Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

tai lieu tap huan nghiên cứu khoa học xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.73 KB, 39 trang )

KẾT QUẢ MONG ĐỢI
1. Về kiến thức: Học viên nắm được:
- Hiện trạng cuộc thi Khoa học – Kỹ thuật của học sinh phổ thông.
- Quy trình và nghiệp vụ hướng dẫn học sinh phổ thông thực hiện các đề tài NCKH.
- Những kiến thức cơ bản về phương pháp luận NCKH.
2. Về kỹ năng: Học viên củng cố và phát triển các kỹ năng:
- Tư duy về vấn đề nghiên cứu, từ đó hướng dẫn học sinh hình thành đề tài nghiên cứu.
- Phát huy năng lực hướng dẫn học sinh: Xây dựng đề cương và triển khai kế hoạch
nghiên cứu đề tài.
3. Về thái độ: Học viên cần:
- Nghiêm túc, đam mê trong NCKH.
- Truyền cảm hứng sáng tạo và say mê NCKH cho học sinh.
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỀ TÀI KHOA HỌC
LĨNH VỰC XÃ HỘI – HÀNH VI
1. Yêu cầu và tầm quan trọng của việc học sinh phổ thông NCKH
- Khuyến khích học sinh trung học NCKH; sáng tạo kĩ thuật, công nghệ và vận
dụng kiến thức của các môn học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn.
- Góp phần đổi mới hình thức tổ chức dạy học; đổi mới hình thức và phương
pháp đánh giá kết quả học tập; phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh; thúc đẩy
giáo viên tự bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; nâng cao chất
lượng dạy học trong các cơ sở giáo dục trung học.
- Khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, cơ sở nghiên cứu, các tổ
chức và cá nhân hỗ trợ hoạt động nghiên cứu KHKT của học sinh trung học.
- Tạo cơ hội để học sinh trung học giới thiệu kết quả nghiên cứu KHKT của
mình; tăng cường trao đổi, giao lưu văn hóa, giáo dục giữa các địa phương và hội nhập
quốc tế.
2. Những điểm còn hạn chế của cuộc thi Khoa học – Kỹ thuật của học sinh
2.1. Về nhận thức
- Mặc dù hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh đã có những bước phát
triển mạnh mẽ trong những năm qua nhưng một bộ phận cán bộ quản lí, giáo viên và


cha mẹ học sinh chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của nghiên cứu khoa học đối với
việc đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh.
Vì thế, ở một số đơn vị chỉ chú trọng đầu tư cho một số học sinh tham gia nghiên cứu
với mục tiêu dự thi cấp quốc gia mà chưa chú trọng tổ chức rộng rãi hoạt động nghiên
cứu khoa học của học sinh trong các nhà trường.
1


- Cũng vì nhận thức chưa đúng nên một số cha mẹ học sinh đã "đầu tư" cho con
em mình nghiên cứu chỉ với mục đích là được dự thi cấp quốc gia hay quốc tế, để
được tuyển thẳng vào đại học hoặc dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm cơ hội du học
nước ngoài. Việc này đã làm sai lệch động cơ nghiên cứu của các em và vô hình chung
làm cho học sinh có nhận thức không đúng đắn về hoạt động nghiên cứu khoa học.
2.2. Về công tác tổ chức
- Mặc dù Cuộc thi đã được tổ chức hằng năm nhưng một số địa phương còn chưa
chủ động trong việc triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh, chưa huy động
được đông đảo học sinh tham gia nghiên cứu để tạo được nhiều dự án để lựa chọn cho
cuộc thi cấp tỉnh. Có đơn vị chưa tổ chức cuộc thi cấp tỉnh mà chỉ lựa chọn một số dự
án để cử đi tham dự Cuộc thi cấp quốc gia.
- Việc thực hiện các yêu cầu về tổ chức Cuộc thi cấp quốc gia của một số địa
phương còn hạn chế, nhất là về các quy định thực hiện trên website của Cuộc thi, dẫn
đến những sai sót về thông tin của học sinh cũng như chậm trễ về thời gian, gây khó
khăn cho công việc chung.
- Công tác theo dõi, hỗ trợ, kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả triển khai hoạt
động khoa học và cuộc thi khoa học kĩ thuật ở các địa phương chưa có điều kiện thực
hiện đầy đủ, kịp thời.
- Quy trình thẩm định và đánh giá các dự án dự thi của học sinh vẫn còn những
điểm phải tiếp tục cải tiến; việc đánh giá năng lực thực sự của học sinh trong quá trình
thực hiện dự án còn gặp khó khăn.
2.3. Về nội dung các dự án

Đối chiếu với các tiêu chí đánh giá dự án khoa học kĩ thuật của Intel ISEF, các
dự án của học sinh Việt Nam còn tồn tại một số hạn chế như sau:
- Việc nghiên cứu tổng quan còn hạn chế, dẫn tới câu hỏi/vấn đề nghiên cứu chưa
được xác định một cách rõ ràng, cụ thể trong mối quan hệ với những nghiên cứu mới
nhất trong và ngoài nước. Vì vậy có những đề tài đã không xác định được tường minh
điểm mới so với những đề tài cùng lĩnh vực đã được công bố. Cũng vì chưa đầu tư
nghiên cứu tốt về tổng quan nên học sinh chưa đề xuất được những ý tưởng mới và vì
thế nhiều dự án dự thi mới chỉ đạt mức độ "cải tiến", chưa thể hiện được sự sáng tạo về
mặt khoa học hay kĩ thuật. Một số dự án còn "nhầm" lĩnh vực đăng kí dự thi, thể hiện
việc xác định vấn đề/câu hỏi nghiên cứu chưa rõ ràng về mặt khoa học.
- Việc lập kế hoạch nghiên cứu của một số dự án chưa được thực hiện một cách
khoa học, thể hiện ở việc hoàn thành các Biểu mẫu của Cuộc thi chưa chuẩn xác về
mặt nội dung cũng như thời gian thực hiện; cũng vì thế mà chất lượng nghiên cứu còn
hạn chế.
- Việc ghi chép các minh chứng và lí giải về quá trình nghiên cứu, bao gồm việc
xác định vấn đề nghiên cứu, lựa chọn giải pháp giải quyết vấn đề và quá trình thực thi
2


giải pháp để giải quyết vấn đề... còn hạn chế, thể hiện ở việc lúng túng khi phải trả lời
các câu hỏi dạng "Tại sao lại làm thế này mà không làm thế kia?".
- Cách trình bày kết quả nghiên cứu của nhiều dự án còn rập khuôn, nặng về hình
thức.
Nhiều bản báo cáo dự án còn có cấu trúc như là một luận văn, luận án, trình bày
dài dòng
về cơ sở lí luận nhưng không làm bật được vấn đề nghiên cứu và điểm mới, sáng
tạo của đề tài. Việc trình bày poster cũng như việc trả lời phỏng vấn của một số học
sinh còn hạn chế, chưa sáng tạo, linh hoạt.
3. Một số nguyên nhân của hạn chế
- Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của học sinh, gia đình học sinh, nhà

trường và xã hội còn hạn chế. Việc triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học của một
số địa phương mới ở mức độ phát động phong trào, còn thiếu kế hoạch triển khai và tổ
chức các hoạt động cụ thể để lôi cuốn học sinh tham gia, qua đó phát hiện và bồi
dưỡng những ý tưởng khoa học, những học sinh có có lòng say mê và khả năng nghiên
cứu khoa học.
- Năng lực và quy trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học của một số nhà
trường, giáo viên còn hạn chế, chưa tạo cơ hội để học sinh phát huy tính tích cực, tự
lực và sáng tạo trong việc đề xuất và thực thi ý tưởng sáng tạo khoa học kĩ thuật, thể
hiện ở việc chưa hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch nghiên cứu để phê duyệt
trước khi tiến hành nghiên cứu. Một số giáo viên hướng dẫn chưa nắm được những
quy định của Cuộc thi, kể cả Tiêu chí đánh giá dự án dự thi. Trong quá trình hướng
dẫn, giáo viên chưa yêu cầu học sinh thực hiện đầy đủ các yêu cầu về hồ sơ dự thi, thể
hiện qua việc hoàn thành và nộp các Biểu mẫu một cách chính xác và đúng hạn. Một
số dự án còn nặng “bóng dáng” của người hướng dẫn từ ý tưởng đến việc trình bày kết
quả nghiên cứu.
- Khả năng tìm tòi và tham khảo các tài liệu khoa học chuyên ngành của cả giáo
viên và học sinh còn hạn chế, nhất là việc tìm và nghiên cứu các tài liệu bằng tiếng
Anh trên mạng, dẫn tới có những dự án được thực hiện có thể trùng lặp hoặc đã lạc
hậu so với những nghiên cứu đã được công bố ở nước ngoài.
- Điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm phục vụ cho
hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh trong các trường phổ thông còn thiếu
thốn, chưa đồng bộ.
- Sự gắn kết giữa trường phổ thông với các trường cao đẳng, đại học, viện nghiên
cứu, các tổ chức khoa học công nghệ (sở khoa học và công nghệ; Liên hiệp các hội
khoa học-kỹ thuật, các doanh nghiệp khoa học công nghệ; các trung tâm nghiên cứu,
thực nghiệm khoa học - kỹ thuật; ...) trong quá trình tổ chức cho học sinh nghiên cứu
còn chưa chặt chẽ và thường xuyên. Các trường phổ thông chưa tranh thủ được nhiều
nguồn lực của các trường đại học, việc nghiên cứu, các cơ sở khoa học công nghệ về
3



người hướng dẫn, các nhà khoa học chuyên ngành, cơ sở vật chất, thiết bị, phòng thí
nghiệm, kinh phí... cho hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh.
- Cơ chế, chính sách dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh như
kinh phí, chế độ đãi ngộ cho giáo viên làm công tác hướng dẫn học sinh nghiên cứu
khoa học còn chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa tạo được động lực bên trong cho cả giáo
viên và học sinh trong hoạt động nghiên cứu khoa học kĩ thuật.

