Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Cơ chế hình thành – hệ thống dầu khí bồn trũng cửu long và nam côn sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.81 MB, 70 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

LỜI CẢM ƠN

Đề tài tốt nghiệp này là kết quả của quá trình học tập lâu dài trong suốt bốn
năm ở trườngĐại Học. Quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp này giúp em ôn lại kiến
thức đã học đồng thời học được thêm nhiều kiến thức mới qua quá trình thu thập và
phân tích tài liệu. Để hoàn thành đề tài này, em đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của
thầy cô và bạn bè: em xin chân thành cảm ơn Thạc Sỹ Phạm Tuấn Long đã tận tình
hướng dẫn giúp em hoàn thành đề tài tốt nghiệp này, các thầy cô trong Khoa, đặc biệt
là Bộ Môn Điạ Chất Dầu Khí tạo điều kiện thuận lợi cho em tham khảo tài liệu và em
xin chân thành cảm ơn các bạn Khoá 2003 giúp đỡ em trong suốt thời gian thực hiện
đề tài.

Mặc dù cố gắng thực hiện đề tài này nhưng do hạn chế về tài liệu tham khảo, kiến
thức còn chưa nhiều và thời gian thực hiện quá ngắn nên đề tài khoá luận này không
thể tránh khỏi nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý nhiệt tình của bạn bè
và thầy cô trong Khoa.

TP Hồ Chí Minh, tháng 07 năm 2007
SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

1

MSSV:0316166



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

LỜI NÓI ĐẦU

Ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam chỉ mới được thành lập nhưng đã khẳng định
được vị thế của mình trong nền kinh tế quốc dân và trong cộng đồng các nước sản xuất
dầu khí trên thế giới. Cho đến nay, Việt Nam khai thác hơn 130 triệu tấn dầu thô và
8.5 tỷ m3 khí đồng hành.

Hiện nay, chúng ta đang đẩy nhanh quá trình tìm kiếm – thăm dò dầu khí trên khắp
lãnh thổ Việt Nam. Tiềm năng dầu khí của Việt Nam được tập trung nhiều nhất là trên
thềm lục địa miền Nam Việt Nam, đặc biệt là bồn trũng Cửu Long và Nam Côn Sơn.

Để quá trình tìm kiếm – thăm dò dầu khí được thuận lợi hơn, chúng ta cần nghiên
cứu kỹ về hệ thống dầu khí của 2 bồn này..

Trên tinh thần nghiên cứu, tìm hiểu và tổng hợp các tài liệu về các vấn đề nêu trên,
được sự cho phép của Khoa Điạ Chất trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên cùng sự
hướng dẫn trực tiếp của Thạc Sỹ Phạm Tuấn Long tôi đã thực hiện khoá luận tốt
nghiệp với đề tài :”C
Cơ chế hình thành – Hệ thống dầu khí bồn trũng Cửu Long và
Nam Cơn Sơn”

Mục đích: nêu rõ cơ chế thành tạo và đẵc điểm về hệ thống dầu khí của 2 bồn, từ
đó phần nào lý giải được sự khác biệt giữa chúng.

