tất cả các vùng.
Năm 2004 vùng ĐBSH tập trung tới 26 - 27% cán bộ có trình độ cao đẳng và
đại học, 72% cán bộ có trình độ trên đại học của cả nước. Tổng số lao động kỹ
thuật của vùng là 1,72 triệu người, chiếm 23,2% lao động kỹ thuật của cả nước.
Vùng ĐBSH là nơi luôn luôn có thế mạnh nhất cả nước về nguồn nhân
lực; vùng này là nơi quan trọng cung cấp nguồn nhân tài cho đất nước.
Năm 2004, 12/12 tỉnh, thành phố đã hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ
tuổi và đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở (mục tiêu của cả nước là đến năm
2010).
Vùng tập trung phần lớn trường đại học, cao đẳng và trung tâm nghiên
cứu khoa học của toàn quốc. Toàn vùng có gần 100 trường cao đẳng, đại học, có
thể tiếp nhận khoảng 50 vạn sinh viên (cả nước có khoảng trên 90 vạn sinh
viên); 70 trường trung học chuyên nghiệp, có thể tiếp nhận trên 6 vạn học sinh;
có trên 60 trường công nhân kỹ thuật, có khả năng tiếp nhận khoảng 4-5 vạn học
viên; ngoài ra còn có trên 40 trường dạy nghề, có thể thu nhận hàng ngàn người
vào học mỗi năm. Trong vùng có hàng trăm viện nghiên cứu chuyên ngành,
trong đó có nhiều viện đầu ngành với lực lượng cán bộ khoa học tương đối khá
(tuy còn hạn chế so quốc tế), tạo ra lợi thế so sánh cho bản thân vùng và là điều
kiện quan trọng để hỗ trợ các tỉnh, thành phố trong cả nước (nhất là trong lĩnh
vực cải tiến thiết bị công nghệ, tạo giống, chuyển giao công nghệ và kinh
nghiệm quản trị...).
Trên địa bàn vùng ĐBSH đã có trên 20 viện, bệnh viện đầu ngành, là một
trong 3 trung tâm y tế chuyên sâu của cả nước; hàng năm có thể khám và chữa
bệnh cho 30- 40 nghìn người, đặc biệt có khả năng khám và điều trị các bệnh
nan y (đối với các bệnh về thần kinh, tim mạch, thận; các bệnh ngoại khoa...).
1.4- Đặc điểm nền đất của các công trình, nhà ở thấp hơn cốt của các
lòng sông gây khó khăn không nhỏ; tình trạng lũ lụt có diễn biến nghiêm
trọng hơn; phần lớn dân số sống ở nông thôn nhưng đất nông nghiệp lại ít và
số người nông dân thiếu đất canh tác ngày một gia tăng khi công nghiệp
phát triển mạnh mẽ; bị ảnh hưởng lớn của tư duy bao cấp, trông chờ ỉ lại,…
2- Kết quả phát triển vùng ĐBSH
2.1- Những mặt được và thành tựu
2.1.1 - Vùng ĐBSH đã có bước phát triển đáng kể, giữ được mức tăng
trưởng kinh tế (GDP) cao, có ý nghĩa tạo động lực cho sự phát triển của cả
nước
3
Nhìn chung các tỉnh đều có cố gắng, có bước phát triển rõ nét và thu được
những thành tựu đáng kể. So với năm 1996, tổng GDP của vùng ĐBSH gấp 2,9
lần; GDP bình quân đầu người gấp 2,7 lần; xuất khẩu bình quân đầu người gấp
3,3 lần.
Vùng ĐBSH có đóng góp đáng kể vào những thành tựu chung về phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước và hội nhập quốc tế. Tốc độ tăng trưởng GDP
của vùng ĐBSH gấp khoảng 1,2-1,3 lần so với mức tăng chung của cả nước;
năm 2004 vùng ĐBSH đóng góp khoảng 23,3% GDP; 20,5% giá trị xuất khẩu;
22,4% thu ngân sách, 23% giá trị sản xuất (GTSX) công nghiệp của cả nước.
Chỉ tính riêng vùng KTTĐ Bắc Bộ, mức đóng góp vào tăng trưởng GDP của cả
nước khoảng 12,4%, vào tăng trưởng công nghiệp khoảng 14,3% và vào tăng
trưởng dịch vụ khoảng 13,5%.
2.1.2- Nền kinh tế có bước tiến bộ rõ. Cơ cấu kinh tế của vùng đã có
bước chuyển dịch quan trọng, nhất là khu vực công nghiệp và dịch vụ
Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP ngày càng tăng. Từ năm
1995 đến năm 2004 tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thủy sản trong tổng GDP đã
giảm được 19% (từ 30,7 % còn 11,7%, so trong 3 ngành thì nông- lâm- thuỷ sản
là ngành phát triển nhanh); tỷ trọng công nghiệp tăng 13,9% (từ 26,6% lên
40,5%); các ngành dịch vụ không nhiều, chiếm tỷ trọng 47,8% trong tổng GDP
của vùng (tăng 5%), song khối lượng và chất lượng dịch vụ tăng nhanh, đặc biệt
về dịch vụ tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông và du lịch.
- Công nghiệp phát triển tương đối nhanh, tập trung nhiều ngành công
nghiệp giữ vị trí quan trọng của cả nước, đã có một số lĩnh vực đạt trình độ tiêu
chuẩn chất lượng quốc tế. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân khoảng
14%/năm. Sản phẩm công nghiệp có khối lượng lớn, chất lượng cao hơn nhiều
vùng khác. Một số xí nghiệp công nghiệp trong vùng đã được trang bị công
nghệ tiên tiến, sản phẩm hàng hoá được bán trên khắp cả nước, có nhiều sản
phẩm xuất khẩu (ước tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu chiếm khoảng 60%). Các ngành
công nghiệp điện tử (đèn hình, ti vi, mạch in), công nghệ phần mềm, công
nghiệp sản xuất vật liệu đã có bước phát triển khá. Tính đến năm 2004, vùng
ĐBSH chiếm trên 40% công suất sản xuất xi măng, 28% công suất sản xuất
thép, 66% công suất lắp ráp ôtô, 62% công suất lắp ráp xe máy, 100% công suất
sản xuất đèn hình, 40% công suất lắp ráp ti vi, 54% công suất cơ khí, 38% công
suất sản xuất sành sứ thuỷ tinh, 22% công suất sản xuất hàng may mặc và 36%
công suất bia...
- Nông nghiệp (theo nghĩa rộng bao gồm cả nông, lâm nghiệp, thủy sản)
có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn trước, đã và đang chuyển đổi cơ cấu sản xuất
theo hướng sản xuất hàng hoá hướng về xuất khẩu. Giá trị nông nghiệp có tốc
độ tăng trưởng bình quân năm ở thời kỳ 1997 - 2004 đạt 4 - 4,7%; tuy đầu tư
cho nông nghiệp còn thấp nhưng đã đạt và vượt chỉ tiêu quy hoạch về lương
thực, thịt lợn . Đã xuất hiện một số sản phẩm có chất lượng tương đối tốt, rõ
nhất là gạo chất lượng cao, lợn sữa xuất khẩu. Quỹ thời gian lao động ở khu vực
4
nông thôn được sử dụng ngày càng tăng (đạt ở mức 75%). Từ 1997 đến năm
2004 thu nhập của nông dân được nâng cao (từ 5,7 triệu đồng/hộ năm 1997 tăng
lên 8,7 triệu đồng/hộ năm 2004); giá trị thu nhập trên mỗi héc-ta canh tác tăng
khá (từ khoảng 20 triệu đồng lên khoảng 35 triệu đồng/ha).
Kinh tế thuỷ sản phát triển, xuất hiện một số mô hình nuôi trồng thuỷ sản
có hiệu quả. Nổi bật là mô hình nuôi cá nước ngọt, nuôi tôm nước lợ, nuôi ngọc
trai và nuôi hải sản. Năm 2004, sản lượng thuỷ sản của vùng đạt 20,3 vạn tấn
(riêng khai thác cá biển khoảng 7,8 vạn tấn), giá trị xuất khẩu thuỷ sản đạt
khoảng 70 triệu USD.
- Khu vực dịch vụ có bước phát triển rõ nét, có loại dịch vụ đạt trình độ
phát triển của khu vực và đem lại hiệu quả. Về cơ bản, dịch vụ ngân hàng, viễn
thông đã được hiện đại hoá, có chất lượng, đạt trình độ chung của khu vực; các
hình thức thanh toán hiện đại đã bắt đầu phát triển, thúc đẩy sự phát triển chung.
Tốc độ tăng giá trị các ngành dịch vụ bình quân hàng năm đạt khoảng 8,5%.
Thương mại phát triển mạnh, cả ở thành thị và nông thôn. Du lịch phát triển
ngày một đa dạng và có chất lượng.
2.1.3 - Mạng lưới kết cấu hạ tầng của vùng đã được tăng cường đáng
kể, về cơ bản nhiều mặt có thể đáp ứng yêu cầu phát triển, hợp tác ở mức cao
hơn trước
Hệ thống giao thông được phát triển đáng kể, thời gian vận chuyển giảm
nhiều so với trước (thời gian đi từ Hà Nội tới Hải Phòng giảm được khoảng một
nửa, đi Hạ Long giảm khoảng 40%, đi Thanh Hóa - Nghệ An giảm hơn 30%,...).
Các trục huyết mạch: Quốc lộ 1, Quốc lộ 5, Quốc lộ 18, Quốc lộ 10, 183,
39 đã hoàn thành việc nâng cấp hoặc đang được cải tạo; làm mới đường Bắc
Thăng Long - Nội Bài, đường Láng - Hoà Lạc; xây dựng lại các cầu Bình, Phú
Lương, Lai Vu (Hải Dương); xây dựng mới cầu Tân Đệ (Thái Bình), cầu Thanh
Trì (Hà Nội), Yên Lệnh (Hưng Yên); nâng cấp tuyến Bãi Cháy - Móng Cái và sẽ
hoàn thành cầu Bãi Cháy trong kế hoạch đến năm 2006.
Hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống thuỷ lợi vào loại khá so cả nước.
Vùng đã hình thành các cảng và sân bay quan trọng, tập trung trên 40%
công suất cảng biển của cả nước, hệ thống cảng biển, cảng sông đang được nâng
cấp, nổi bật là cảng Hải Phòng năm 2004 đã đạt công suất 11,8 triệu tấn/năm;
cảng Cái Lân hiện đầu tư giai đoạn I là 1,1 triệu tấn/năm. Sân bay quốc tế Nội
Bài được nâng cấp, có khả năng tiếp đón 4-6 triệu lượt hành khách mỗi năm.