PHẦN II: HƯỚNG DẪN HỌC SINH NCKH
(Trong phạm vi cuộc thi KH-KT của học sinh phổ thông)
1. Xác định nhóm nghiên cứu:
- Một đề tài có thể do 1 đến 2 học sinh nghiên cứu.
- Nhóm nghiên cứu phải hội tụ:
+ Thường là học sinh lớp 9 hoặc 11, 12 với học lực từ loại khá trở lên.
+ Có năng lực tìm tòi, khám phá, sáng tạo và thích NCKH.
+ Có những hiểu biết cơ bản về lĩnh vực nghiên cứu.
2. Hướng dẫn học sinh xác định vấn đề nghiên cứu:
- Đặt và trả lời các câu hỏi: Tại sao? Như thế nào? Phải làm gì? Làm như thế
nào? Nghiên cứu vấn đề sẽ đáp ứng mục tiêu gì?...
- Hình thành vấn đề nghiên cứu một cách sáng tỏ, mạch lạch và có hướng giải
quyết.
3. Đặt tên đề tài:
- Tên đề tài phải sáng rõ, cô đọng, không quá dài.
- Tên đề tài phải hàm chứa mục tiêu, nội dung và hướng nghiên cứu.
- Tránh đặt tên đề tài như: Mang nhiều nghĩa, thử bàn, bước đầu nghiên cứu, một
vài vấn đề, phát huy hơn nữa…
4. Xây dựng thuyết minh đề cương nghiên cứu:
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
- Lý do về pháp lý.

- Lý do về lý luận.
- Lý do về thực tiễn.
- Nêu tầm quan trọng và tính cấp thiết khi nghiên cứu đề tài.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Mục tiêu nghiên cứu là cái đích cần giải quyết của đề tài (phân biệt với mục
đích).
- Mục tiêu của đề tài phải ngắn gọn, rõ ràng.
4


- Mục tiêu của đề tài phải mang tính khả thi và có giới hạn nhất định theo quy
mô của đề tài.
3. Nội dung nghiên cứu:
- Nội dung nghiên cứu là đặt là nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề gì trong
phạm vi của đề tài.
- Nội dung nghiên cứu phải bám sát mục tiêu nghiên cứu vì vậy đòi hỏi phải
ngắn gọn, rõ ràng và mang tính khả thi.
- Xác định nội dung nghiên cứu đúng sẽ định hướng cho việc hình thành các
chương trong phần nội dung.
4. Giả thuyết nghiên cứu:
- Là đặt ra giả định đề tài nghiên cứu thành công sẽ giải quyết được vấn đề theo
dự kiến khoa học.
- Xác định giả thuyết phải bám sát mục tiêu và nội dung nghiên cứu.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu và sự vật, hiện tượng, hoạt động… mà nhóm nghiên cứu
trực tiếp khám phá, phân tích, đánh giá và kết luận.
- Phạm vi nghiên cứu là giới hạn về không gian, thời gian, đối tượng nghiên cứu
theo quy mô của đề tài.
6. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu là hệ thống cách thức, phương tiện tiếp cận giải quyết

vấn đề nhằm đáp ứng mục tiêu và nội dung nghiên cứu.
- Mỗi đề tài có hệ thống phương pháp nghiên cứu khác nhau.
7. Kế hoạch nghiên cứu:
- Kế hoạch nghiên cứu là toàn bộ lộ trình từ khi bắt đầu đến khi hoàn thiện việc
triển khai nghiên cứu một đề tài.
- Kế hoạch nghiên cứu phải liệt kế toàn bộ công việc của quá trình nghiên cứu.
Trong đó thể hiện rõ: Nội dung công việc; yêu cầu cần đạt; ai làm; thời gian bắt đầu và
kết thúc; dự kiến kinh phí (nếu có) và rủi ro.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận của đề tài
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu:
- Điểm qua những công trình nghiêu cứu của các tác giả đi trước liên quan đến đề
tài nhằm:
+ Họ đã nghiên cứu đến đâu?
+ Thành tựu nghiên cứu của họ là gì?
+ Công trình nghiên cứu của họ đã gợi mở cho nhóm nghiên cứu vấn đề gi?
- Điểm qua những chương trình, những hoạt động của các tổ chức liên quan đến
đề tài nhằm:
5


+ Họ đã làm gì? Làm đến đâu?
+ Kết quả của các chương trình, hoạt động đó có tạo điểm tựa về mặt thực tiễn
cho đề tài không?
1.2. Cơ sở lý luận của đề tài (nội dung 1): Các khái niệm, định nghĩa, quan
niệm liên quan đến đề tài.
Chương 2: Luận điểm 1 (nội dung 2)
Chương 3: Luận điểm 2 (nội dung 3)
Chương 4: Luận điểm 3 (nội dung 4)


PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
PHẦN PHỤ LỤC
5. Hướng dẫn học sinh triển khai nghiên cứu
6. Hướng dẫn học sinh thiết kế poster
7. Hướng dẫn học sinh thuyết trình

6


PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1. Khoa học là gì?
Khoa học được hiều là “ hệ thống những tri thức về mọi lọai qui luật của vật chất
và sự vận động của vật chất, những qui luật của tự nhiên, xã hội, tư duy”
Khoa học còn được hiểu là một họat động xã hội nhằm tìm tòi, phát hiện quy luật
của sự vật và hiện tượng các qui luật ấy để sáng tạo ra nguyên lý các giải pháp tác
động vào các sự vật hoặc hiện tượng, nhằm biến đổi trạng thái.
Ngoài ra, theo quan điểm triết học Mác, khoa học được hiểu là một hình thái ý
thức xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, khoa học tồn tại mang tính độc
lập tương đối với các hình thái ý thức xã hội khác : Khoa học phân biệt với các hình
thái ý thức xã hội khác ở đối tượng và hình thức phản ánh và mang một chức năng xã
hội riêng biệt. Đây là một nhận thức có ý nghĩa quan trọng về phương pháp luận
nghiên cứu khoa học, trong việc xử lý mối quan hệ phức tạp giữa khoa học với các
hình thái ý thức xã hội khác nhau.
Điều cần lưu ý đối với người nghiên cứu và người quản lý nghiên cứu là , mỗi
phát hiện mới về quy luật, hoặc sáng tạo mới thường phải chấp nhận sự va chạm với
các định kiến xã hội, thậm chí là những đụng độ gay gắt, nếu như sự phát hiện hoặc
sáng tạo đó khác biệt với một lề thói của cộng đồng, một tập tục dân tộc, một tín điều
tôn giáo, những cái đã bén rễ sâu xa trong đời sống xã hội.

2. Nghiên cứu khoa học là gì?
Nghiên cứu khoa học nói cho cùng là nhằm thỏa mãn về nhu cầu nhận thức và
cải tạo thế giới:
- Khám phá những thuộc tính bản chất của sự vật hoặc hiện tượng (sau đây gọi
chung là sự vật ).
- Phát hiện quy luật vận động của sự vật.
- Vận dụng quy luật để sáng tạo giải pháp tác động vào sự vật.
3. Chức năng cơ bản của nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học nhằm vào hai mục đích cơ bản: Nhận thức thế giới và cải
tạo thế giới. Hai mục đích đó được thực hiện thông qua những chức năng cụ thể như
sau :
+ Mô tả
Mô tả một sự vật là sự trình bày bằng ngôn ngữ hình ảnh chung nhất của sự vật,
cấu trúc, trang thái, sự vận động của sự vật.
Nhờ nghiên cứu khoa học mà sự vật được mô tả một cách chân xác, phù hợp qui
luật vận động như nó tồn tại. Mục đích của mô tả là đưa ra một hệ thống tri thức về sự
vật, giúp cho con người một công cụ nhận dạng thế giới, phân biệt được sự khác biệt
về bản chất giữa một sự vật này với một sự vật khác.
Sự mô tả bao gồm mô tả định tính và mô tả định lượng.
7