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng


2

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

CHƯƠNG I : ĐẶC ĐIỂM KIẾN TẠO CHUNG
I. SƠ LƯC VỀ KIẾN TẠO KHU VỰC ĐÔNG NAM Á VÀ THỀM LỤC ĐỊA
VIỆT NAM

- Theo Phan Trung Điền, Phạm Văn Tiềm và Ngô Thường San (Hội nghò KHCN
2000 “Nghành dầu khí Việt Nam trước thềm thế kỉ 21):
- Khu vực Đông Nam Á nằm ở nơi giao nhau của các mảng châu Âu, Ấn độ và
Thái Bình Dương được trải qua các thời kỳ nâng lên từ giữa Mezozoi. Lòch sử phát
triển đòa chất của nó từ thời gian đó liên quan chủ yếu đến các chuyển động từ hướng
Bắc của mảng Ấn độ và sự va chạm với lục đòa châu Âu vào thời kì Mezozoi muộn
và Kainozoi sớm mà kết quả là hình thành dãy Hymalaya (Johnson et al 1976).
- Sự chuyển động tiếp theo các mảng kiến tạo lớn tạo thành các đứt gãy trượt
ngang (đứt gãy biến dạng) ở khắp nơi trong vòng vào thời kì Kainozoi (Tappoinier &
Molnar 1977, Tappoinier et al 1982) và biển Nam Trung Hoa có thể liên quan đến
pha kiến tạo này.
- Cơ chế trượt ngang cà nát hoạt động trong vùng từ thời kì Paleogen và Neogen
sớm và nhiều bể trầm tích kín đã hình thành liên quan đến hệ thống đứt gãy này.
- Những va chạm giữa các mảng gây nên những chuyển động kiến tạo lớn
Mezozoi – Kainozoi trong mảng Kontum – Bornneo được ghi nhận vào cuối Trias
(Indosini); vào Jura (Malaysisa); cuối Kreta (Sumatra); cuối Eocen giữa; cuối
Oligocen; Miocen giữa.

Tóm lại:
Quá trình phát triển Đông Nam Á có thể chia thành 4 giai đoạn chính:
+ Giai đoạn va mảng Ấn – Úc vào mảng Âu – Á và hình thành đới hút chìm dọc
cung Sunda (50 – 43.5 triệu năm). Giai đoạn này được các nhà đòa chất Trung Quốc
gọi là pha tạo núi Yến Sơn muộn (Liang Dehua). Ở Việt Nam có thể có 1 vài trũng
SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

3

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

nhỏ hẹp ở trung tâm bồn sông Hồng, hiện bò vùi sâu và khó xác đònh. Các nhà đòa
chất Việt Nam xếp giai đoạn này như là giai đoạn san bằng kiến tạo trước khi hình
thành bồn trầm tích Việt Nam.
+ Giai đoạn ngưng tách giãn Ấn Độ Dương và sắp xếp lại các vi mảng Thái
Bình Dương (43.5 – 32 triệu năm). Ở Việt Nam giai đoạn này là giai đoạn giập vỡ và
vát mỏng vỏ lục đòa, xảy ra ở trũng Cửu Long và Nam Côn Sơn cũng như tại khu vực
Hoàng Sa và Trường Sa đã hình thành các bán đòa hào trong giai đoạn này với sự có
mặt hạn chế các trầm tích lục đòa Eocen muộn – Oligocen sớm.
+ Giai đoạn tách giãn mảng Nam Cực và ép xoay mảng Thái Bình Dương (32 –
17 triệu năm): sự tách giãn mảng Nam Cực tiếp tục gây ra chuyển động của mảng
Ấn – Úc lên phía Bắc, tạo ra các chuyển động trồi của khối Đông Dương, việc sắp
xếp lại các vi mảng gây ra chuyển động xoay cũng như gây ra giãn đáy biển Đông,
sự trồi của khối Đông Dương là kết quả của cả 2 quá trình ép ở Ấn – Úc và giãn đáy
biển Đông. Đây là giai đoạn chính của việc hình thành các bồn Sông Hồng, Phú

Khánh, Malay – Thổ Chu cũng như mở rộng các bồn trầm tích khác như Cửu Long,
Nam Côn Sơn, Tư Chính – Vũng Mây
+ Giai đoạn kết thúc giãn đáy biển Đông trong khi tiếp tục chuyển động trồi của
khối Đông Dương (17 triệu năm).
Giai đoạn hai và giai đoạn ba là hai pha tạo bồn trầm tích ở vùng biển Việt Nam
trong đó giai đoạn chính là giai đoạn ba. Sự khác biệt giữa các bồn trong Đông Nam
Á và các bồn ở Việt Nam nằm ở chỗ vào Eocen muộn – Oligocen sớm các bồn nằm
dọc rìa hội tụ tích cực bò căng giãn mạnh hình thành các bồn sau cung thì ở Việt Nam
do nằm xa các rìa này đáy các bồn trầm tích hiện nay mới ở giai đoạn dập vỡ và sự
căng giãn mạnh chỉ xảy ra ở giai đoạn sau.
Giai đoạn hai và giai đoạn ba là hai pha tạo bồn trầm tích ở vùng biển Việt Nam
trong đó giai đoạn chính là giai đoạn ba. Sự khác biệt giữa các bồn trong Đông Nam
Á và các bồn ở Việt Nam nằm ở chỗ vào Eocen muộn – Oligocen sớm các bồn nằm
dọc rìa hội tụ tích cực bò căng giãn mạnh hình thành các bồn sau cung thì ở Việt
SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