Mạng lưới bưu chính viễn thông phát triển nhanh, tính đến năm 2004 toàn
bộ các tỉnh trong vùng có mạng thông tin viễn thông kỹ thuật số, tất cả các xã
đều có điện thoại, bình quân có 17,2 máy/100 dân, riêng Hà Nội trên 45
máy/100 dân (trong khi cả nước đạt 12,2 máy/100 dân).
2.1.4 - Đô thị hóa phát triển nhanh. Các đô thị lớn, đặc biệt là các
thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long (Quảng Ninh) phát triển nhanh, thu
hút nhiều KCN, tạo ra cục diện mới cho tăng trưởng và giao thương quốc tế
5
Giai đoạn 1997 - 2004, dân số đô thị của vùng tăng hơn 1,3 triệu người.
Vùng ĐBSH có mật độ đô thị dày nhất, ngoài 2 thành phố trực thuộc Trung
ương (Hà Nội, Hải Phòng) còn có 3 thành phố thuộc tỉnh, 11 thị xã, 105 thị trấn
và hàng trăm thị tứ góp phần tạo ra sự chuyển biến đáng kể cho vùng và thúc
đẩy giao thương. Trên địa bàn vùng đã hình thành 22 khu công nghiệp (KCN),
khu chế xuất (KCX), trong đó có 15 khu đã đi vào hoạt động, thu hút hàng trăm
doanh nghiệp và tạo việc làm cho khoảng 1,5 vạn lao động, tạo ra khoảng 3,7
nghìn tỷ đồng GDP. Các đô thị và các khu công nghiệp trong vùng có nếp sống
đô thị và phong cách kinh doanh tiên tiến, cuốn hút sự phát triển chung của các
vùng xung quanh.
2.1.5 - Tại vùng ĐBSH, bước đầu trong một số lĩnh vực đã hình thành
được đội ngũ doanh nhân và lao động kỹ thuật có năng lực tiếp cận trình độ
quốc tế trong các lĩnh vực có vốn đầu tư nước ngoài như: điện tử, đồ điện dân
dụng, công nghệ phần mềm, sản xuất vật liệu, lắp ráp ô tô, xe máy; may mặc,
giày dép, nước giải khát. Vùng có khoảng 30 vạn doanh nghiệp công nghiệp
(ước khoảng gần 90 vạn các nhà doanh nghiệp), chiếm 39,4% số doanh nghiệp
công nghiệp cả nước và hơn 5 nghìn doanh nghiệp thuộc ngành dịch vụ thương
mại, du lịch (ước khoảng gần 15-20 nghìn các nhà doanh nghiệp), chiếm 21% số
doanh nghiệp thương mại du lịch cả nước.
2.1.6 - Về lĩnh vực văn hoá - xã hội
Mạng lưới y tế phát triển mạnh so với các vùng khác. Trung tâm y tế
chuyên sâu đã và đang được đầu tư. Mạng lưới bệnh viện, phòng khám đa khoa
liên khu vực và các trung tâm y tế cơ sở tương đối hoàn chỉnh cả về theo tuyến
dọc, cả về cơ cấu bộ môn chuyên ngành với cơ sở nghiên cứu, kỹ thuật, thiết bị
y tế từng bước được hiện đại hoá, đồng bộ hoá và phân bố rộng khắp trên cả
vùng, từ đô thị đến các vùng nông thôn. Số cơ sở y tế tư nhân phát triển nhanh
chóng. Công tác quản lý, sản xuất, cung ứng thuốc và trang bị y tế có tiến bộ;
hệ thống y học cổ truyền được củng cố. Tính đến năm 2004, số dân trung bình
trên một cơ sở y tế của vùng ĐBSH là 1.757 người (cả nước là 6.150 người), có
tỷ lệ xã chưa có trạm y tế thấp nhất (0,1%, trong khi đó cả nước là 2,1%, Tây
Nguyên tới 5,0%). Tỷ lệ bệnh tật trẻ em giảm rõ rệt, hơn 99% số trẻ em dưới 1
tuổi được tiêm chủng phòng 6 bệnh dịch nguy hiểm (cả nước khoảng 96%).
Hưởng thụ văn hoá được nâng cao một bước, 100% số hộ thành thị có
thiết bị nghe nhìn, khoảng 95% các hộ nông dân được dùng điện phục vụ cho
sinh hoạt văn hoá (phát thanh và truyền hình).
Các hoạt động văn hoá chuyên nghiệp tăng nhanh, đến nay vùng ĐBSH
chiếm khoảng 26% số đơn vị nghệ thuật, 33% số rạp hát, 20% rạp chiếu bóng
của cả nước. Các hoạt động văn hoá nghệ thuật đem lai kết quả thiết thực, nhiều
loại hình văn hoá nghệ thuật truyền thống ở các làng quê được phục hồi; các
hoạt động lễ hội truyền thống được khôi phục và phát huy tác dụng tốt trong
việc nâng cao truyền thống và tự hào dân tộc; hương ước được phát triển rộng
khắp; gia đình văn hoá, cơ quan văn hoá và làng văn hoá được phát triển; nhân
6
dân có ý thức đấu tranh chống tệ nạn xã hội, đặc biệt triển khai có kết quả việc
giảm thiểu tai nạn giao thông, tạo lòng tin và phấn khởi trong nhân dân.
Các chính sách chăm sóc người có công, đền ơn đáp nghĩa gia đình
thương binh liệt sĩ, công tác bảo trợ xã hội được thực hiện tốt. Giao lưu văn hoá
với các nước được mở rộng...
2.1.7 - An ninh chính trị, kinh tế, tư tưởng văn hoá, an ninh thông tin
và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
2.2- Những mặt chưa được và yếu kém
2.2.1- Về kinh tế
(1) Các ngành kinh tế của ĐBSH phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng, lợi thế của vùng; các mục tiêu quy hoạch đề ra hầu hết chưa thực hiện
được. Sau khi quy hoạch vùng ĐBSH được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (tại
Quyết định số 667/QĐ-TTg ngày 23/8/1997), các ngành, các địa phương đã tích
cực triển khai thực hiện quy hoạch, bước đầu đã đạt được những thành tựu quan
trọng, nhưng chưa tạo được đà bứt phá, mức đạt còn thấp so mục tiêu của quy
hoạch.
- Mục tiêu mức tăng GDP thời kỳ 1996 - 2000 chỉ bằng khoảng 80% mục
tiêu quy hoạch đã đề ra (9/11,45%/năm), tốc độ tăng GDP của các năm 20012004 cũng chỉ đạt mức khoảng 8,5 - 9%/năm. Theo xu thế này, mục tiêu tăng
trưởng của quy hoạch (thời kỳ 2001 - 2005: 13% và thời kỳ 2006 - 2010: 14%)
khó có khả năng đạt được.
- Chưa tận dụng hết năng lực sản xuất công nghiệp, mức phát huy công
suất thiết kế của phần lớn doanh nghiệp còn thấp. Đến nay mức phát huy công
suất thiết kế cao nhất chỉ khoảng 60% (một số loại phát huy công suất tương đối
cao như xi măng khoảng 70%, gạch ốp lát 62%, ti vi 53%, dệt vải 35%, quần áo
may sẵn 58%, chế biến sữa 47%). Một số sản phẩm cao cấp đặc trưng của vùng
như lắp ráp ôtô, xe máy, xe đạp, mức huy động công suất cũng không cao .
- Xuất khẩu chỉ đạt được khoảng 78% so với mục tiêu đề ra (năm 2000
đạt khoảng 2,1 tỷ USD, năm 2002 đạt 2, 424 tỷ USD, năm 2004 xấp xỉ 3 tỷ
USD). Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người của vùng ĐBSH năm 2004
bằng 88% xuất khẩu bình quân đầu người của cả nước và chỉ bằng khoảng 2025% của vùng Đông Nam Bộ. Các ngành tiểu thủ công nghiệp, mỹ nghệ tuy có
tiềm năng song phát triển còn hạn chế. Do vậy độ mở của nền kinh tế của vùng
ĐBSH (XK/GDP) mới đạt khoảng 43% (của cả nước khoảng 47%).
- Thu ngân sách nhà nước còn thấp so với tiềm năng của vùng. Tỷ lệ huy
động GDP vào ngân sách nhà nước năm 2004 đạt khoảng 20 %, thấp hơn mức
trung bình của cả nước và chưa có xu hướng tăng một cách ổn định.
- Mục tiêu đảm bảo việc làm cho người lao động không đạt, vùng ĐBSH
có tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị vào loại cao nhất cả nước, tới trên 6% (trung bình
của cả nước 5,6%).
(2) Trong thời gian qua mới chú trọng thực hiện công nghiệp hoá, nội
dung hiện đại hoá chưa đáng kể.
7
- Vùng ĐBSH, đặc biệt là vùng KTTĐ Bắc Bộ có công nghiệp phát triển
sớm nhất trong cả nước, song đến nay các ngành công nghệ cao chưa có nhiều,
ngành cơ khí chế tạo và điện tử tin học còn nhỏ bé, chủ yếu là lắp ráp (như lắp
ráp tivi, ô tô, xe máy, các thiết bị nghe nhìn,...). Năm 1990, ngành chế tạo máy
móc thiết bị tuy có tỷ trọng cao hơn so với mức chung cả nước, song cũng chỉ ở
mức 4 - 5% tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp của vùng (cả nước
gần 2%), tính đến năm 2004, con số này khoảng 7- 8% (cả nước khoảng 6%);
trong khi đó công nghiệp rượu bia, nước giải khát và chế biến thực phẩm chiếm
trên 24% toàn ngành công nghiệp của vùng (cả nước 24,7%).
- Tỷ lệ các doanh nghiệp tự động hoá khoảng 2%, thủ công chiếm tới
17%; các ngành điện tử và sản xuất đồ điện dân dụng là ngành mới phát triển,
song chủ yếu lắp ráp CKD.
- Tốc độ đổi mới công nghệ của vùng ĐBSH cũng nằm trong tình trạng
chung cả nước, ước khoảng 11-12% (cả nước 10%), so với tốc độ đổi mới công
nghệ của các nước tiên tiến trên thế giới thì đây là mức rất thấp.
- Các ngành sản xuất vật liệu, đặc biệt sản xuất vật liệu mới tạo tiền đề
cho các ngành sản xuất khác phát triển lại chưa hình thành. Ngay đối với các
ngành sản xuất vật liệu truyền thống như thép cũng chỉ mới sản xuất thép xây
dựng thông thường, trong khi đó thép tấm và thép cao cấp phải nhập hoàn toàn.