Mô tả định tính nhằm chỉ rõ các đặc trưng về chất của sự vật. Ví dụ, Trái đất và
Kim tinh quay xung quanh Mặt trời theo một quĩ đạo bầu dục. “ Quay theo quĩ đạo
bầu dục” là một đặc trưng về chất của cả hai hành tinh Trái đất và Kim tinh.
Mô tả định lượng nhằm chỉ rõ các đặc trưng về lượng của sự vật. Trong ví dụ
trên, người ta biết được một trong những đặc trưng về lượng là chu kỳ quay của Trái
đất xung quanh Mặt trời là 365,24 ngày đêm; còn chu kỳ quay của Kim tinh xung
quanh Mặt trời là 224,7 ngày đêm.
+ Giải thích

Giải thích một sự vật là sự làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và qui luật
chi phối quá trình vận động của sự vật.
Mục đích của giải thích là đưa ra những thông tin về thuộc tính bản chất của sự
vật để có thể nhận dạng không chỉ những biểu hiện bên ngoài, mà còn cả những thuộc
tính bên trong của sự vật.
Nội dung của giải thích có thể bao gồm giải thích nguồn gốc, giải thích quan hệ
giữa các yếu tố cấu thành sự vật, giải thích tác nhân gây ra sự vận động của sự vật, giải
thích mối liên hệ giữa các quá trình bên trong và các yếu tố bên ngoài sự vẫt, giải thích
hậu quả của các tác động vào sự vật và giải thích qui luật chung chi phối quá trình vận
động của sự vật.
Thực hiện chức năng giải thích, khoa học đã nâng tầm từ chức năng mô tả giản
đơn các sự vật tới chức năng phát hiện qui luật vận động của sự vật, trở thành công cụ
nhận thức các qui luật bản chất của thế giới.
+ Tiên đoán
Tiên đóan một sự vật là sự nhìn trước quá trình hình thành, sự tiêu vong, sự vận
động và những biểu hiện của sự vật trong tương lai.
Chính nhờ thực hiện hai chức năng mô tả và giải thích mà con người có khả năng
ngọai suy, nhìn trước xu thế vận động và quá trình hình thành và phát triển của sự vật.
Với những công cụ về phương pháp luận nghiên cứu, người nghiên cứu thực hiện
các tiên đóan thường khi với độ chuẩn xác bất ngờ về các hiện tượng tự nhiên và xã
hội, chẳng hạn, tiên đóan các hiện tượng kinh tế, thậm chí, tiên đóan các biến cố xã hội
và chính trị vv…
Tuy nhiên điều đáng lưu ý trong nghiên cứu khoa học là mọi phép ngọai suy đêu
phải chấp nhận những độ sai lệch nhất định.
Phương pháp luận biện chứng duy vật Mác-xít không cho phép người nghiên cứu
được tự thỏa mãn với những tiên đóan hoặc lạm dụng các tiên đóan, dù là những tiên
đóan đầy luận cứ của những nhà khoa học có uy tín lớn, để phủ định những kết luận
khoa học đã được kiểm chứng trong đời sống thực tế. Điều này là một kết luận mang
tính phương pháp luận cho mọi lĩnh vực nghiên cứu, bất kể là khoa học tự nhiên, khoa
học kĩ thuật khoa học xã hội hoặc nhân văn.

8


+ Sáng tạo
Sáng tạo là sự làm ra một sự vật mới chưa từng tồn tại
Lịch sử phát triển khoa học đã chứng tỏ, khoa học không bao giờ dừng lại ở
chức năng mô tả, giải thích và tiên đóan. Sứ mệnh có ý nghĩa lớn lao của khoa học
là sáng tạo các giải pháp cải tạo thế giới.
4. Tri thức khoa học
+ Tri thức thường nghiệm
Tri thức thường nghiệm là những hiểu biết được tích lũy từ kinh nghiệm sống
thường ngày. Thiếu những tri thức này, con người sẽ hoàn toàn bỡ ngỡ trước các biến
động, không biết phản ứng trước những sự vật xung quanh.
+ Tri thức khoa học
Tri thức khoa học là những hiểu biết được tích lũy từ quá trình nghiên cứu khoa
học. Tri thức khoa học được biểu hiện dưới dạng các khái niệm, phạm trù, tiền đề, qui
luật, định luật, định lý, lý thuyết, học thuyết vv…
Trong một tọa đàm về kinh nghiệm nghiên cứu khoa học trong cải cách kinh tế,
tác giả Việt Phương đã có sự so sánh thú vị giữa tri thức thường nghiệm với tri thức
khoa học. Việt Phương xem tri thức khoa học là những chủ kiến có giá trị, nó không
miên man dàn trải, mặt nào, vấn đề gì cũng có một tí ý kiến, kiểu ý kiến để “ nói
chuyện nổi bật ở thính phòng”. Tác giả gọi đó là những hiểu biết phổ thông ( tức tri
thức thường nghiệm), không chuyên môn ( tức tri thức khoa học ), có thể hấp dẩn ở
các cuộc nói chuyện tài tử, không phải là kiến thức khoa học chuyên sâu, càng không
phải là sự sáng tạo.
5. Các đặc điểm của nghiên cứu khoa học
+ Tính mới
Nghiên cứu khoa học là quá trình thâm nhập vào thế giới của những sự vật mà
con người chưa biết. Vì vậy quá trình nghiên cứu khoa học luôn là quá trình hướng tới
những phát hiện mới hoặc sáng tạo mới. Trong nghiên cứu khoa học không có sự lặp

lại như cũ những phát hiện hoặc sáng tạo. Vì vậy, tính mới là thuộc tính quan trọng
số một của lao động khoa học.
+ Tính tin cậy
Một kết quả nghiên cứu đạt được nhờ một phương pháp nào đó phải có khả năng
kiểm chứng lại nhiều lần do nhiều người khác nhau thực hiện trong những điều kiện
quan sát hoặc thí nghiệm hoàn toàn giống nhau và với những kết quả thu được hoàn
toàn giống nhau.
Điều này dẫn đến một nguyên tắc mang tính phương pháp luận của nghiên cứu
khoa học, là khi trình bày một kết quả nghiên cứu, người nghiên cứu cần chỉ rõ những
điều kiện, các nhân tố và phương tiện thực hiện ( nếu có ).
+ Tính thông tin
9


Sản phẩm của nghiên cứu khoa học được thể hiện dưới nhiều dạng, có thể đó là
một báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học, song cũng có thể là một mẫu vật liệu mới,
mẫu sản phẩm mới, mô hình thí điểm về một phương thức tổ chức sản xuất mới vv…
Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp này, sản phẩm khoa học luôn mang đặc trưng
thông tin.
Đó là những thông tin về qui luật vận động của sự vật hoặc hiện tượng, thông tin
về qui trình công nghệ và các tham số đi kèm qui trình đó.
+ Tính khách quan
Tính khách quan vừa là một đặc điểm của nghiên cứu khoa học, vừa là một tiêu
chuẩn của người nghiên cứu khoa học.
Để đảm bảo tính khách quan, người nghiên cứu cần luôn phải lật đi lật lại những
kết luận tưởng đã hoàn toàn được xác nhận. Bộ câu hỏi để tự trắc nghiệm có thể như
chỉ trong Bảng 1.
Bảng 1: Câu hỏi tự trắc nghiệm của người nghiên cứu:
1. Kết luận có đúng không


Không
( 1.1 ) Nếu “ không” thì kiểm tra tiếp theo Câu hỏi 2
( 1.2 ) Nếu “ có” thì kiểm tra tiếp theo Câu hỏi 3
2. Có còn cách nào khác để đạt kết quả

Không
( 2.1) Nếu “ không” thì bác bỏ giả thuyết và chấm dứt nghiên cứu
( 2.2) Nếu “ có” thì kiểm tra tiếp theo Câu hỏi 3
3. Có đề ra được giải pháp kiểm chứng giả thuyết Có
Không
( 3.1 ) Nếu “có” thì tiến hành nghiên cứu bổ sung và kiểm tra theo Câu hỏi 1
( 3.2 ) Nếu “ không” thì chấm dứt quá trình tự trắc nghiệm
+ Tính rủi ro:
Tính hướng mới của nghiên cứu khoa học qui định một thuộc tính quan trọng
khác của nghiên cứu khoa học . Đó là tính rủi ro ( risque ). Một nghiên cứu có thể
thành công, có thể thất bại . Sự thất bại trong nghiên cứu khoa học có thể do nhiều
nguyên nhân với các mức độ khác nhau :
- Do thiếu những thông tin cần thiết và đủ tin cậy để xử lý những vấn đề được đặt
ra trong nghiên cứu.
- Do trình độ kĩ thuật của thiết bị thí nghiệm không đủ đáp ứng nhu cầu kiểm
chứng giả thuyết.
- Do khả năng thực hiện của người nghiên cứu chưa đủ tầm xử lý vấn đề.
- Do giả thuyết nghiên cứu đặt sai
- Do những tác nhân bất khả kháng vv…
Tuy nhiên, trong khoa học, thất bại cũng được xem là một kết quả.
+ Tính kế thừa