4

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

Nam do nằm xa các rìa này đáy các bồn trầm tích hiện nay mới ở giai đoạn dập vỡ
và sự căng giãn mạnh chỉ xảy ra ở giai đoạn sau.

Phân bố vỏ thạch quyển trong khu vực Đông Nam Á


II. KIẾN TẠO THỀM LỤC ĐỊA NAM VIỆT NAM VÀ KẾ CẠÂN.

II.1. KIẾN TẠO TIỀN ĐỆ TAM:
Thềm lục đòa Nam Việt Nam và phần kéo dài xa hơn về phía Nam biển Indonesia
được gọi là thềm Sunda với các khối nhỏ lục đòa ở bán đảo Đông Dương, Thái Lan,
Malaysia, Borneo và quần đảo Indonesia hợp thành 1 thể cấu trúc có kiểu vỏ lục đòa
được gắn kết ít ra từ đầu Đệ Tam với 1 lòch sử hình thành và phát triển dẫn đến bình
độ ngày nay là kết quả quá trình phá vỡ, trôi dạt và gắn kết liên quan đến sự tác
động giữa mảng Âu-Á, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương.

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

5

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

Thềm lục đòa Nam Việt Nam có kiểu kiến trúc không đồng nhất gồm 2 kiểu vỏ:
lục đòa và đại dương(hoặc chuyển tiếp á đại dương) mà đường khâu phân cách là đứt
gãy dòch ngang – kinh tuyến chạy dọc theo bờ biển miền Trung, kéo dài xuống phía
dưới Nam hướng về đảo Natuna và kết thúc ở biển Trung Java.
Ở phía Nam tiếp xúc giữa hai khối vỏ á đại dương và lục đòa là đường khâu Lupar,
được nối dài lên hướng bắc ở rìa đông Natuna.
Đường khâu quan trọng khác là ở đông nam Malaysia kéo dài từ đảo Billiton qua
bán đảo Malaysia tách đới đông Malaysia ra khỏi đới trung tâm, sau đó kéo dài lên
phía bắc qua Vònh Thái Lan nối với đường khâu Uttaradit ở Bắc Thái Lan. Đường

khâu này được xem như tàn dư của đới Benioff cổ, tạo nên bởi sự va chạm của đại
dương tuổi Trias với lục đòa cổ Kontum-Borneo. Sự hút chìm xảy ra ở hướng Đông
dưới lục đòa Kontum-Borneo. Nhìn chung, hai đường khâu quan trọng kinh tuyến
1090-Lupar và Bentong-Raub-Ultaradit đã phân chia thềm lục đòa Nam Việt Nam
thành ba mảnh nhỏ: mảng lục đòa Miến –Thái, mảng lục đòa Kontum-Borneo và
mảng đại dương Biển Đông.

II.1.1.Mảng lục đòa Miến –Thái:
Vào đầu Paleozoi sớmï, trên trìa khối lục đòa Miến – Thái, cụ thể là đới Tây
Malaysia được hình thành bồn trầm tích có dạng biển nông chuyển dần sang biển sâu
đại dương ở đới trung tâm Malaysia. Sự hình thành biển Tethys vào Carbon ở phía
Tây đã xô khối lục đòa Miến – Thái xích gần lục đòa Kontum – Borneo và khép kín
dần đại dương đã tồn tại từ Paleozoi, biến khu này thành vùng biển rìa rộng lớn phủ
lên cả phần lớn mảng lục đòa. Sự va chạm 2 mảng xảy ra cuối Trias tiếp sang Jura
tương ứng với thời kỳ tạo núi – uốn nếp Indosini và Malaysia.