- Trong lĩnh vực nông nghiệp và thuỷ sản, trình độ khoa học-công nghệ
còn thấp, đặc biệt trong lĩnh vực lai tạo giống mới phù hợp với điều kiện Việt
Nam. Năng suất một số cây trồng còn thấp so một số nước, ví dụ lúa đạt 55,3
tạ/ha (Trung Quốc: 62,5 tạ/ha, Hàn Quốc: 62 tạ/ha); ngô đạt 31,1 tạ/ha (Trung
Quốc: 54 tạ/ha, Úc: 80 tạ/ha).
Nông dân của vùng ĐBSH tuy có trình độ thâm canh nông nghiệp, nhưng
sau nhiều năm đổi mới, cơ bản vẫn là sản xuất độc canh cây lúa, nuôi lợn tận
dụng phân bón; chưa nỗ lực chuyển giao công nghệ mới và mang tính đột biến
(nhất là chưa ứng dụng mạnh mẽ công nghệ sinh học); chưa coi trọng đầu tư để
hình thành và phát triển vùng nguyên liệu nông sản hàng hoá, phát triển ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp và thị trường xuất khẩu; do đó, kinh tế nông nghiệp
và nông thôn của vùng chưa rõ hướng bứt phá. Năm 2004 xuất khẩu hàng nông
sản đạt gần 1 tỷ USD (bằng khoảng 85% mục tiêu quy hoạch). Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn có chủ trương xây dựng dự án phát triển vùng lúa xuất
khẩu với số lượng 300 ngàn tấn/năm, đến nay chưa có kết quả, bởi chất lượng
gạo, chủng loại gạo không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
- Do trình độ hiện đại hoá thấp nên năng suất lao động còn ở mức thấp,
nên mặc dù vùng ĐBSH có lao động dồi dào, kỹ năng lao động tương đối khá,
song năng suất lao động mới chỉ bằng 1,2 lần năng suất lao động trung bình của
cả nước và bằng khoảng 40% năng suất trung bình của vùng Đông Nam Bộ (tính
theo GDP/lao động).
(3) Cơ cấu kinh tế có bước phát triển song bộc lộ nhiều yếu kém, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế không đạt được mức đề ra của quy hoạch. Năm 2004 so với
8
các mục tiêu đề ra cho năm 2000 thì tỷ trọng công nghiệp đã vượt (40,5/33,1%),
tỷ trọng nông nghiệp cũng đã vượt mức quy hoạch (11,7/15,9%), tỷ trọng dịch
vụ không đạt mục tiêu (47,8/51%). Biểu hiện cơ bản về yếu kém cơ cấu là:
- Các ngành công nghiệp hỗ trợ (bổ trợ) nhằm phát huy thế và lực trong
vùng ĐBSH còn rất kém, chính vì vậy dẫn đến giá trị quốc gia trong sản phẩm
của vùng còn thấp.
Đến nay các ngành sản xuất phụ trợ đi theo lắp ráp ôtô, xe máy, tivi như
công nghiệp sản xuất phụ tùng ôtô, phụ tùng xe máy, linh kiện điện tử, vỏ ti vi...
còn quá non trẻ và không đáng kể nên tỷ lệ nội địa hoá rất thấp, chẳng hạn đối
với sản phẩm dệt chỉ đạt 30%, ôtô 6%, hàng điện tử 10%. Đánh giá chung, giá
trị quốc gia (thể hiện qua công nghiệp bổ trợ) chỉ khoảng 20-25%. Đây là một
khoảng cách rất lớn phải phấn đấu gia tăng.
- Dịch vụ chất lượng cao chưa phát triển.
Kinh nghiệm các nước, để đảm bảo nền kinh tế phát triên vững chắc, thì
giá trị gia tăng các ngành sản xuất (công nghiệp-xây dựng và nông lâm, ngư
nghiệp) tăng 1% thì giá trị gia tăng ngành dịch vụ phải tăng từ 1,1-1,8%. Như
vậy, thời gian qua các ngành sản xuất tăng khoảng 8,8%/năm thì dịch vụ tăng ít
nhất là 10%, song thực tế chỉ tăng khoảng 7%/năm.
- Chưa lựa chọn được cơ cấu kinh tế hấp dẫn các nhà đầu tư, nhất là các
nhà đầu tư nước ngoài. Mức thu hút đầu tư nước ngoài còn thấp so với vùng
ĐNB. Tính đến hết năm 2004, đầu tư trực tiếp nước ngoài của vùng chỉ bằng
khoảng 25% tổng mức của cả nước, và bằng 40% của vùng Đông Nam Bộ.
- Tại vùng ĐBSH, chủ trương phát triển các sản phẩm chủ lực có ưu thế
cạnh tranh chưa rõ (chưa rõ cả về chủng loại sản phẩm, khối lượng và chất
lượng sản phẩm); do đó đầu tư phát triển các sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSH
còn ít. Đến nay các ngành cơ khí chế tạo, điện tử, sản xuất đồ điện... vốn có thế
mạnh của vùng, song không được phát triển tương xứng.
Nhìn chung, từ lợi thế của vùng, từ những mô hình làm ăn có hiệu quả
cho thấy, nếu hỗ trợ phát triển nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ hợp lý từ
nguồn bù đắp chi ngân sách hàng năm của vùng, tạo thêm nhiều việc làm, hỗ
trợ thúc đẩy phân công lại lao động tại chỗ; chuyển giao và ứng dụng nhanh
khoa học công nghệ mới... để tăng nguồn thu cho ngành và địa phương, thì
GDP của vùng ĐBSH có thể đạt cao hơn, bằng khoảng 1,4 lần so mức đã đạt
được hiện nay và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có thể đạt mức 1213%/năm chứ không phải mức 8-9%/năm như hiện nay.
(4) Diện tích đất nông nghiệp không nhiều và có xu hướng giảm dần
nhưng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích chưa cao, 80% dân số nông thôn
còn làm nông nghiệp, tiềm lực trong dân cư hạn chế; các đô thị và đất phi nông
nghiệp mở rộng, một bộ phận lớn nông dân không có việc làm..., đang đặt ra
nhiều vấn đề gay gắt.
Năm 2004 dân số nông thôn của toàn vùng có 14,5 triệu người, tổng số
đất dùng vào nông nghiệp khoảng 77,8 vạn ha (chiếm khoảng 42% diện tích tự
9
nhiên), diện tích lúa nước chỉ có khoảng 61,3 vạn ha, chiếm 18,1% diện tích lúa
nước của cả nước; diện tích mặt nước dùng vào nông nghiệp 60 nghìn ha. Với
bình quân đất nông nghiệp đầu người dân nông thôn đạt khoảng 500m 2, giả sử
chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp tạo ra mức thu cao, khoảng 50 triệu
đồng/ha/năm (hiện nay chỉ khoảng 35 triệu đồng/ha) thì với diện tích đất trên chỉ
thu được khoảng 2,8 triệu đồng/người/năm (nếu tính thêm khoảng 20% giá trị
chăn nuôi thì thu nhập từ nông nghiệp khoảng 3,36 triệu đồng/người/năm, chỉ đủ
nuôi sống bản thân một lao động nông nghiệp với mức chi dùng trung bình).
Theo lô gích này, với quỹ đất nông nghiệp như vậy chỉ có thể nuôi sống khoảng
33 - 35% dân số ở khu vực nông thôn (tương ứng có chỗ làm việc cho khoảng
trên 30% số lao động nông nghiệp hiện nay). Đó là áp lực lớn về giải quyết việc
làm ở nông thôn, về phân công lại lao động, về cơ chế chính sách đối với người
trồng lúa... vùng ĐBSH.
(5) Sự phát triển còn mang tính tự phát, không bám sát quy hoạch đề ra,
rõ nhất ở các lĩnh vực sau đây:
- Nhiều điểm đô thị phát triển tự phát, bám quá sát vào các trục giao thông
lớn như ở đường 5, đường 18, đường 1A, đường 39...; trình độ quản lý đô thị
thấp, dẫn đến hạn chế việc mở rộng đường khi có nhu cầu; đặc biệt, làm cản trở
gây ùn tắc và tai nạn giao thông.
- Các làng nghề phát triển tự phát, hầu hết chưa có quy hoạch, đặc biệt
không có biện pháp chống ô nhiễm môi trường, dẫn đến một số quận, huyện,
thành phố và nhiều vùng nông thôn, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng.
- Hệ thống đào tạo từ bậc cao đẳng trở lên và dạy nghề ở vùng ĐBSH
chưa được quy hoạch phát triển một cách có căn cứ khoa học là nguyên nhân
chủ yếu làm cho chất lượng đào tạo thấp và chưa theo kịp yêu cầu của thị
trường.
(6) Vẫn còn có sự chênh lệch đáng kể về trình độ phát triển giữa các tỉnh
của hai tiểu vùng.
Hiện nay các tỉnh phía Nam của vùng ĐBSH vẫn còn khó khăn, kém phát
triển so với các tỉnh phía Bắc của vùng ĐBSH.
- Các tỉnh, thành phố ở phía Bắc vùng ĐBSH (là vùng KTTĐ Bắc Bộ
theo Thông báo số 108/TB-VPCP ngày 30/7/2003 của Văn phòng Chính phủ)
gồm 8 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Quảng Ninh, Hải Dương,
Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh; trong đó có các thành phố lớn như Hà Nội,
Hải Phòng, Hạ Long là những trung tâm thương mại và giao lưu quốc tế của
vùng và cả nước; là địa bàn tập trung nhiều ngành công nghiệp (cơ khí chế tạo,
điện tử tin học, sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp) và dịch vụ (chiếm tới 83,6%
trong tổng GDP của vùng, trong khi của cả vùng chỉ chiếm 76% so cả nước); tập
trung phần lớn cán bộ khoa học, các trường đại học và trung tâm nghiên cứu của
vùng. Tốc độ tăng trưởng GDP của các tỉnh KTTĐ Bắc Bộ (Bắc vùng ĐBSH)
giai đoạn 1996-2004 đạt 10,2%/năm (bằng 1,13 lần mức tăng chung của vùng);
GDP bình quân đầu người gấp 1,2 lần cả vùng ĐBSH và gấp 2 lần của các tỉnh
10
Nam ĐBSH; thu ngân sách trên 1 đồng GDP gấp 1,1 lần cả vùng ĐBSH và gấp
1,8 lần so các tỉnh Nam vùng ĐBSH, xuất khẩu bình quân đầu người gấp 1,3 lần
cả vùng ĐBSH và gấp 4,8 lần vùng Nam ĐBSH.