10



Ngày nay không còn một công trình nghiên cứu khoa học nào bắt đầu từ chỗ
hoàn toàn trống không về kiến thức. Mỗi nghiên cứu phải kế thừa các kết quả nghiên
cứu trong các lĩnh vực khoa học rất xa khác nhau.
Tính kế thừa có một ý nghĩa quan trọng về mặt phương pháp luận nghiên cứu:
Một người nghiên cứu chân chính không bao giờ đóng cửa cố thủ trong những lý luận
và phương pháp luận “ riêng có”, “ của mình” mà bài xích sự thâm nhập về lý luận và
phương pháp luận từ các lĩnh vực khoa học dù rất khác nhau.
+ Tính cá nhân:
Dù là một công trình nghiên cứu khoa học do một tập thể thực hiện thì vai trò cá
nhân trong sáng tạo cũng mang tính quyết định. Tính cá nhân được thể hiện trong tư
duy cá nhân và chủ kiến riêng của cá nhân. Việt Phương cho rằng “ người có chủ kiến
sai còn hơn người không có chủ kiến gì cả”
+ Tính phi kinh tế:
Hiệu quả kinh tế của nghiên cứu khoa học hầu như không thể xác định. Ngay cả
những kết quả nghiên cứu về kĩ thuật dưới dạng các sáng chế và hình mẫu rất có giá trị
về kĩ thuật, chậm chí có thể giá trị mua bán rất cao trên thị trường, song không thể áp
dụng chỉ vì một lý do thuần túy xã hội và như vậy hiệu quả kinh tế cũng không trở
thành hiện thực.
6. Các lọai hình nghiên cứu khoa học
Dù nghiên cứu khoa học trong bất cứ lĩnh vực nào- khoa học tự nhiên, khoa học
kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn,vv… cũng đều tồn tại ba loai hình
nghiên cứu khoa học: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và NC triển khai. Mỗi
lọai hình được đặc trưng bởi chủng lọai sản phẩm thu được từ trong kết quả nghiên
cứu.
7. Đề tài nghiên cứu khoa học
Đề tài nghiên cứu là một nhiệm vụ nghiên cứu và do một người hoặc một nhóm
người thực hiện. Như vậy, xét trên một ý nghĩa nào đó, đề tài nghiên cứu có thể xem là
một phạm trù của tổ chức nghiên cứu.
Trong Đương đại khoa học Từ điển, Hướng Hồng định nghĩa “ Đề tài nghiên cứu
khoa học là đối tượng của lao động nghiên cứu khoa học” , và là “ một trong những

yếu tố của năng lực nghiên cứu”
7.1. Một số vấn đề liên quan đến đề tài NCKH
7.1.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Cụm từ nhiệm vụ nghiên cứu nay đã đi vào hệ thống văn bản chính thức về tổ
chức và quản lý nghiên cứu khoa học của Nhà nước.
Nhìn chung trong những hệ thống kinh tế nhiều thành phần, có thể có các
nguồn nhiệm vụ nghiên cứu sau:
+ Chủ trương phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia
11


Chủ trương này được ghi trong các văn kiện chính thức của các cơ quan có thẩm
quyền của nhà nước. Trong bất cứ quốc gia nào đây cũng luôn được xem là một
nguồn quan trọng nhất. Tính quan trọng ở đây không chỉ thể hiện ở tầm ảnh hưởng
quốc gia và quốc tế của những nhiệm vụ này, mà còn ở chỗ đó là một địa chỉ hấp dẫn
đối với người nghiên cứu trong việc tìm kiếm “ thị trường” cho những người nghiên
cứu khác nhau.
+ Nhiệm vụ được giao từ cơ quan cấp trên
Đây là nhiệm vụ được giao từ cơ quan cấp trên của cá nhân hoặc tổ chức nghiên
cứu. Tùy thuộc vị trí của cá nhân hoặc tổ chức nghiên cứu, cơ quan cấp trên có thể rất
khác nhau: một viện nghiên cứu tư nhân có thể không có cấp trên, viện nghiên cứu
thuộc hãng sản xuất thì cấp trên là hãng, cấp trên cũng có thể là một bộ, một trường
đại học, nếu viện trực thuộc bộ hoặc trường.
+ Nhiệm vụ được nhận từ hợp đồng với các đối tác :
Các đối tác giao nhiệm vụ nghiên cứu theo hợp đồng có thể là các doanh nghiệp
hoặc tổ chức xã hội trong nước, cũng có thể là các đối tác nước ngoài. Đối với người
nghiên cứu, đây chưa hẳn là những nhiệm vụ nghiên cứu có nhiều hứng thú về mặt
học thuật, nhưng thường lại là những hợp đồng đưa lại thu nhập cao. Hơn nữa, thường
khi thông qua việc thực hiện hợp đồng nhiều ý tưởng nghiên cứu mới xuất hiện, tạo
tiền đề cho những bước nghiên cứu tiếp sau

+ Nhiệm vụ do người nghiên cứu tự đặt cho mình :
Bao giờ trong người nghiên cứu cũng có những ý tưởng thường trực. Khi có
điều kiện ( chẳng hạn, về kinh phí) thì người nghiên cứu biến đó thành một đề tài
nghiên cứu.Nghiên cứu này có thể chưa cần cho ai, nhưng là sự tích lũy cho các bước
phát triển về sau.
7.1.2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Là toàn bộ sự vật trong phạm vi quan tâm của đề tài
nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu là: Một bộ phận đủ mang tính đại diện của đối tượng, đủ để
xem xét và phân tích. Quĩ thời gian đủ để hoàn tất công trình nghiên cứu. Khả năng
được hỗ trợ về kinh phí, phương tiện thiết bị thí nghiệm( nếu cần thiết) đảm bảo thực
hiện các nội dung nghiên cứu.
7.1.3. Mục tiêu nghiên cứu:
Bất cứ thực hiện nghiên cứu nào, người nghiên cứu cũng phải đề ra cho mình
một hoặc một hệ thống mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu là cái đích nghiên cứu mà người nghiên cứu vạch ra để
thực hiện, để định hướng nỗ lực nghiên cứu trong quá trình tìm kiếm.
Trong nghiên cứu khoa học, ngoài khái niệm” mục tiêu nghiên cứu” người ta còn
nói đến “ mục đích nghiên cứu” với một sự phân biệt về ý nghĩa phạm tr. Mục tiêu
12


nhằm trả lời câu hỏi “ làm cái gì ?”. Trong nhiều xêmina tổ chức cho sinh viên học
tập về phương pháp luận nghiên cứu khoa học, hai phạm trù này thường hay được hiểu
lẫn lộn.
Ví dụ có sinh viên nghiên cứu đề tài về “ Trống đồng cổ Việt Nam” đã trình bày
mục đích nghiên cứu thay cho mục tiêu nghiên cứu
- Nhằm bổ sung đầy đủ thêm những trang sử dân tộc ( thông sử), lịch sử văn hóa,
lịch sử mỹ thuật, lịch sử các nghề thủ công
- Để bổ sung thông tin giới thiệu cho khách tham quan .

Trong mối liên hệ giữa nhiệm vụ vấn đề, đối tượng, mục tiêu cần lưu ý : “ nhiệm
vụ”, “ vấn đề”, “ đối tượng” là sự vật tồn tại khách quan trước người nghiên cứu. Còn
“ mục tiêu” là sự chọn lựa mang tính chủ quan của người nghiên cứu.
7.1.4. Đặt tên đề tài:
Tên đề tài phải phản ánh cô đọng nhất nội dung nghiên cứu của đề tài. Tên một
đề tài khọahoc khác với tên của tác phẩm văn học hoặc những bài văn luận chiến Tên
một tác phẩm văn học hoặc một bài luận chiến có thể mang những ý ẩn dụ sâu xa. Còn
tên của một đề tài khọa hoc thì chỉ được mang một ý nghĩa hết sức khúc triết, đơn vị,
không được phép hiểu hai hoặc nhiều nghĩa.
Về nguyên tắc chung, tên đề tài phải ít chữ nhất, nhưng chứa đựng một lượng
thông tin cao nhất.
Tên đề tài không nên đặt bằng những cụm từ có độ bất định cao về thông tin, đại
lọai như :
Về vấn đề …,
Thử bàn về …,
Vài suy nghĩ về…;
Góp phần vào việc nghiên cứu về…
Về mặt kết cấu, tên đề tài có thể cấu tạo theo một trong những cách được chỉ
trong bảng sau :
THÀNH PHẦN TRONG CẤU TẠO
VÍ DỤ
TÊN ĐỀ TÀI

13


Đối tượng nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu + phương tiện

Mục tiêu + Môi trường

Mục tiêu+ phương tiện+ Môi trường

“ Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả
tỉnh Lâm Đồng hiện nay”
“ Ca Huế là một dòng âm nhạc cổ điển
“ Ứng dụng phương thức đào tạo tại chức đội
ngũ GV TH và MN theo địa chỉ”
“ Nghiên cứu sử dụng Zieccôn làm men trắng
đục cho gốm sứ “
“ Xác định cơ cấu cây công nghiệp ở Lâm
Đồng”
“ Nghiên cứu máy phát từ trường xung cao ở
Việt Nam bằng phương pháp mô phỏng trên
máy vi tính