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

6

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

II.1.2.Mảng lục đòa Kontum-Borneo:
Khối Kontum:
Ở phía Tây là đới khâu chìm Paleozoi – Mezozoi sớm, ghi nhận bằng đai Ophiolit

Bentong-Raub-Uttaradit, tách khỏi mảng Miến-Thái.
Phía đông là đường khâu – đứt gãy dòch ngang “kinh tuyến 109” phát triển từ cuối
Mezozoi đến nay, tách lục đòa Kontum – Borneo ra khỏi mảng “biển Đông”.
Phía Bắc ranh giới tiếp xúc là đường khâu sông Mã.
Phía Nam là phần nối dài của ranh giới Bentong – Raub xuống phía nam qua đảo
Billion và tiếp sang Đông Nam bán đảo Borneo.

Khối Borneo:
Sự phát triển của mảng lục đòa Kontum – Borneo từ Paleozoi qua các giai
đọan:
Mảng lục đòa Kontum – Borneo được tạo chủ yếu bởi lục đòa cổ Kontum tuổi tiền
Cambri. Vào Paleozoi sớm, ở rìa Tây và Nam của lục đòa Kontum – Borneo hình
thành vùng biển rìa với trầm tích phổ biến là phiến sét, silic, radiolarit, các đá núi lửa
andezit – Ryolit đặc trưng cho các vùng cung đảo và trước cung đảo.
Chuyển động kiến tạo cuối Paleozoi sớm đã cố kết rìa lục đòa này và mở rộng lục
đòa bền vững Kontum xuống phía Nam, trên đới Tây Camuchia và khiên lục đòa
Sunda.
Sau thời gian gián đọan trầm tích ngắn vào cuối Devon sớm, biển lại tràn ngập
lên phần lớn lục đòa Kontum – Borneo. Các trầm tích châu thổ được lắng đọng.
Khiên lục đòa Sunda được nâng lên trong giai đoạn này và bò phủ bởi trầm tích đá vôi
Carbon thượng – Permi hạ vào cao trào biển tiến Paleozoi thượng do sự mở rộng của
biển lên các khu vực bào mòn của khối lục đòa Kontum – Borneo.
Chuyển động kiến tạo Paleozoi muộn làm tòan bộ rìa Nam của lục đòa Kontum –
Borneo được nâng lên.

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

7

MSSV:0316166



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

Chuyển động Indosini(Trias thượng) đánh dấu sự va chạm 2 mảng lục đòa Miến –
Thái và Kontum – Borneo, triệt tiêu mảng đại dương nằm giữa chúng, mảng này
phát triển suốt từ Paleozoi sớm đến cuối Trias. Sự va chạm tạo núi làm cho toàn lục
đòa Kontum – Borneo được nâng lên.
Trong lúc toàn lục đòa Kontum – Borneo được nâng lên vào cuối Mezozoi, các
trầm tích châu thổ, lòng sông tồn tại ở rìa Tây đòa khối Kontum thì rìa bắc khiên
Sunda bò lún chìm, tạo ra vùng biển nông với các trầm tích vôi và lục nguyên thô ven
bờ mở rộng ra vùng nước sâu biển Đông ở phía Bắc và Đông Bắc.
Chuyển động tạo núi vào Kreta kết thúc giai đọan kiến tạo Mezozoi. Trên lục đòa
Kontum – Borneo hình thành các vùng trũng Đệ Tam .