- Các tỉnh thuộc phía Nam của ĐBSH, gồm 4 tỉnh: Nam Định, Hà Nam,
Ninh Bình, Thái Bình chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp; công nghiệp và dịch
vụ chưa phát triển (mới chiếm 53,2% trong GDP); chưa huy động và thu hút
được nhiều đầu tư trong nước và nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực nông, lâm
nghiệp, thủy sản. Lực lượng cán bộ khoa học và lao động kỹ thuật công nghiệp
còn ít. Tốc độ tăng trưởng bình quân chỉ đạt 7,3%/năm, bằng 81% tốc độ tăng
trưởng của cả vùng ĐBSH và bằng khoảng 71% tốc độ tăng trưởng của các tỉnh
KTTĐ Bắc Bộ (Bắc ĐBSH). Mức GDP bình quân đầu người chỉ bằng 60% của
cả vùng ĐBSH và 49% của các tỉnh Bắc ĐBSH. Thu ngân sách thấp, thu không
đủ chi (hàng năm nhận trợ cấp của Trung ương khoảng 70-80%).
Sự phát triển và mức sống của dân cư ở hai tiểu vùng còn chênh lệch lớn,
làm hạn chế sự phát triển chung, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, đã đặt ra
nhiều vấn đề bức xúc cần sớm giải quyết.
(7) Nhìn chung, trình độ công nghệ của vùng ĐBSH vẫn còn thấp và còn
thấp nhiều so với nhiều nước trong khu vực.
Thiết bị của một số lĩnh vực như bưu chính viễn thông, sản xuất hàng điện
tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng, một số ngành thực phẩm và hàng tiêu dùng
đạt trình độ tương đối khá. Việc phát triển khoa học, công nghệ trong các ngành
còn lại và trong nông nghiệp, thuỷ sản còn rất hạn chế. Các ngành công nghệ
cao, tự động hóa còn ít.
(8) Chưa phát huy hết năng lực của các KCN đã có, tỷ lệ diện tích cho
thuê thấp, đóng góp cho xuất khẩu và thu hút lao động chưa cao.
Trừ số ít KCN ở Hà Nội, có tỷ lệ lấp đầy trên 40% diện tích, còn lại hầu
hết các KCN khác đạt tỷ lệ thấp, có KCN tỷ lệ đất cho thuê chỉ đạt khoảng 16%.
Đến hết tháng 12/2004, có khoảng 15 trong 22 KCN của vùng đang hoạt động.
Nhiều KCN tuy được cấp phép, đã hình thành Ban quản lý KCN, đã đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng... nhưng phát huy hiệu quả rất thấp, thậm chí chưa phát huy
được hiệu quả. Tổng diện tích các KCN đã được thành lập của vùng ĐBSH là
3.500 ha, trong đó diện tích có thể cho thuê là 2.625 ha, thực sự mới phát huy
được khoảng 300 ha; tổng doanh thu các KCN năm 2002 ước đạt 3.500 tỷ đồng
(khoảng 225 triệu USD). Theo tính toán quy hoạch, nếu tận dụng hết khả năng
KCN thì doanh thu có thể đạt 2,8 tỷ USD và có thể tạo được việc làm cho
khoảng 10 vạn lao động (gấp 10 - 12 lần so với mức đạt được hiện nay).
(9) Vùng ĐBSH tập trung số doanh nghiệp Nhà nước nhiều nhất trong cả
nước (chiếm khoảng 40% số doanh nghiệp), nhưng nhiều doanh nghiệp hoạt
động còn kém hiệu quả, không có lãi; nhiều doanh nghiệp Nhà nước trong diện
chậm tiến hành cổ phần hoá, ảnh hưởng không nhỏ tới chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và tăng trưởng của vùng.
11
Các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đang gặp khó khăn, đặc biệt các doanh
nghiệp Nhà nước trong ngành dệt, cơ khí... thiếu vốn đầu tư trong việc thay đổi
thiết bị, công nghệ. Nhiều sản phẩm sản xuất ra với giá thành cao, khó tiêu thụ,
sức cạnh tranh kém. Việc bố trí, sắp xếp, nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp
Nhà nước trong vùng vẫn là thách thức lớn, đòi hỏi phải tập trung sức giải
quyết dứt điểm.
(10) Việc hình thành các loại hình thị trường vẫn quá chậm và chưa đồng
bộ; tư duy về kinh tế thị trường thua kém các tỉnh phía Nam, vẫn còn nhiều yếu
tố tự cung tự cấp; mặt trái của cơ chế thị trường vẫn chi phối không nhỏ.
Tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại, dẫn đến thất thu lớn ngân
sách nhà nước. Đến nay, tình trạng bảo hộ còn quá rộng, đặc biệt đối với một số
doanh nghiệp Nhà nước (thông qua chính sách miễn giảm thuế, miễn giảm tiền
sử dụng đất, thuê đất,...) đã tạo ra sự ỷ lại, dựa dẫm vào Nhà nước.
Thị trường vốn và tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung hạn, chưa thực sự
phát triển mạnh, vốn trong dân còn nhiều chưa huy động được; hiệu quả sử dụng
ngoại tệ ở mức thấp, nguồn ngoại tệ huy động được chủ yếu phải đem ra gửi ở
nước ngoài. Thị trường chứng khoán bắt đầu hoạt động từ năm 2001, cho đến
nay còn quá nhỏ bé.
Thị trường bất động sản còn nhiều bất cập, hiện tượng "sốt" đất do đầu cơ
đất vẫn chưa được ngăn chặn kịp thời, gây ra hầu hết các nguyên nhân khiếu
kiện, làm hạn chế rất lớn đến khả năng đầu tư. Việc quản lý sử dụng đất ở các
địa phương bị buông lỏng; chưa phân công, phân cấp rõ ràng hoặc chồng chéo
trong quản lý quy hoạch giữa các ngành địa chính và xây dựng, đặc biệt ở các đô
thị trong vùng; chưa có biện pháp, chế tài đủ mạnh để kiểm tra giám sát việc
thực hiện.
Thị trường lao động còn nhiều bất cập, người lao động tuy được tự do tìm
việc làm ở mọi nơi trong nước, song việc tổ chức, hướng dẫn còn lúng túng, tuy
có sôi động hơn nhưng chưa thực sự ổn định và hiệu quả. Xuất hiện một số hiện
tượng tiêu cực trong xuất khẩu lao động, gây thiệt hại và hoang mang trong tầng
lớp lao động trẻ nông thôn.
(11) Nhìn chung việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng (KCHT) chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển, nhất là đầu tư phát triển KCHT của các đô thị lớn,
mạng lưới đường cao tốc và hệ thống cơ sở vật chất cho phát triển công nghệ
thông tin.
2.2.2- Những yếu kém về lĩnh vực văn hoá- xã hội
Đến nay vùng ĐBSH vẫn còn 37,4% số trạm y tế thiếu thuốc, 22,5% trạm
y tế thiếu cán bộ y tế, tới 62% trạm y tế khả năng đáp ứng dịch vụ y tế thấp.
Công tác quản lý nhà nước về y tế chậm được đổi mới. Chất lượng dịch vụ y tế
tại tuyến tỉnh, huyện chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân, nên dẫn đến
tình trạng các bệnh viện tuyến trung ương, các thành phố lớn bị quá tải do người
dân tự vượt tuyến, còn các bệnh viện tỉnh, đặc biệt bệnh viện huyện, thường sử
12
dụng không hết công suất. Những tiêu cực trong y tế, y đức chậm được khắc
phục.
Nhiều tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, cờ bạc, hủ tục, buôn thần bán
thánh... vẫn chưa được khắc phục; bệnh dịch AIDS có chiều hướng gia tăng, đặc
biệt phát triển ở các thành phố và khu du lịch như Hạ Long, Hải Phòng, Hà Nội
và các tỉnh có nhiều lao động nông thôn đi làm tự do... gây nhức nhối trong xã
hội.
Có lúc, có nơi có hiện tượng thương mại hoá các lễ hội, văn hoá- nghệ
thuật và tín ngưỡng... gây tác hại trong nhân dân, tác động đến một bộ phận
không nhỏ thanh, thiếu niên.
Tỷ lệ thất nghiệp lớn ở thành thị và bộ phận lao động trẻ nông thôn thiếu
việc làm, dồn ra thành thị, gây quá tải ở các thành phố, là nguy cơ tiềm tàng nảy
sinh tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường. Số lượng người chết vì tại nạn giao
thông tuy giảm, song vẫn ở mức cao.
2.3- Nguyên nhân chủ yếu
2.3.1 - Về quy hoạch phát triển
Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của vùng ĐBSH tuy được nghiên cứu
sớm, nhưng nhiều cấp chưa thấy hết tầm quan trọng về vị trí chiến lược của
vùng để có cơ chế chính sách và tổ chức chỉ đạo tương xứng; chưa công phu tiến
hành điều tra cơ bản về tài nguyên, nguồn nhân lực... nhằm khai thác thế mạnh,
khắc phục có hiệu quả mặt hạn chế của vùng; nhiều quy hoạch chi tiết có tầm
nhìn ngắn hạn, hoặc không theo quy hoạch tổng thể; các dự báo thị trường và
hội nhập quốc tế chưa được coi trọng và chậm được điều chỉnh cho phù hợp với
tình hình thực tế. Sự phối hợp giữa các bộ ngành với địa phương trong xây dựng
và thực hiện quy hoạch chưa thật sự có hiệu quả, thiếu kiên quyết trong hướng
dẫn, kiểm tra giám sát, chậm tổng kết đánh giá thực hiện; kế hoạch phát triển
chủ yếu do địa phương tự xây dựng và thụ động trông chờ vào sự trợ giúp của
trung ương; chưa có nhiều giải pháp, biện pháp cụ thể, tích cực để bứt phá, làm
cho quy hoạch chậm đi vào cuộc sống và giảm tác dụng.
Việc quyết định hình thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là đúng đắn
nhưng thiếu giải pháp cụ thể; việc tổ chức thực hiện, (nhất là việc đầu tư) thiếu
chủ động, không tích cực, lại có phần phân tán; do đó đến nay sự phát triển
thống nhất và mạnh mẽ trên địa bàn vùng KTTĐ Bắc Bộ chưa rõ nét, tác dụng
của vùng KTTĐ chưa cao.
2.3.2- Về đầu tư, nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển chưa
nhiều, đầu tư cho phát triển nông nghiệp trong vùng chưa tương xứng
Thực tế tổng số vốn đã đầu tư cho phát triển vùng mới đáp ứng khoảng
70% so với nhu cầu đã tính toán trong quy hoạch, chủ yếu mới chỉ dựa vào
nguồn đầu tư từ ngân sách, nên việc huy động các nguồn vốn đầu tư trong dân
cư và tổ chức kinh tế còn hạn chế, nhất là đầu tư trong nông nghiệp do hiệu quả
thấp nhưng cơ chế khuyến khích đầu tư chưa đủ sức hấp dẫn; lại chưa có sự đầu
tư tập trung tạo ngành chủ lực, tạo nền tảng cho sự phát triển quy mô lớn, trình
13
độ cao, tương xứng với vị trí của vùng đối với cả nước.