7.1.5.Tổ chức đề tài:
Đề tài là một phạm trù về một tổ chức nghiên cứu. Đề tài có thể do một người
thực hiện, nhưng cũng có thể do một nhóm người thực hiện.
Một nhóm người thực hiện đề tài bao gồm những thành phần sau:
- Chủ nhiệm đề tài, thường là người có kinh nghiệm nghiên cứu, đã từng tham gia
nhiều công trình nghiên cứu khác nhau.
- Thư ký đề tài phụ trách các công việc hành chính của đề tài như theo dõi họat
động của đề tài, báo cáo, phụ trách tài chính vv…
- Thành viên đề tài gồm những thành viên chính nhiệm, kiêm nhiệm hoặc cộng
tác theo từng vấn đề cụ thể. Các thành viên đề tài phân công phối hợp làm việc với
nhau trên cơ sở cây mục tiêu. Mỗi thành viên phụ trách một mục tiêu bộ phận và chịu
sự điều khiển của người phụ trách mục tiêu cấp trên trực tiếp.
7.2. Trình tự nghiên cứu khoa học

Từ các tư liệu đã có, tuy mỗi tác giả có những cách tiếp cận khác nhau,
nhưng ta có thể hình dung một qui luật chung về trình tự nghiên cứu khoa học,
gồm các bước sau :
7.2.1. Lựa chọn đề tài :
Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu có một ý nghĩa quan trọng đối với người nghiên
cứu, vì mỗi đề tài nghiên cứu gắn liền với những cố gắng đầu tư sức lực, thời gian,
kinh phí… đôi khi quyết định cả phương hướng chuyên môn của một đời sự nghiệp.
Việc lựa chọn đề tài có những đặc điểm sau:
Đề tài được chỉ định :
Người nghiên cứu có thể được chỉ định thực hiện một đề tài mà đơn vị đang thực
hiện theo yêu cầu của cấp trên hoặc theo một hợp đồng với đối tác.

14


3.

Đối với sinh viên hoặc nghiên cứu sinh làm luận văn , thì đề tài được chỉ định có
thể là một phần nhiệm vụ của đề tài mà thấy họac nộ môn đang thực hiện, nhưng số
người có cơ hội tham gia cộng tác trực tiếp với thầy không nhiều.
Cũng có trường hợp, căn cứ yêu cầu học tập, thầy hướng dẫn đưa ra một đề tài
mang tính giả định cho sinh viên hoặc nghiên cứu sinh, không liên quan đến nhiệm vụ
nghiên cứu của thầy.
Đề tài tự chọn
Trong trường hợp được tự chọn đề tài, người nghiên cứu cần tìm hiểu hiện trạng
phát trtiển của lĩnh vực chuyên môn, tìm hiểu tình hình thực tế mà xác định một hướng
nghiên cứu thích hợp.
Việc lựa chọn đề tài có thể dựa trên những căn cứ sau:
1. Đề tài có ý nghĩa khoa học hay không?
- Bổ sung những chỗ còn trống trongblý thuyết của bộ môn khoa học

- Xây dựng cơ sở lý thuyết mới hoặc làm rõ một số vấn đề lý thuyết vốn tồn tại
- Xây dựng nguyên lý các giả pháp khác nhau trong kỹ thuật, công nghệ, tổ chức quản
lý vv…
2. Đề tài có ý nghĩa thực tiễn hay không? Ý nghĩa thực tiễn thể hiện ở những điểm
sau :
- Xây dựng luận cứ cho các chương trình phát triển kinh tế và xã hội
- Giải đáp những đòi hỏi trong sản xuất về kỹ thuật , công nghệ, tổ chức, quản lý,
thị trường vv…
- Giải đáp nhu cầu phát triển nội tại của lĩnh vực nghiên cứu.
Ví dụ, theo các tác giả Đặng Vũ Họat và Hà Thị Đức, trong một đề tài nghiên cứu
về giáo dục học, thì ba yêu cầu trên có thể là như sau :
- Giải đáp nhu cầu trực tiếp của công tác giáo dục thế hệ trẻ trong nhà trường
- Xuất phát từ logic bên trong của sự phát triển khoa học giáo dục.
Về nhu cầu trên đây, người nghiên cứu có thể tìm hiểu qua các văn kiện chính
thức, dự án, chương trình phát triển của các cơ quan nhà nước.
Đề tài có cấp thiết phải nghiên cứu hay không?
Tính cấp thiết thể hiện ở mức độ ưu tiên giải đáp những nhu cầu thực tiễn liệt kê
trên đây.
4. Có đủ điều kiện đảm bảo cho việc hoàn thành đề tài không? Điều kiện nghiên cứu
đại thể bao gồm:
- Cơ sở thông tin, tư liệu
- Phương tiện thiết bị thí nghiệm ( nếu cần phải tiến hành thí nghiệm)
- Quĩ thời gian và thiên hướng khoa học của thầy hướng dẫn trực tiếp
- Các đồng nghiệp tốt nghiệp trước có kinh nghiệm và có quĩ thời gian.
5. Đề tài có phù hợp sở thích hay không?
15


Trong khoa học thì yếu tố này luôn mang một ý nghĩa quan trọng. Đương nhiên,
ở đâu và bao giờ người nghiên cứu cũng gặp mâu thuẫn giữa nguyện vọng khoa học

của cá nhân với việc giải quyết nhu cầu bức bách của xã hội. Người nghiên cứu luôn
phải đứng trước sự lựa chọn này.
7.2.2. Đặt tên đề tài
Tên đề tài thường được đặt sau khi đã làm rõ mọi vấn đề liên quan đến mục tiêu
nghiên cứu. Tên đề tài phải súc tích, ít chữ nhất, nhưng nhiều thông tin nhất. Đề tài có
thể được đặt tên theo một số cấu trúc sau :
- Đối tượng nghiên cứu : Môi trường ra rễ ( đề tài trong lĩnh vực nông nghiệp).
- Giả thuyết nghiên cứu : ca Huế là một dòng âm nhạc cổ điển ( âm nhạc)
- Mục tiêu nghiên cứu : Cải tiến giáo trình dạy tiếng Anh ( ngọai ngữ)
Ngoài ra còn một số lọai cấu trúc gồm một số thành phần như “ mục tiêu +
phương tiện”, “ Mục tiêu + môi trường” vv……xem phần đề tài nghiên cứu khoa học).
Trong mọi trường hợp, người nghiên cứu hết sức tránh đặt tên đề tài với những cụm từ
mang nhiều tính bất định như “ một số vấn đề…”, “ vài suy nghĩ về…”, “ góp phần
vào…”
Phát hiện vấn đề nghiên cứu :
Nếu có vấn đề thì mới có nhu cầu giải quyết vấn đề. Tìm giải pháp để giải quyết
vấn đề chính là nội dung của công việc nghiên cứu.
Thông thường, các vấn đề nghiên cứu được phát hiện nhờ quan sát, trao đổi bằng
cách phỏng vấn cá nhân hoặc trong các hội thảo khoa học. Cũng có thể phát hiện vấn
đề nhờ những cuộc điều tra dùng phiếu hỏi, tiến hành các trắc nghiệm, hoặc thậm chí
phải tiến hành những thực nghiệm. Thực nghiệm cũng là để quan sát .
Kết quả của công việc phát hiện vấn đề có thể cho người nghiên cứu thấy có vấn
đề để nghiên cứu, cũng có thể không có vấn đề để nghiên cứu, song cũng có thể phát
hiện ra những giả vấn đề ( tưởng là có vấn đề, nhưng trên thực tế lại không là vấn đề)
Công việc nghiên cứu chỉ xuất hiện khi xác định chắc chắn là có vấn đề.
7.2.3. Xây dựng đề cương nghiên cứu
Đề cương được xây dựng để trình cơ quan và tổ chức tài trợ phê duyệt và là cơ sở
để làm việc với bạn các đồng nghiệp. Nội dung đề cương cần thuyết minh những điểm
sau :
+ Lý do chọn đề tài :

- Phân tích sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu để phát hiện vấn đề nghiên cứu
- Giải thích lý do lựa chọn của tác giả về mặt lý thuyết, về mặt thực tiễn.
Trong phần này cần nêu rõ tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về những
vấn đề có liên quan.
+ Xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu là toàn bộ sự vật trong phạm vi quan tâm của đề tài nghiên
cứu.
16