2.3.3 - Còn có tình trạng chậm đổi mới về tư duy trong đội ngũ cán bộ
lãnh đạo các cấp, công tác điều hành còn bộc lộ thiếu chủ động, sáng tạo,
năng động
Trước hết do chậm đổi mới về tư duy và tổ chức thực hiện, sức ỳ và cách
làm cũ còn khá đậm nét; tiếp cận cơ chế thị trường chậm, còn trông chờ, ỷ lại
vào ngân sách Trung ương, chờ đầu tư nước ngoài. Thủ tục hành chính trong
nhiều lĩnh vực còn phiền hà, chậm trễ, gây khó khăn cho các nhà đầu tư , doanh
nghiệp và người dân. Chưa phát huy tốt sức mạnh của các thành phần kinh tế,
nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Còn thiếu cơ chế điều hoà, phối hợp
chung cả vùng, chưa quản lý điều hành, phối hợp có hiệu quả giữa trung ương
và địa phương, giữa các địa phương trong và ngoài vùng.
Việc vận dụng cơ chế chính sách chưa tạo ra được sự phát triển có hiệu
quả; có những chính sách chưa được điều chỉnh kịp thời. Việc tổ chức sắp xếp
lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước, việc cải cách thủ tục hành chính tiến hành
chậm và chưa phát huy tác dụng đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Công tác xã hội
hoá đối với những lĩnh vực có điều kiện huy động các nguồn lực của xã hội chưa
đáp ứng yêu cầu (giáo dục, y tế, môi trường đô thị...).
2.3.4 - Đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách, cán bộ quản lý điều
hành, doanh nhân, lao động trình độ kỹ thuật cao thiếu về số lượng và yếu về
chất lượng, một bộ phận chưa công tâm, thiếu tâm huyết... dẫn tới bỏ lỡ
nhiều cơ hội làm ăn, nảy sinh các biểu hiện tiêu cực tác động đến phát triển.
Đội ngũ những người hoạch định chính sách, cán bộ quản lý chưa được
đào tạo bài bản theo cơ chế mới, việc bổ sung kiến thức cho họ còn hạn chế;
chính sách sử dụng cán bộ công chức (chế độ trách nhiệm, quyền lợi) chưa rõ
ràng phù hợp dẫn đến tình trạng dễ làm, khó bỏ, gây phiền hà cho cơ sở còn xảy
ra; buông lỏng kỷ cương phép nước, tính cục bộ địa phương còn nặng. Theo
điều tra, khoảng 80 - 90% số cán bộ quản lý nhà nước có trình độ tốt nghiệp đại
học trở lên về các chuyên ngành khoa học, kỹ thuật, kinh tế, song kiến thức và
kinh nghiệm về quản trị kinh doanh, quản lý nhà nước còn yếu (tỷ lệ chưa qua
đào tạo về quản lý nhà nước các cấp của vùng khoảng 50 - 70% so với tổng số),
trên 90% số người đăng ký lập doanh nghiệp chỉ có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ ngành, chưa qua đào tạo quản lý doanh nghiệp, còn rất thiếu hiểu biết về
pháp luật.
Lực lượng lao động kỹ thuật thiếu, lao động trình độ kỹ thuật cao lại càng
thiếu, chưa thực sự chú ý chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài.
Các hiện tượng lấn chiếm đất công, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông đã
làm mất đáng kể những đóng góp của dân và ngân sách của nhà nước. Tình
trạng thiếu dân chủ ở một số nơi gây nên những bất hoà của dân và đang tiềm ẩn
nhiều bất ổn đối với sự phát triển.
II- PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG ĐBSH
14
Xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển của
vùng cần nhận rõ cơ hội, thách thức trong từng ngành, từng lĩnh vực, địa phương
nhằm tranh thủ thời cơ thuận lợi, khắc phục có hiệu quả những hạn chế của
vùng.
Với lợi thế so sánh, vùng ĐBSH có nhiều cơ hội phát triển trong xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực so với cả nước: đi đầu đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng, nhất là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn; đi đầu trong những lĩnh vực then chốt, cơ bản, thúc đẩy sự
chuyển biến của cả nước.
ĐBSH cần vượt qua một số thách thức để phát triển trong thời gian tới.
Đó là hiệu quả đầu tư phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của
vùng; chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chất lượng các ngành kinh tế chưa cao,
chưa tạo được đà bứt phá của nông nghiệp hàng hoá và xuất khẩu; chênh lệch
giữa hai tiểu vùng Bắc và Nam ĐBSH còn lớn; nhiều chỉ tiêu chưa đạt mức của
quy hoạch đề ra.
A- QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN
1. Phát triển vùng ĐBSH đi đầu trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt đi đầu trong những lĩnh
vực then chốt, cơ bản, thúc đẩy sự chuyển biến của cả nước. Phát huy đồng bộ
sức mạnh tổng hợp của Trung ương, của vùng, của Hà Nội, của cả nước, của các
thành phần kinh tế, của hợp tác quốc tế trong quá trình phát triển vùng. Khai
thác nội lực là nhân tố quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng.
2. Phát triển ĐBSH phải có tầm nhìn dài hạn và gắn kết chặt chẽ với các
vùng khác. Phấn đấu, về cơ bản, vào năm 2020 vùng ĐBSH có công nghiệp,
dịch vụ, nông nghiệp phát triển ở trình độ cao, hiện đại.
3. Tăng trưởng và phát triển với tốc độ nhanh, có chất lượng cao và bền
vững trên cơ sở xây dựng cơ cấu kinh tế có khả năng cạnh tranh cao, phát huy
hiệu quả vùng kinh tế trọng điểm và sức mạnh của Thủ đô, liên kết phối hợp
giữa các địa phương, các ngành làm động lực thúc đẩy sự phát triển của cả vùng
Bắc Bộ cũng như của cả nước, tạo ra sự phân công- hợp tác chặt chẽ trong một
cơ cấu thống nhất trên phạm vi vùng và cả nước.
4. Trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện, kết hợp hài hoà các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng; phát triển lực lượng sản xuất
gắn liền với xây dựng, củng cố quan hệ sản xuất; phát triển hài hoà giữa các loại
quy mô, giữa các loại trình độ, gắn hiệu quả trước mắt với hiệu quả lâu dài; đẩy
mạnh cải cách hành chính, áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, quản lý;
xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ cao, có phẩm chất đạo đức và tâm huyết;
phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội, giảm thiểu chênh lệch mức sống
giữa đô thị và nông thôn, giữa Bắc và Nam vùng ĐBSH, giữa vùng và các vùng
phụ cận.
15
5. Đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế hơn nữa, đặc biệt chú ý cơ cấu
kinh tế, cơ chế chính sách phải đổi mới mạnh hơn nữa. Đảm bảo môi trường
sinh thái bền vững, kể cả khu vực thành thị và nông thôn.
B- MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN
1- Mục tiêu tổng quát
Phấn đấu đạt trình độ phát triển cao để tiếp tục khẳng định vai trò động
lực đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững, có hiệu quả
của cả nước; đi đầu và thực hiện thành công sớm công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập kinh tế quốc tế; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân và thúc đẩy, hỗ trợ các vùng khác, nhất là các vùng còn nhiều khó khăn
cùng phát triển.
2- Mục tiêu cụ thể
2.1. Về kinh tế
- Đóng góp khoảng 18-20% vào tăng trưởng kinh tế chung của cả nước;
đưa tỷ trọng GDP của vùng so với cả nước đạt khoảng 23-24% vào năm 2010 và
khoảng 26-27% vào năm 2020. GDP bình quân đầu người vào năm 2005 tăng
1,6 lần so với năm 2000, vào năm 2010 tăng 2,7 lần và vào năm 2020 tăng
khoảng 4,5 lần so với năm 2000.
- Mức tăng tổng sản phẩm (GDP) bình quân năm của vùng đạt mức hai
con số (từ 10% trở lên) cho thời kỳ 2006-2010. Trong đó, công nghiệp tăng
khoảng 13-14%; dịch vụ 11%, nông nghiệp khoảng 4-4,5%. Riêng vùng KTTĐ
Bắc Bộ có tốc độ tăng trưởng 10-11% (phương án cao đạt 11-12%).
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp song nông sản hàng hoá phát triển
mạnh. Năm 2010, tỷ trọng của công nghiệp, xây dựng chiếm khoảng 42%, dịch
vụ 48% và nông nghiệp 10% trong GDP.
- Đến năm 2010 xuất khẩu đạt 4,7-4,8 tỷ USD, chiếm khoảng 20-25% tổng
giá trị xuất khẩu cả nước.
- Hình thành các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao
(công nghiệp điện tử, công nghiệp phần mềm và công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học; công nghiệp cơ khí chế tạo, công nghiệp đóng tàu...). Hoàn thiện các
KCN ở ngoại vi các thành phố lớn, dọc đường 5, 10, đường 18 và đường 21.
- Hình thành một bước cơ bản công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn
của vùng; phát triển mạnh hàng hoá nông sản xuất khẩu, ngành nghề nông thôn,
kinh tế biển và vùng ven biển; giải quyết việc làm và cuộc sống ổn định cho số
dân vùng ven biển.
- Đóng góp lớn vào thu ngân sách, đến 2010 cân đối thu chi ngân sách
trên toàn vùng.
- Nâng cao vai trò trung tâm kinh tế và giao thương quốc tế của Thủ đô
Hà Nội, Hải Phòng và Hạ Long để đảm nhận chức năng dịch vụ cho cả khu vực
phía Bắc.
- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, thông tin hiện đại, phát triển công
16
nghiệp và nhà ở theo chiều cao nhằm giảm thiểu bất lợi của tình trạng “đất chật
người đông”; cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống cảng biển, đường sắt,
đường ô tô, đường sông, đường thuỷ và đường hàng không. Phát triển kết cấu hạ
tầng, nhất là đường sá, cầu, cảng,… ở phía Bắc để đáp ứng nhu cầu dịch vụ vận
chuyển cho phía Bắc và Tây Nam Trung Quốc.
2.2. Về văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế, thể dục thể thao
- Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống (cả vật thể và phi
vật thể) để góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
- Đảm bảo dịch vụ có chất lượng, ở mức cao về giáo dục, đào tạo, dạy
nghề, chăm sóc sức khỏe và hưởng thụ văn hóa.
- Xây dựng nền thể dục, thể thao tiên tiến với lực lượng thể dục, thể thao
đạt trình độ cao trong khu vực; đẩy mạnh phong trào thể dục, thể thao quần
chúng.
- Thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hoá giáo dục, văn hoá, y tế,
thể dục, thể thao.
2.3. Về đời sống
- Nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân. Nâng cao tuổi thọ và chiều
cao trung bình, tăng khẩu phần và chất lượng dinh dưỡng của người dân. 100%
dân đô thị được dùng nước máy, 85% dân số nông thôn được dùng nước sạch;
75% số hộ gia đình nông thôn có hố xí hợp vệ sinh; dân đi lại dễ dàng và được
chăm sóc sức khỏe tốt.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn mới) còn dưới 5% vào năm 2005
và 2% vào năm 2010; giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi SDD còn dưới 10%.
2.4 Dân số, nguồn nhân lực
Phấn đấu giữ số dân ở mức 20 triệu người; lao động qua đào tạo chiếm
45%; chuẩn hoá đội ngũ công chức các cấp. Giảm tỷ lệ thất nghiệp đô thị còn
dưới 6%; tăng quỹ thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên khoảng 80%.
2.5 Về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Đảm bảo ổn định vững chắc an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
trong mọi tình huống. Loại trừ các loại bệnh dịch, giảm thiểu bệnh HIV/AIDS,
tệ nạn ma tuý, tệ nạn xã hội; đảm bảo an toàn giao thông.
2.6. Môi trường
Đảm bảo bền vững môi trường cả ở đô thị và ở nông thôn; phủ xanh diện
tích hoang hoá chưa sử dụng, đưa độ che phủ của rừng và cây lâu năm trong
vùng lên khoảng 28%. Phát triển các cơ sở xử lý chất thải đáp ứng yêu cầu.
C- CÁC NHIỆM VỤ CHỦ YẾU
1- Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng các
ngành kinh tế
Xây dựng cơ cấu kinh tế đến năm 2010 có các ngành phi nông nghiệp
chiếm khoảng 90% trong tổng GDP. Các sản phẩm chủ lực đóng góp 60-65%
GDP của vùng. Kinh tế của vùng có độ mở trên 90%. Xây dựng cơ cấu kinh tế
17
hiện đại với các ngành mũi nhọn có khả năng đột phá, có sức cạnh tranh trên
thị trường trong nước, quốc tế, đem lại nhiều giá trị gia tăng nội địa.
1.1 - Đối với công nghiệp
Tập trung vào hiện đại hoá trên cơ sở ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
gắn với cảng, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, chế biến thực
phẩm, vật liệu mới, nhưng cũng phải chú ý những ngành sử dụng nhiều lao động
và xuất khẩu. Phấn đấu tăng sản phẩm hoàn chỉnh và giảm gia công.
(1) Phát triển công nghiệp phần mềm, thiết bị tin học, tự động hoá thành
ngành công nghiệp mũi nhọn.
- Hình thành ở Hà Nội trung tâm công nghiệp phần mềm - tin học, có sản
phẩm phần mềm xuất khẩu quy mô ngày càng lớn. Hoàn thành khu công nghệ
cao Hoà Lạc; phấn đấu hoàn thành về cơ bản tin học hoá các lĩnh vực quản lý
hành chính, quản lý tài chính và quản trị doanh nghiệp. Thực hiện điện tử hoá,
tin học hoá 50-60% các phương tiện đo lường, kiểm tra, điều khiển.
- Sản xuất các thiết bị tự động hoá, rô-bốt... trang bị cho các ngành kinh tế
quốc dân.
- Sản xuất các thiết bị khoa học công nghệ, y tế...
- Phát triển các ngành công nghiệp để đảm bảo cứ 5 năm tăng gấp 2 lần
mức đáp ứng về nhu cầu điện thoại, nghe, nhìn và máy vi tính.
(2) Sản xuất nguyên vật liệu
- Nghiên cứu sản xuất vật liệu mới để tăng khả năng đáp ứng nhu cầu
trong nước, giảm tối đa nhập khẩu. Chú trọng thép hợp kim, vật liệu từ tính cao
cấp, vật liệu sứ kỹ thuật cao (chịu nhiệt, chịu mài mòn), sứ polyme cách điện,
polyme dẫn điện...
- Sản xuất xi măng, vật liệu nội thất và vật liệu lợp: Đến năm 2010 trong
vùng sẽ có khoảng 6-8 nhà máy xi măng lò quay công suất lớn với tổng công
suất trên 17-20 triệu tấn xi măng/năm (trong đó có cả xi măng trắng và xi măng
chịu thủy). Phát triển mạnh vật liệu nội thất (gạch men, thiết bị vệ sinh) và các
loại tấm lợp, vật liệu xây dựng chất lượng cao.
- Sản xuất thép: Chuyển hướng mạnh sang sản xuất các sản phẩm thép
chất lượng cao, thép tấm, thép lá, thép chế tạo. Phấn đấu sản lượng thép các loại
đến 2010 đạt trên 3 triệu tấn (gồm phôi thép 1 triệu tấn, thép tấm 0,6 triệu tấn,
thép xây dựng gần 2,5 triệu tấn). Xây dựng nhà máy tạo phôi công suất 50 vạn
tấn/năm, cán thép 30 vạn tấn/năm, thép tấm 30 vạn tấn/ năm tại Quảng Ninh.
(3) Xây dựng ngành công nghiệp hỗ trợ (bổ trợ) trong vùng ĐBSH có lợi
thế so sánh
- Cơ khí chế tạo thiết bị, linh kiện phụ tùng thay thế
- Phát triển cơ khí chế tạo máy công cụ. Phấn đấu vào năm 2010 chiếm
lĩnh được khoảng 60-65% thị phần trong nước về các sản phẩm cơ khí chế tạo,
vật liệu và thiết bị điện; xuất khẩu một số sản phẩm có lợi thế so sánh.
- Phát triển cơ khí chế tạo máy xây dựng. Đến năm 2010, phấn đấu đáp
ứng 60-70% nhu cầu phụ tùng cho ngành xi măng lò quay, 100% cho thiết bị xi
18
măng lò đứng của cả vùng Bắc Bộ; đáp ứng 100% dây truyền thiết bị sản xuất
gạch nung tuynen có công suất 7-20 triệu viên/năm, đáp ứng về cơ bản nhu cầu
các trạm trộn bê tông, các trang thiết bị phục vụ xây lắp.
- Chú trọng sản xuất các ngành công nghiệp tạo nguyên liệu.
(4) Phát triển công nghiệp đóng tàu, cơ khí chế tạo (đáp ứng nhu cầu chế
biến nông sản thực phẩm, ngành nghề) và sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp trở
thành một trong những lĩnh vực công nghiệp chủ lực của vùng.
- Hình thành trung tâm lớn về cơ khí đóng mới và sửa chữa phương tiện
vận tải, nhất là phương tiện vận tải thuỷ và vận tải đường sắt hiện đại của cả
nước. Đến năm 2005 đóng và sửa chữa được tàu 50.000 tấn trở lên, trên cơ sở
phát triển cụm công nghiệp đóng tàu Quảng Ninh - Hải Phòng (nhà máy đóng
tàu Bạch Đằng; nhà máy sửa chữa, đóng mới tàu có trọng tải lớn 5-6 vạn tấn ở
Đình Vũ, Phà Rừng và Hạ Long). Xây dựng mới nhà máy tàu biển Cái Lân
(Quảng Ninh) để sửa chữa và đóng tàu đến 50.000 tấn. Sản xuất đầu tầu, đóng
mới các toa tàu hoả hiện đại; các xe ô tô chở khách chất lượng cao, sản xuất
thiết bị bốc dỡ hàng hoá có sức nâng lớn...
- Lắp ráp ô tô, xe máy. Lắp ráp xe máy khoảng 1,1 triệu xe/năm (chiếm
62% công suất lắp ráp xe máy cả nước). Sản xuất xe ô tô các loại, chú trọng
xe ô tô vận tải hành khách, xe taxi chất lượng cao, đạt khoảng 65 nghìn cái vào
năm 2010.
- Phát triển cơ khí sản xuất động cơ nổ từ 32 CV trở lên, động cơ điện có
công suất lớn, máy kéo từ nhỏ tới lớn... nhằm trang bị cho bản thân công nghiệp,
đáp ứng về cơ bản yêu cầu của các ngành nông lâm, thủy sản. Đầu tư chiều sâu
sản xuất máy bơm nước, sản xuất thiết bị chế biến nông sản thực phẩm, ươm tơ
30 tấn tơ/năm, thiết bị trích ly, ép dầu thực vật và các thiết bị đông lạnh.
- Sản xuất hàng cơ khí tiêu dùng cao cấp như tủ lạnh, điều hoà không khí,
xe máy, xe đạp và phụ tùng; các mặt hàng thiết bị điện dân dụng trên cơ sở liên
doanh với nước ngoài.
(5) Phát triển mạnh một số lĩnh vực quan trọng:
- Điện: Phát triển nhiệt điện chạy than, nghiên cứu xây dựng nhà máy
điện chạy khí để sử dụng nguồn khí ở vùng trũng ĐBSH. Dự kiến công suất các
nhà máy nhiệt điện đạt vào khoảng 3.000-4.000 MW ( mở rộng nhà máy nhiệt
điện Phả Lại công suất khoảng 1.040 MW, xây dựng thêm nhà máy nhiệt điện
mới Cẩm Phả công suất 150MW, mở rộng nhà máy nhiệt điện Uông Bí với công
suất 300MW, xây dựng nhà máy nhiệt điện 1.000 MW tại Mông Dương).
- Than: Đến năm 2010 sản lượng khai thác khoảng 28-29 triệu tấn, trong
đó 60% sản lượng than khai thác hầm lò; xuất khẩu 6-7 triệu tấn. Nghiên cứu
dự án khai thác than vùng Thái Bình, Hải Dương. Ngoài than đá, có kế hoạch
khai thác than bùn.
- Dệt, may, da, giầy:
19
Hiện đại hoá các xí nghiệp dệt hiện có, đưa sản lượng vải lên
khoảng 150 triệu mét vào năm 2010; mở rộng dệt kim từ 20 triệu
sản phẩm hiện nay lên 70 triệu sản phẩm vào năm 2010.
May mặc: Sản lượng may năm 2010 đạt khoảng 350 triệu sản phẩm
(trong đó xuất khẩu 250-280 triệu sản phẩm). Phát triển may mặc
chất lượng cao chủ yếu phục vụ xuất khẩu.