Ví dụ, đề tài” Hoàn thiện tổ chức của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo” có đối tượng nghiên cứu là “ tổ chức của nhà trường”
Phạm vi nghiên cứu là một phần giới hạn của đối tượng về không gian, thời gian
và qui mô vấn đề. Cơ sở để xác định phạm vi nghiên cứu có thể là :
- Một bộ phận đủ mang tính đại diện của đối tượng, đủ để xem xét và phân tích.
- Quĩ thời gian đủ để hoàn tất công trình nghiên cứu
- Khả năng được hỗ trợ về kinh phí, phương tiện thiết bị thí nghiệm( nếu cần thiết
) đảm bảo thực hiện các nội dung nghiên cứu.
Ví dụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài trên có thể là các “ phòng, ban chức năng”,
song cũng có thể gồm mọi tổ chức trong trường
+ Xác định mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu :
Mục tiêu được cụ thể hóa dưới dạng một cây mục tiêu. Căn cứ cây mục tiêu mà
xác định nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể. Cây mục tiêu rất cần trong việc phân tích, cụ thể
hóa nội dung và tổ chức nghiên cứu. Mục tiêu cấp dưới là công cụ để thực hiện mục
tiêu cấp trên. Ví dụ trong đề tài” hoàn thiện tổ chức” nói trên, mục tiêu nghiên cứu có
thể là “ xác định lại chức năng các phòng ban”
+ Lựa chọn phương pháp nghiên cứu : Tùy từng lọai hình NCKH , có thể sử
dụng các PPNC khác nhau trong hệ thống các PPNC khoa học.
+ Nội dung nghiên cứu :
Nội dung nghiên cứu được xác định dựa trên cây mục tiêu. Cơ cấu nội dung

chính là cơ sở để dự kiến các nguồn lực, lập kế họach tiến độ nghiên cứu, kế họach về
nhân lực, vật tư thiết bị, tư liệu, tài chính và cuối cùng là cơ sở để vạch ra cơ cấu
chương mục của báo cáo khoa học.
+ Xây dựng kế họach nghiên cứu : Trình bày vắn tắt kế hoạch NC theo các nội
dung sau :
- Kế họach tiến độ
Kế họach tiền độ được xây dựng căn cứ yêu cầu của cơ quan giao nhiệm vụ
(hoặc là lệnh của cấp trên, hoặc yêu cầu củađối tác phía bên giao nhiệm vụ nghiên
cứu theo hợp đồng)
- Kế họach nhân lực
Lập kế họach nhân lực nghiên cứu có phần phức tạp hơn trong kế họach nhân lực
sản xuất UNESCO đã đưa ra một cách tính nhân lực dễ sử dụng trong khi xây dựng kế
họach nghiên cứu gồm các lọai nhân lực sau :
- Nhân lực chính nhiệm ( full time staff ), trong một số tài liệu dịch trước đây,
được dịch là “ nhân lực toàn thời gian”. Trong dự toán tài chính, số nhân lực này được
nhận 100% lương.
- Nhân lực kiêm nhiệm ( part time staff), là nhân lực chỉ dành một phần quĩ thời
gian tham gia vào công việc nghiên cứu. Ví dụ : giám đốc dự án có thể có vai trò rất
17


quan trọng, nhưng thường chỉ tính khỏang 30 –50% quĩ thời gian, vì vị này thường là
người có chức vụ chính nhiệm nào đó chẳng hạn, Viện trưởng, Bộ trưởng, Thứ trưởng
hoặc những chức vụ chiếm quĩ thời gian tương đương. Khi lập dự toán tài chính cũng
chỉ tính lương bằng số phần trăm tương ứng so với mức lương qui định cho giám đốc
dự án chính nhiệm.
- Nhân lực chính nhiệm qui đổi ( cquivalent full time staff ), trong một số tài liệu
dịch trước đây, chúng tôi chuyển ngữ thành “ nhân lực thời gian toàn bộ tương đương”
. Có lẽ cách chuyển ngữ sau này phù hợp hơn .
+ Lập danh sách cộng tác viên

Cộng tác viên được lựa chọn trên cơ sở cây mục tiêu. Xu hướng các cộng tác
viên hiện nay thường mong muốn nhận hợp đồng khóan gọn một nhiệm vụ nghiên
cứu. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu về khoa học xã hội thì cơ cấu cộng tác viên có
phức tạp hơn. Cơ cấu này có thể bao gồm :
- Những cộng tác viên nhận khóan gọn nhiệm vụ nghiên cứu. Những cộng tác
viên lọai này thường gồm những người có thể dành quĩ thời gian để thực hiện một
phần báo cáo kết quả nghiên cứu sau này.
- Những cộng tác viên chỉ tham gia một số cuộc thảo luận cần thiết, vì họ không
đủ quĩ thời gian để thực hiện trọn vẹn một nhiệm vụ nghiên cứu. Mặc dầu vậy sự tham
gia của bộ phận cộng tác viên này là rất cần thiết và rất đáng quý đối với công tác
nghiên cứu.
- Những cộng tác viên tham gia trong các cuộc phỏng vấn, điều tra dùng phiếu
hỏi vv…
- Trong danh sách cộng tác viên, cần dự kiến hết các lọai nhân lực khác nhau để
thực hiện những nhiệm vụ thuần túy mang tính kĩ thuật trong nghiên cứu.
- Thư ký hành chính để giúp chủ nhiệm đề tài thực hiện những công việc hành
chính của đề tài như làm các thủ tục hành chính về kế họach, mua sắm văn phòng
phẩm và trang thiết bị, điều hành việc chi tiêu tài chính và làm thanh quyết toán với
các cơ quan rtài vụ, liên hệ với các cộng tác viên , tổ chức các hội nghị, hội thảo, tổ
chức in ấn tài liệu vv…
- Nhân viên phụ trợ như thí nghiệm viên ( nếu là các nghiên cứu trong lĩnh vực kĩ
thuật ), nhân viên xử lý số liệu thống kê và các phiếu điều tra, nhân viên giúp việc
trong các cuộc điều tra, thu nhập số liệu. Sinh viên các lớp trên có thể tham gia vào các
công việc này, vì đây là một cơ hội rất tốt để làm quen với nghiên cứu khoa học.
+ Lập dự toán tài chính:
Chi phí lương: Trong hướng dẫn của các UNESCO, chi phí lương bao gồm :
- Lương chính nhiệm
- Lương kiêm nhiệm
- Lương chính nhiệm qui đổi
18



Chi phí nghiên cứu :
- Tiền trả các bản phân tích, nghiên cứu, dịch thuật.
- Tiền trả cho các phỏng vấn
- Tiền trả cho việc in phát, hướng dẫn và xử lý kết quả điều tra
- Chi phí đi lại, ăn ở phục vụ các cuộc điều tra.
Chi phí mua và xuất bản tài liệu :
- Mua sách, tài liệu, trả cho việc cung cấp số liệu
- Xuất bản các bản tin nghiên cứu
Chi phí hội nghị :
Trong hướng dẫn dự toán nghiên cứu của các cơ quan tài trợ nước ngoài, chi phí
hội nghị bao gồm :
- Tiền trả cho các báo cáo.
- Chi phí phòng họp, gồm tiền thuê phòng họp và các trang bị hội nghị, nước
uống, ăn nhẹ giữa giờ, thuê nhân viên.
- Tiền in chụp tài liệu sử dụng trong hội nghị và in kỷ yếu hội nghị.
Chi phí quản lý đề tài.
7.2.4. Tiến hành nghiên cứu
Nội dung của công việc nghiên cứu bắt đầu bằng việc nghiên cứu tư liệu, xây
dựng khái niệm, đặt giả thuyết, kiểm chứng giả thuyết và viết luận văn.
+ Lập danh mục tư liệu
Công việc này đòi hỏi nhiều thời gian làm việc trong các kho lưu trữ, các trung
tâm thông tin, tư liệu, thư viện và các tiếp xúc cá nhân để khai thác các nguồn tư liệu
cá nhân. Việc lập danh mục tư liệu có thể thực hiện theo nhiều phương thức :
+ Lập phiếu thư mục
Người nghiên cứu phải tự lập các phiếu thư mục để tiện tra cứu, Phiếu thư mục
nên làm theo mẫu phiếu thư mục của các thư viện để tiện đối chiếu với hệ thống
chung, cũng có thể cải tiến một chút theo thói quen tra cứu của cá nhân, nhưng phải
bảo đảm một yếu cầu rất quan trọng là phải ghi rất rõ nguồn tư liệu, mã số của thư

viện để sau tiện tra cứu lại,
+ Quản lý dữ liệu bằng máy vi tính
Lưu trữ trong đĩa từ để làm việc trên máy vi tính. Người nghiên cứu nên tận dụng
máy vi tính trong congciẹ6c chuẩn bị luận văn, trước hết là trong việc chuẩn bị bản
thảo, lưu trữ tư liệu và số liệu.Phương tiện này giúp tiết kiệm thời gian, nâng cao năng
suất nghiên cứu một cách đáng kể.
Việc lập danh mục tư liệu không phải chỉ làm một lần trong bước đầu nghiên
cứu, mà luôn được bổ sung trong suốt quá trình nghiên cứu,và về sau này, khi đã kết
thúc đề tài nghiên cứu, danh mục tư liệu vẫn tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện trong
suốt cuộc đời nghiên cứu.
19