Da - giầy: Hiện đại hoá các nhà máy sản xuất giầy, năm 2010 đạt
sản lượng khoảng 190-215 triệu đôi giầy/năm, trong đó 70% cho
xuất khẩu. Tiếp tục đổi mới công nghệ nhà máy thuộc da hiện có,
nghiên cứu phát triển các nhà máy sản xuất da nguyên liệu, thuộc
da mới có công nghệ hiện đại.
1.2 - Đối với thương mại và du lịch
- Đẩy mạnh phát triển dịch vụ cơ bản, đem lại giá trị lớn và có chất
lượng cao, đặc biệt các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, vận tải, thông tin
liên lạc, đào tạo và khoa học công nghệ, y tế..., hình thành những trung tâm dịch
vụ tiêu biểu của quốc gia, mang ý nghĩa khu vực, quốc tế:
Dịch vụ tài chính ngân hàng: Xây dựng hệ thống ngân hàng hiện
đại. Hình thành tập đoàn tài chính.
Dịch vụ viễn thông, phát thanh, truyền hình phát triển ở trình độ
cao, hiện đại; mở rộng hợp tác, dịch vụ thông tin rộng khắp và kịp
thời; đảm bảo thông suốt liên lạc quốc tế.
Dịch vụ vận tải hàng hải: Khuyến khích đổi mới tàu, nhất là đội tàu
lớn. Ưu tiên đầu tư phát triển mạnh những dịch vụ hàng hải quốc tế,
xuất khẩu thuyền viên.
Dịch vụ đường sắt nói chung và đặc biệt trong các thành phố lớn
như Hà Nội, Hải Phòng.
Dịch vụ hàng không: Hoàn thành việc hiện đại hoá các sân bay hiện
có; tiến tới xây dựng sân bay quốc tế mới đạt trình độ quốc tế và
phục vụ quy mô vận tải lớn.
Dịch vụ xây dựng: Thực hiện chính sách hiện đại hoá công nghệ
công nghiệp xây dựng để đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước và
xuất khẩu ra nước ngoài.
- Hình thành những trung tâm thương mại hiện đại ngang tầm khu vực và
quốc tế, tập trung xây dựng Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long thành những trung tâm
giao thương lớn. Mở rộng thương mại quốc tế và thương mại liên vùng.
- Phát triển du lịch toàn diện và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn với các
sản phẩm tiêu biểu là du lịch biển, đảo, núi, danh lam thắng cảnh, nghỉ dưỡng và
lễ hội văn hoá truyền thống, du lịch sinh thái.
1.3 - Đi đầu trong việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn và xây dựng thành công nông thôn mới
Phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản gắn với giải quyết tốt vấn đề nông
dân và theo hướng sản xuất hàng hoá chất lượng, năng suất và hiệu quả cao gắn
20
với phát triển các làng nghề; đảm bảo an ninh lương thực cho cả vùng và các
tỉnh vùng Trung du, Miền núi phía Bắc; đồng thời chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, thuỷ sản, giảm dần tỷ trọng ngành
trồng trọt; phát triển ngành nghề nông thôn để chuyển một số lớn lao động nông
nghiệp sang các ngành sản xuất phi nông nghiệp. Phát triển các mô hình nông
thôn mới và nhanh chóng nhân ra diện rộng.
Cần đảm bảo cho người nông dân có tỷ lệ nông sản hàng hoá tương ứng
60% (Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới với mức GDP/người tương đương khoảng 800-1000
USD, người dân phải dành tới 60% thu nhập để chi dùng cho các khoản không phải là thực phẩm) đảm bảo
giá trị sản xuất của các ngành phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng khoảng trên 70%
trong nông thôn (hiện nay khoảng 40%). Kéo theo đó dân số nông thôn đến năm
2010 còn khoảng 50-60%. Để làm được điều này, cần tập trung vào:
- Chuyển mạnh cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng
phát triển nền nông nghiệp sinh thái sạch với công nghệ cao và công nghệ sinh
học. Thực hiện đổi mới phân công lao động, trong đó chỉ khoảng 30-40% lao
động làm nông nghiệp (khoảng 2,7-3 triệu lao động), còn lại làm phi nông
nghiệp, dịch vụ.
- Hình thành các vùng sản xuất lúa, rau, chăn nuôi lợn, bò sữa, gia cầm,
hoa, cây cảnh... theo hướng phát triển có quy mô thích hợp và chất lượng cao
phục vụ xuất khẩu và cung cấp sản phẩm sạch cho nhân dân (nhất là cho đô thị
và khu công nghiệp) trên cơ sở đa dạng các loại hình sản xuất, trang trại, hộ gia
đình, phát triển mạnh kinh tế hợp tác và hợp tác xã; mở rộng liên kết giữa các
thành phần kinh tế. Các cây trồng, con vật nuôi chủ lực của vùng ĐBSH tiêu
biểu là lúa chất lượng cao, rau thực phẩm cao cấp; hoa, cây cảnh, cây ăn quả,
giống cây, con, lợn siêu nạc, bò kiêm dụng thịt và sữa, vịt siêu trứng và vịt thịt
chất lượng cao.
Phát triển lương thực: Góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia, sản lượng lượng thực của vùng đến 2010 đạt 7,5-8 triệu tấn,
riêng lúa khoảng 7 triệu tấn. Ổn định diện tích lúa như hiện nay
(khoảng 4,2 triệu ha) thông qua việc thâm canh , sử dụng các giống
lúa lai cho năng suất cao và giống lúa chất lượng cao, đưa vụ đông
dần trở thành vụ chính. Đầu tư xây dựng vùng lúa chất lượng cao,
đi đôi với phát triển công nghiệp chế biến lúa gạo cung cấp cho các
thành phố và xuất khẩu với diện tích khoảng 30 vạn ha, sản lượng 2
triệu tấn. Phát triển cây ngô lai, ngô chất lượng cao đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng và phát triển chăn nuôi. Diện tích ngô năm 2010 đạt
14,6 vạn ha.
Phát triển cây công nghiệp: Đối với cây chè, chỉ giữ quy mô như
hiện nay; nghiên cứu xây dựng thêm nhà máy chè tinh chế để tăng
giá trị của chè xuất khẩu và nội địa. Khôi phục diện tích dâu tằm đã
bị mai một, đến năm 2010 dự kiến 1 vạn ha dâu tằm, sản lượng 800
tấn; sản phẩm tơ tằm chủ yếu để xuất khẩu.
21
Phát triển mạnh cây ăn quả, rau, hoa, cây cảnh phục vụ nhu cầu
trong nước và xuất khẩu. Riêng cây ăn quả năm 2010 diện tích
khoảng 7 vạn ha, trong đó nhãn, vải khoảng 3,3 vạn ha. Phát triển
mạnh rau quả và nấm, đáp ứng nhu cầu của đô thị và xuất khẩu.
Hướng vào rau quả sạch, cao cấp; các sản phẩm xuất khẩu như
nhãn, vải, dứa, cà chua, tập trung ở Hưng Yên, Hải Dương, Hà
Nam, Ninh Bình; phát triển nấm ở tất cả các tỉnh trồng lúa; rau cao
cấp và hoa ở các huyện, xã ven đô thị lớn.
Chăn nuôi: hình thành các trang trại chăn nuôi nái, thịt gia súc, gia
cầm quy mô lớn, tỷ suất hàng hoá cao, cung ứng sản phẩm cho các
đô thị, khu công nghiệp trong vùng và xuất khẩu. Phát triển nhanh
chăn nuôi lợn siêu nạc và lợn sữa xuất khẩu, đẩy mạnh sind hoá đàn
bò, mở rộng chăn nuôi bò sữa nơi có điều kiện. Xây dựng các tiểu
vùng và doanh nghiệp chăn nuôi an toàn dịch. Đến năm 2010 chăn
nuôi trong vùng đạt : 740 nghìn con bò (có 25 nghìn bò sữa), 160
nghìn trâu, 7 triệu con lợn, 100 triệu con gia cầm. Xây dựng các xí
nghiệp chăn nuôi tập trung ở Thái Bình, Hưng Yên, Hà Nam, Nam
Định, Ninh Bình. Bò sữa phát triển ở ngoại thành Hà Nội, Vĩnh
Phúc, Hà Tây, Hà Nam, Hưng Yên...
- Phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt và nước lợ, đặc biệt trong các
vùng bãi triều và 8 vùng bãi bồi ven biển (Hải Phòng 3, Thái Bình 2, Nam Định
2, Ninh Bình 1). Năm 2010, chuyển dịch cơ cấu ruộng trũng, đưa diện tích nuôi
trồng đạt 17 vạn ha và đưa năng suất nuôi trồng thuỷ sản bình quân lên trên 2
tấn/ha, sản lượng đạt 38 vạn tấn. Phát triển mạnh đánh bắt hải sản ngoài khơi xa,
sản lượng đến năm 2010 đạt khoảng 74 nghìn tấn. Xuất khẩu thuỷ sản năm 2010
đạt khoảng 200 triệu USD.
- Lâm nghiệp: Hướng vào khai thác có hiệu quả vùng đồi, hình thành các
khu rừng ven biển, các dải cây xanh ven các thành phố lớn, bảo tồn danh thắng
và các vườn rừng quốc gia. Giữ ổn định đất lâm nghiệp đến năm 2010 khoảng
40 vạn ha, trồng rừng 1 vạn ha, kết hợp với phát triển du lịch sinh thái.
- Phát triển bền vững các làng nghề, khôi phục các làng nghề truyền thống
và hình thành nhiều làng nghề mới: sản xuất hàng tiểu thủ công mỹ nghệ, hàng
cơ, kim khí tiêu dùng, sản xuất đồ gỗ cao cấp, dệt may, cơ khí sửa chữa và sản
xuất vật liệu xây dựng. Nâng kim ngạch xuất khẩu hàng tiểu thủ công nghiệp
đến năm 2010 đạt khoảng 850-900 triệu USD.
- Hình thành nhiều cụm công nghiệp vừa và nhỏ gắn với xây dựng các
làng văn hóa mới, làm vệ tinh cho các trung tâm công nghiệp lớn. Các trung tâm
công nghiệp lớn trong vùng có chức năng cung cấp thiết bị và công nghệ, làm
hạt nhân cho các hoạt động công nghiệp gia công và sản xuất chi tiết thiết bị
máy móc cho các làng nghề, cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
22
1.4 - Xây dựng và thực hiện các đề án đảm bảo giữ vững an ninh - trật
tự, chú trọng các thành phố lớn, các vùng trọng điểm phức tạp phòng chống
tội phạm kinh tế
2- Phát triển các tiểu vùng tạo sức mạnh tổng hợp cho cả vùng
2.1 - Phát triển tổng hợp, có hiệu quả của Vùng Kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ (tiểu vùng phía Bắc ĐBSH) và Nam ĐBSH.
a- Đối với các tỉnh vùng KTTĐ Bắc Bộ (các tỉnh phía Bắc của vùng
ĐBSH).