+ Xây dựng khái niệm
Đây là công việc quan trọng đầu tiên của người nghiên cứu. Nội dung là đưa ra
những klhái niệm quan trọng nhất liên quan đến đề tài. Mục đích của bước này nhằm
tạo ra ngôn ngữ đối thọai thống nhất trong khuôn khổ đề tài, không gây ra những cách
hiểu trái ngược nhau.
+ Làm tổng quan về những thành tựu liên quan đề tài
Tổng quan còn gọi tổng luận khoa học là một lọai sản phẩm nghiên cứu khoa
học, trong đó người nghiên cứu đưa ra một phân tích lịch sử của nghiên cứu về đề tài
được quan tâm. Mục đích của tổng quan là :
- Phân tích một cách tổng thể xem đã có những nghiên cứu nào được tiến hành
liên quan đề tài.
- Ghi nhận những vấn đề đã được giải quyết trong những nghiên cứu trưốc đây,
phân tích những thành tựu và chỉ ra những chỗ yếu trong lịch sử nghiên cứu
- Phát hiện những vấn đề chưa được giải quyết
- Đề xuất những vấn đề được chọn đi sâu trong số những vấn đề chưa được giải
quyết.
+ Đặt giả thuyết nghiên cứu

Đặt giả thuyết và kiểm chứng giả thuyết là công việc thiết yếu và quan trọng nhất
của nghiên cứu
Bảng sau tóm tắt phân lọai các lọai hình nghiên cứu, trong đó liệt kê một số nội
dung cụ thể của từng lọai hình để người nghiên cứu nhận dạng lọai hình nghiên cứu để
đặt giả thuyết.
LỌAI HÌNH VÀ GIẢ
NỘI DUNG
THUYẾT NGHIÊN CỨU
Phát hiện qui luật của sự vật, hiện tượng:
-Tổng kết kinh nghiệm từ một sự vật
Nghiên cứu cơ bản
-Điều tra tổng thể về tự nhiên hoặc kinh tế và xã hội
( Giả thuyết về qui luật)
-Nghiên cứu chuyên đề về bản chất của mọi sự vật
-Xây dựng các cơ sở lý thuyết về một sự vật
Sáng tạo nguyên lý giải pháp họat động
Nghiên cứu ứng dụng
- Phương pháp điều hành một quá trình
( Giả thuyết về giải pháp)
- Luận chứng cho các biện pháp đạt mục tiêu
- Công nghệ trong công nghiệp
- Giải pháp chế biến vật chất hoặc thông tin
Xây dựng một khuôn mẫu khả thi, có khả năng mở rộng
Triển khai
qui mô áp dụng đại trà :
( Giả thuyết về hình mẫu)
-Khuôn mẫu một phương pháp khả thi
-Khuôn mẫu một công nghệ khả thi
-M ẫu một sản phảm khả thi
20



Sự phân chia lọai hình nghiên cứu như trên đây được áp dụng phổ biến trên thế
giới và được UNESCO sử dụng trong các tài liệu chuyên mơn. Phân chia là để nhận
thức cho rõ bản chất của nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi noqi “ đây là một đề tài
nghiên cứu ứng dụng”, thì cũng có thể hiểu là một đề tài thuần túy nghiên cứu ứng
dụng, song cũng có thể hiểu đề tài đó chủ yếu là một đề tài nghiên cứu ứng dụng,
trong đó vẫn có thể có một phần nghiên cứu cơ bản.
Điều cần lưu ý là :
-Trong một đề tài có thể tồn tại một lọai hình nghiên cứu duy nhất ( nghiên cứu cơ bản,
ứng dụng, triển khai), song cũng có thể tồn tại một số lọai hình nghiên cứu khác.
-Trong một lọai hình nghiên cứu có thể tồn tại một hoặc một số giả thuyết
Kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu
Trong kiểm chứng giả thuyết có một số điểm lưu ý:
1. Nắm vững các quy tắc logic về kiểm chứng giả thuyết :
Đó là các qui tắc về chứng minh và bác bỏ. Để chứng minh hoặc bác bỏ giả
thuyết, cần hình dung rất rõ các giả thuyết với tư cách là các luận đề, xây dựng được
những luận cứ, luận chứng.
2. Nắm vững các phương pháp nghiên cứu :
Các giả thuyết được kiểm chứng bằng các phương pháp nghiên cứu khác nhau, lý
thuyết, thực nghiệm hoặc phi thực nghiệm. Lựa chọn cách vận dụng là công việc của
người nghiên cứu . Vấn đề là phải luận chứng được lý do vận dụng, không nhất thiết
lặp lại mọi phương pháp như giai đọan xây dựng giả thuyết.
3. Xây dựng chỉ tiêu phân tích :
Việc quan sát, đặt giả thuyết và kiểm chứng giả thuyết đòi hỏi phải xây dựng các
chỉ tiêu phân tích. Không có chỉ tiêu phân tích thì không thể thao tác trên khái niệm và
không thể so sánh, đối chiếu các khái niệm ( dùng khái niềm này để khẳng định hoặc
phủ định khái niệm kia)
Chỉ tiêu được sử dụng trong phân tích, bao gồm chỉ tiêu định tính, và chỉ tiêu
định lượng. Cả hai lọai chỉ tiêu đều quan trọng ngang nhau. Đương nhiên có nhiều

trường hợp rất khoa định lượng hóa chỉ tiêu định tính, nhất là trong các nghiên cứu xã
hội.
4. Lặp lại và kiểm tra chéo giữa các phương pháp
Trong quá trình kiểm chứng giả thuyết, người nghiên cứu có thể lặp lại một số
công việc như đã tiến hành khi phát hiện vấn đề nghiên cứu hoặc đặt giả thuyết nghiên
cứu, cũng có thể và cần kiểm tra chéo giữa các phương pháp bằng cách sử dụng
phương pháp này để kiểm tra phướng pháp kia.
Rất có thể không nhất thiết phải lập lại toàn bộ các phương pháp đã làm ở những
bước trên.
7.2.5 .Viết báo cáo khoa học
1. Mục đích báo cáo
21


Báo cáo công trình nghiên cứu nhằm một số mục đích sau :
- Ghi nhận và công bố các kết quả nghiên cứu
- Văn bản báo cáo cơ quan quản lý nghiên cứu hoặc cơ quan cấp tài trợ.
Có nhiều hình thức báo cáo công trình nghiên cứu
- Viết báo cáo từng phần đã hoàn tất của một công trình nghiên cứu
- Viết báo cáo trung hạn theo qui định của cơ quan tài trợ hoặc cơ quan quản lý
nghiên cứu.
-Viết báo cáo hoàn tất công trình nghiên cứu để công bố kết quả nghiên cứu và
báo cáo với cơ quan tài trợ hoặc cơ quan quản lý nghiên cứu
2. Nội dung của báo cáo
Dù bố trí theo các chương mục như thế nào, thì trong báo cáo cũng phải bao
gồm đầy đủ nhưng nội dung sau :
- Giới thiệu chung vấn đề nghiên cứu
- Trình bày vắn tắt hoat động của nhóm nghiên cứu ( đề tài)
- Cơ sở lý thuyết được sử dụng ( kế thừa của người đi trước, tự mình xây dựng)
- Mô tả các phương pháp nghiên cứu đã được thực hiện

- Trình bày mô tả những kết quả đạt được
- Thảo luận ( một số nhà nghiên cứu trong ngành Y dùng thuật ngữ Bàn luận) về
kết quả và những vấn đề chưa được giải quyết, tức cũng chính là những vấn đề cần
tiếp tục được đặt ra để nghiên cứu.
8. Hệ thống các phương pháp NCKHGD
Trong NCKH giáo dục người ta thường sử dụng các nhóm PP nghiên cứu : NC
Thực tiễn, NC lý thuyết và PP sử dụng thống kê toán học (PP bổ trợ).
8.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn ( kinh nghiệm)
8.1.1. Quan sát sư phạm:
- Quan sát khoa học là phương pháp thu nhận thông tin về đối tượng nghiên cứu
bằng các tri giác trực tiếp đối tượng và các nhân tố khác có liên quan đến đối tượng.
- Quan sát với tư cách là phương pháp NCKH là một họat động có` mục đích, có
kế họach và được tiến hành một cách có hệ thống. Đây là một trong những hình thức
chủ yếu của nhận thức kinh nghiệm, để tạo ra thông tin ban đầu., nhờ có nó mà sau
này xây dựng lý thuyết và kiểm tra lý thuyết bằng thực nghiệm và như vậy nó là con
đường để gắn nghiên cứu lý thuyết với nghiên cứu họat động thực tiễn.
- Quan sát sư phạm là phương pháp thu nhập thông tin về quá trình giáo dục, trên
cơ sở tri giác trực tiếp các họat động sư phạm, cho ta những tài liệu sống về thực tiễn
giáo dục để có thể khái quát rút ra những quy luật nhằm chỉ đạo quá trình tổ chức giáo
dục thế hệ trẻ tốt hơn.
- Quan sát trong NCKH thực hiện ba chức năng :
1. Chức năng thu nhập thông tin thực tiễn, là chức năng quan trọng nhất.
22


2. Chức năng kiểm chứng các lý thuyết, các giả thuyết đã có.
3. Chức năng so sánh các kết quả trong nghiên cứu với thực nghiệm. Đối chiếu lý
thuyết với thực tế.
+ Đặc điểm quán sát sư phạm :
Bất cứ một quan sát nào cũng được tiến hành do một chủ thể sử dụng để nhận

thức một đối tượng xác định trong một thời gian, một không gian với một mục đích
nhất định, bằng một phương tiện nhất định. Vì vậy quan sát sư phạm có những đặc
điểm sau đây :
1) Đối tượng quan sát là họat động sư phạm phức tạp, đó là họat động của một cá
nhân hay một tập thể, bản thân cá nhân hay tập thể đó lại có những đặc điểm đa dạng
về trình độ phát triển. Nội dung họat động sưn phạm càng phức tạp với những hình
thức phong phú thì quá trình quan sát càng khó khăn, càng phải côpng phu hơn.
2) Chủ thể quan sát là nhà khoa học hay các cộng tác viên. Đó là con người đều
mang lại tính riêng tư, đó là tính chủ quan. Chủ quan ở trình độ, ở kinh nghiệm, ở thế
giới quan, ở cảm xúc tâm lý. Sự quan sát bao giờ cũng thông qua lăng kính chủ quan
của “ cái tôi” ngay cả khi sử dụng kĩ thuật hiện đại để quan sát, thí dụ máy quay phim
“ vô tư” làm việc nhưng chính con người cầm máy quay theo góc độ mà họ muốn. Đây
có thể là nguồn gốc của sự sai lệch hay “ xuyên tạc” sự thật chưa chưa kể đến các quy
luật ảo giác của cảm giác, tri giác trong họat động nhận thức.
3) Tài liệu quan sát dù khách quan đến mấy vẫn phục thuộc vào vịệc lựa chọn của
người nghiên cứu, do đó cần được lựa chọn theo một lý thuyết nhất định, được xử lý
bằng toán học và theo một lý thuyết nhất định, được hệ thống hóa. Để nhận thức được
thông tin cần thiết theo mục đích cần phải lập một kế họach và chương trình quan sát tỉ
mỉ.
Các công việc được xác định như sau :
- Xác định đối tượng quan sát, mục đích và nhiệm vụ cụ thể phải đạt được.
- Lựa chọn các phương pháp khách quan và đặt kế họach quan sát.
- Chuẩn bị tốt các tài liệu và thiết bị kỹ thuật để quan sát ( ví dụ các phiếu, biên
bản, văn phòng phẩm, thiết bị kĩ thuật…)
- Tiến hành quan sát, thu nhập tài liệu theo chương trình.
- Ghi chép kết quả quan sát có thể bằng các cách:
+ Ghi vắn tắt “ theo dấu vết nóng hổi”
+ Ghi theo phiếu in sẵn
+ Ghi biên bản
+ Ghi nhật ký theo thời gian, không gian, điều kiện và diễn biến của sự kiện.

+ Ghi âm, chụp ảnh, quay phim các sự kiện.
- Kiểm tra lại kết quả quan sát bằng nhiều cách:
+ Trò chuyện với những người tham gia tình huống
23


+ Sử dụng các tài liệu khác liên quan đến diễn biến để đối chiếu
+ Quan sát lập lại lần thứ hai hay nhiều lần nếu thấy cần thiết
+ Sử dụng người có trình độ cao hơn quan sát lại để kiểm nghiệm lại kết quả.
Quan sát là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng giáo dục. Quan sát có thể
tiến hành trong điều kiện tự nhiên với hoàn cảnh đang có thường ngày. Quan sát có thể
được thực hiện bằng cách tạo ra các tình huống khác thường trong các họat động được
tổ chức có định hướng, qua đó đối tượng tự bộc lộ bản chất rõ ràng hơn.
Tóm lại phương pháp quan sát đối tượng giúp ta có được những thông tin thực
tiễn có giá trị, cần được chuẩn bị cẩn thận trước khi tiến hành xử lý khách quan tài
liệu.
8.1.2. Điều tra giáo dục :
Nhằm khảo sát một số lượng lớn các đối tượng nghiên cứu ở một hay nhiều khu
vực, vào một hay nhiều thời điểm. Điều tra giáo dục nhằm thu nhập rộng rãi các số
liệu, hiện tượng để từ đó phát hiện các vấn đề cần giải quyết, xác định tính phổ biến,
nguyên nhân…, chuẩn bị cho các bước nghiên cứu tiếp. Có hai lọai điều tra trong
nghiên cứu giáo dục :
- Điều tra cơ bản trong giáo dục, như điều tra trình độ học vấn trong của dân cư
trong toàn quốc hay trong một số địa phương, điều tra nhu cầu phát triển giáo dục,
điều tra chỉ số thông minh toàn quốc của học sinh …
- Trưng cầu ý kiến là phương pháp tìm hiểu nhận thức tâm trạng, nguyện vọng
của thầy giáo, học sinh, phụ huynh học sinh và các lực lượng xã hội khác.
- Trưng cầu ý kiến là phương pháp thu nhập thông tin bằng ngôn ngữ dựa trên tác
động về mặt tâm lý xã hội trực tiếp ( phỏng vấn) hoặc giao tiếp ( anket) giữa nhà khoa
học và người được hỏi ý kiến.

Trưng cầu ý kiến dựa trên những lời phát biểu của các cá nhân để phát hiện
những sắc thái tinh tế nhất về các sự kiện đang xẩy ra, đây là nguồn thông tin quan
trọng. Khi lập kế họach thu nhập thông tin nhà khoa học cố gắng tính đến các điều
kiện có thể ảnh hưởng tới chất lượng thông tin kể cả những yếu tố ngẫu nhiên khác.
Độ tin cậy của thông tin là mức độ độc lập của thông tin với những yếu tố ngẫu nhiên,
tức là tính ổn định của thông tin ta thu được.
Căn cứ vào hình thức tổ chức trưng cầu ý kiến người ta chia trưng cầu ý kiến
thành các lọai :
- Trưng cầu ý kiến cá nhân, tập thể, nhóm
- Trưng cầu tại chỗ; Trưng cầu vắng mặt
- Trưng cầu một lần; Trưng cầu nhiều lần
- Trưng cầu toàn bộ vấn đề; Trưng cầu có lựa chọn
- Trưng cầu ý kiến có chuẩn hóa; trưng cầu tự do
Chất lượng ý kiến trả lời phụ thuộc vào hai phía:
24


Bên hỏi
- Đặt các câu hỏi nhằm mục đích gì?
- Kỹ thuật đặt câu hỏi: tự nhiên dễ hiểu, dễ trả lời
- Tình huống giao tiếp, hoàn cảnh môi trường thuận lợi
Bên trả lời
- Động cơ trả lời : để góp ý kiến hay cho qua chuyện
- Trình độ học vấn và văn hóa của họ
- Khả năng trí nhớ
- Thái độ đối với vấn đề được hỏi
- Giấu tên hay phải ghi tên
Điều quan trọng nhất trong trưng cầu ý kiến là đặt câu hỏi. Câu hỏi là thứ công
cụ điều tra được sắp xếp theo một trình tự logic nhằm tìm để thu thông tin. Câu hỏi có
dạng nhằm tìm hiểu sự kiện, kiểm tra nhận thức để biết ý kiến, quan điểm hay để tìm

hiểu động cơ của các hành vi. Câu hỏi có thể kiểm tra lẫn nhau.
Câu hỏi được sử dụng thu nhập thông tin dưới dạng viết gọi là anket (phiếu điều
tra, thường gọi là các phiếu trắc nghiệm). Anket là bản tin những câu hỏi và cả những
câu trả lời có liên quan theo những nguyên tắc nhất định. Bố cục, sự sắp xếp các câu
hỏi, ngôn ngữ, văn phong diễn đạt, những chỉ dẫn về cách trả lời có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Anket có hai lọai: đóng và mở. Ankét đóng là lọai ankét mà người trả lời
chọn một trong các phương án đã có sẳn để đánh dấu, còn trong ankét mở, người trả
lời có thể bổ sung những phương án mới, ý kiến mới.
Ankét mở là loại ankét mà người trả lời tự chọn cách trả lời theo câu hỏi của
người nghiên cứu mà không phụ thuộc vào đáp án của người nghiên cứu.
Xử lý các kết quả thu được sau điều tra là điều rất hệ trọng. Người ta xử dụng
thống kê toán học, máy vi tính để xử lý thông tin, kết quả đó cho ta những tài liệu
khách quan về đối tượng ta cần biết.
Anket là phương pháp nghiên cứu có nhiều ưu điểm và còn có nhiều nhược điểm.
Anket không phải là phương pháp trưng cầu ý kiến vạn năng. Trong một số trường
hợp nhờ có anket người ta thu được một số thông tin quan trọng, nhưng trong tình
huống khác anket lại chỉ đóng vai tròlà phương pháp bổ sung.
Anket là hình thức trưng cầu ý kiến nhanh nhất giúp ta thu được những ý kiến
cần thiết của số đông và tiết kiệm được chi phí. Kết quả của anket có thể bị hạn chế do
nhiều nguyên nhân như:
- Câu hỏi khó hiểu, nhiều nghĩa.
- Sai sót do cách lý giải khác nhau đối với một câu hỏi.
- Người được hỏi không trả lời trung thực do sợ đụng chạm đến uy tín.
- Mức độ hiểu biết thông tin của người được hỏi yếu.
- Xử lý thông tin không thích hợp.
25


×