Hướng phát triển của vùng KTTĐ Bắc bộ đã được ghi rất rõ trong Quyết
định 145/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 13 tháng 8 năm 2004 về
phương hướng chủ yếu phát triển KT-XH Vùng KTTĐ Bắc bộ đén năm 2010 và
tầm nhìn đến 2020. Trong báo cáo này chỉ nêu nhữung phương hướng chính
phát triển vùng này.
Vùng KTTĐ Bắc Bộ “có vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh
tế-xã hội của cả nước, là vùng có đủ điều kiện và lợi thế phát triển công nghiệp,
đặc biệt là công nghiệp nặng, công nghiệp sử dụng công nghệ cao, phát triển
khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, phát triển dịch
vụ du lịch để tăng trưởng nhanh, hiệu qủa và bền vững" (Thông báo số 108/TBVPCP ngày 30/7/2003 của Văn phòng Chính phủ về kết luận của Thủ tướng
Chính phủ tại Hội nghị vùng KTTĐ Bắc Bộ).
Để phát huy vai trò động lực của tiểu vùng này, hướng phát triển là:
- Đi đầu trong việc thực hiện hiện đại hoá. Phát triển các ngành công nghệ
cao thuộc các lĩnh vực cơ khí chế tạo, điện tử tin học, sản xuất vật liệu mới, vật
liệu xây dựng chất lượng cao.
- Phát triển nhanh công nghiệp hỗ trợ (bổ trợ) để nâng cao giá trị gia tăng
của quốc gia trong mỗi sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Hình thành các trung tâm
công nghiệp lớn (khai thác than, sản xuất điện, xi măng, sản xuất thép, đóng tàu
quy mô lớn) gắn với các khu công nghiệp tập trung, thu hút một bộ phận lao
động từ các tỉnh thuộc tiểu vùng Nam ĐBSH.
- Đẩy mạnh phát triển dịch vụ chất lượng cao, đưa tốc độ tăng trưởng
vượt trước so với các ngành sản xuất từ 0,8 hiện nay lên khoảng 1,1-1,3 đến
năm 2010. Tỷ trong các ngành dịch vụ chất lượng cao trong dịch vụ đạt khoảng
70-75%. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, thông tin liên lạc, đào tạo và
khoa học công nghệ,... sẽ được phát triển với trình độ ngày càng cao, tiêu biểu
cho quốc gia và có được những trung tâm dịch vụ mang ý nghĩa khu vực, quốc
tế.
- Hình thành khu "sinh dưỡng" công nghiệp cho cả vùng tại Vĩnh PhúcBắc Hà Nội. Đẩy nhanh phát triển Khu công nghệ cao Hoà Lạc.
- Hình thành các trung tâm lớn tại Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long để tạo
vùng và giao lưu quốc tế, hỗ trợ cho các tỉnh Nam vùng ĐBSH về khoa học
công nghệ, đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực và làm hạt nhân liên kết phát triển
23
công nghiệp và du lịch; hình thành hệ thống các đô thị vệ tinh để giảm bớt mức
độ tập trung quá mức vào các đô thị lớn.
- Phát triển mạnh kinh tế biển và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông
nghiệp, hình thành các vùng sản xuất nguyên liệu hàng hoá tập trung, chất lượng
cao.
- Phát triển hệ thống cảng đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh của vùng.
Nghiên cứu xây dựng cảng nước sâu ở khu vực Hải Phòng-Quảng Ninh. Xây
dựng cảng cạn trung chuyển tại Hải Dương nhằm đẩy nhanh tốc độ giải toả hàng
hoá qua cảng.
- Xây dựng mới Trung tâm đào tạo chất lượng cao và nghiên cứu xây
dựng trường đại học đa ngành tại Hưng Yên.
- Xây dựng khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn (Quảng Ninh) với các chức
năng: nghiên cứu xây dựng sân bay, du lịch sinh thái, khu bảo tồn quốc gia, nuôi
trồng hải sản đặc sản, công nghiệp sạch.
- Đi đầu trong hợp tác quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài.
b- Đối với các tỉnh phía Nam vùng ĐBSH
Vùng Nam Đồng bằng sông Hồng có những đặc điểm về lợi thế và khó
khăn, hạn chế, tác động đến quá trình phát triển là:
- Phát huy lợi thế là cửa ngõ phía Nam của vùng ĐBSH, liền kề và ảnh
hưởng trực tiếp của vùng KTTĐ Bắc Bộ.
Khoảng cách nơi gần nhất Phủ Lý (Hà Nam) và nơi xa nhất là thị xã Ninh
Bình đến Hà Nội chỉ khoảng 60-90km; tiểu vùng này sẽ là nơi nhận được sự hỗ
trợ về đầu tư và khoa học-công nghệ, kinh nghiệm quản lý và vốn đầu tư của
vùng KTTĐ Bắc Bộ nếu có chính sách phù hợp.
- Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, hàng hoá, có khả năng nâng cao
thu nhập trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp, tuy nhiên phải đối mặt với
với tình trạng bình quân đất nông nghiệp trên đầu người thấp.
Hiện nay, vùng Nam ĐBSH chiếm 38% diện tích đất nông nghiệp toàn
vùng ĐBSH, là vùng đất tốt, có truyền thống trồng lúa lâu đời, có khả năng
chuyển đổi cơ cấu để có thể đạt mức thu nhập trên 1 ha canh tác cao, từ 30 triệu
đồng/ha hiện nay lên 50 triệu/ha trong tương lai. Tuy nhiên theo tính toán, do
đất nông nghiệp ít, dân số đông nên việc chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp đạt
được mục tiêu 50 triệu đồng/ha cũng chỉ nuôi sống cao nhất được khoảng 35%
dân số khu vực nông thôn, còn lại phải giải quyết việc làm từ công nghiệp và
dịch vụ. Đây là áp lực lớn đối với Tiểu vùng này và cũng cho thấy giải pháp cơ
bản phải có cơ chế chính sách để đẩy mạnh phát triển các ngành phi nông
nghiệp mới tạo thế đi lên cho Tiểu vùng.
- Ba trong bốn tỉnh Nam ĐBSH có biển, lại là khu vực biển được bồi tụ
hàng năm là thế mạnh của vùng.
Biển là điều kiện thuận lợi để phát triển các lĩnh vực kinh tế biển cho Tiểu
vùng. Hiện nay biển thuộc 3 tỉnh có lượng phù sa lấn biển tới 100m/năm; dải
24
ven biển có nhiều bãi triều để phát triển nông nghiệp và thuỷ sản, có nhiều bến
cảng và hình thành các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, có ý nghĩa lớn đối với từng
tỉnh như ở Ninh Phúc (Ninh Bình), Diêm Điền (Thái Bình), Thịnh Long (Nam
Định). Ngoài ra vùng biển có khả năng phát triển sản xuất muối khá tốt như
Thái Thuỵ, Tiền Hải (Thái Bình), Hải Hậu, Giao Thuỷ, Nghĩa Hưng (Nam
Định). Nếu khai thác triệt để tài nguyên ven biển, biển và vùng úng trũng vào
phát triển thuỷ sản cũng đã đem lại giá trị đáng kể cho nền kinh tế của Tiểu
vùng.
- Phát triển có hiệu quả những làng nghề truyền thống, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn của vùng.
Từ lâu đời, các làng xã vùng Nam ĐBSH đều biết thêm một nghề phụ thủ
công, từ đơn giản như đan lát, làm gốm thô sơ, đồ mộc... đến các nghề thủ công
tinh xảo. Các nghề chính là dệt, gốm và cơ khí, luyện kim. Đến nay tiểu vùng
đã có trên 400 làng nghề, với các nghề sản xuất chính như : mộc, gốm sứ, mây
tre đan, cói, thêu ren, dệt, làm muối, cơ khí, rèn, đúc, sửa chữa cơ khí. Có những
làng nghề như ở Cát Đằng - Yên Tiến, Tống Xá - Yên Xá, La Xuyên - Yên Ninh
(Ý Yên), Xuân Tiến (Xuân Trường), Nam Giang (Nam Trực) của Nam Định đã
sản xuất được những đồ đúc, đồ mộc, máy cơ khí có tính mỹ thuật, kỹ thuật cao
và thị trường tiêu thụ khắp cả nước.
Những cơ sở làng nghề này là điều kiện và tiền đề phát triển công nghiệp
nông thôn, hình thành các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở các khu vực nông
thôn của tiểu vùng.
Ngoài ra, lực lượng lao động trẻ có nghề (xây dựng, mộc, trồng hoa cây
cảnh, nuôi trồng thuỷ sản...) và lao động làm các nghề tự do quanh năm ở khắp
mọi miền đất nước, tạo nguồn thu nhập chủ yếu cho hàng trăm nghìn gia đình ở
nông thôn, nếu được tổ chức, hướng nghiệp, sử dụng phù hợp, là nguồn lao động
rất dồi dào của các địa phương.
- Khai thác tài nguyên khoáng sản và tài nguyên du lịch.
Tài nguyên cho phát triển du lịch: Nằm trong khu vực của nền văn minh
lúa nước, có nền văn hoá dân gian khá phong phú, các tỉnh trong tiểu vùng có
nhiều di tích lịch sử, di tích văn hóa, lễ hội truyền thống. Đó là các điều kiện để
phát triển du lịch, hình thành các điểm du lịch cuối tuần của vùng kinh tế trọng
điểm và các tuyến du lịch liên vùng của ĐBSH. Đáng chú ý là quần thể di tích
hành cung nhà Trần ở Tức Mặc, chùa Phổ Minh, Phủ Giầy...; khu di tích Hoa
Lư, hang động Tam Cốc, Bích Động, Trường An... Các sản phẩm văn hóa phi
vật thể, đó là các làn điệu hát chèo, hát chầu văn, hầu bóng, ả đào; nhiều hội
làng truyền thống như vật võ Liễu Đôi đã nổi tiếng trong cả nước.
Phát triển mạnh và có hiệu quả du lịch, nhất là du lịch văn hoá và du lịch
sinh thái. Trong đó Ninh Bình, Hà Tây, Nam Định, Thái Bình gắn bó với nhau
thành những tuyến du lịch hấp dẫn thông qua Hiệp hội du lịch chung.
Ngoài ra, trong vùng còn có vườn quốc gia Cúc Phương, khu bảo tồn
thiên nhiên vùng đất ngập nước Xuân Thuỷ, Thái Thuỵ. Đây là những khu bảo
25