II.1.3.Mảng đại dương biển Đông:
Tiếp giáp giữa 2 mảng đại dương biển Đông và khiên lục đòa Sunda là đường
khâu Lupar.
Sự tồn tại của biển Đông đã được thể hiện từ cuối Trias. Vào cuối Mezozoi xảy
ra quá trình tách giãn và hình thành vỏ đại dương. Đứt gãy kinh tuyến 1090 là đường
dòch chuyển ngang lớn giữa 2 mảøng Kontum – Borneo và Biển Đông cũng hoạt động
vào lúc đó. Sự dòch chuyển ở đây đã tạo đới nâng rìa dưới dạng cung dảo núi lửa
thành phần andezit – porfia và lọai các uốn nếp – đứt gãy đi kèm mà sự họat động
của chúng đã khống chế bình độ cấu trúc các vùng sụt võng và nâng đòa lũy của
móng ở vùng trũng Nam Côn Sơn.
Sự tách giãn ở biển Đông và va chạm giữa các mảng mang tính chất nhòp điệu và
là nguyên nhân gây các chuyển động uốn nếp tạo núi, hoạt động magma ở rìa Nam
lục đòa Kontum – Borneo cũng như ở các đới kiến sơn trẻ phía Nam.

Những thời kỳ va chạm được ghi nhận vào Paleogen, vào cuối thời kỳ Eocen giữa,
cuối Oligocen và Miocen trung đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển
các bồn trũng Đệ Tam ở Đông Nam Á.

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

8

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

Nhìn chung, thềm lục đòa Nam Việt Nam và kế cận là bộ phận hợp thành kiểu
mảng lục đòa Kontum – Borneo. Kiểu mảng này phát sinh từ lục đòa cổ Kontum, lớn
dần qua nhiều lần phá vỡ, cố kết lại từ các yếu tố nhỏ là những tàn dư ở rìa lục đòa
Âu – Á hoặc Ấn – Úc. Sự phát triển như 1 thể thống nhất của mảng Kontum –
Borneo được xác đònh từ cuối Paleozoi trên cơ sở của sự phân bố rộng khắp thành hệ
đá vôi Carbon – Permi, nhưng rõ ràng hơn là là từ sau Trias khi được gắn kết với lục
đòa Âu – Á.
Chòu sự tác động của những mảng lớn vây quanh Âu – Á. Ấn – Úc và Thái Bình
Dương, mỗi sự tách giãn và va chạm đều được phản ánh trên lòch sử chuyển động của
đòa khối. Sự tách giãn các mảng lớn làm cho phần lớn đòa khối bò lún chìm, xảy ra
cao trào biển tiến. Mỗi sự va chạm đều gây hiện tượng nén ép mạnh ở vùng rìa còn
sâu bên trong đòa khối sự phân dò yếu tạo ra khối nâng dạng vòm và các trũng lắp
đầy trầm tích.
Các chuyển động lớn trong Mezo – Kainozoi được ghi nhận vào cuối
Triat(Indosini), Jura(Malaixia), cuối Kreta(Sumatra), và sau này vào Eocen, cuối

Oligocen, giữa Miocen và Pliocen đều liên quan đến sự va chạm của rìa nam lục đòa
Âu – Á với các mảng Ấn – Úc và Thái Bình Dương.

II.2.KIẾN TẠO ĐỆ TAM VÀ SỰ HÌNH THÀNH CÁC BỒN TRŨNG:
Đặc điểm quan trọng trong giai đoạn Kainozoi là sự hình thành loạt các trũng trẻ,
kết quả của sự phá vỡ móng lục đòa được gắn kết trước đó, hoặc là nơi tiếp giáp do sự
va chạm các mảng lớn Âu – Á, Ấn – Úc và Thái Bình Dương.
Ở thềm lục đòa Nam Việt Nam và kế cận có các kiểu vùng trũng sau:
- Vùng trũng hình thành trên đới va chạm tạo núi.
- Vùng trũng hình thành trên đới hút chìm.
- Vùng trũng hình thành trên móng á đại dương.
- Vùng trũng hình thành trên móng lục đòa tương đối ổn đònh.

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

9

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

II.2.1.Các bồn trũng hình thành trên đới va chạm tạo núi:
Đó là các trũng hình thành trên đới trung tâm Malaysia – vùng va chạm giữa 2
mảng lục đòa Miến – Thái và Kontum – Borneo. Sự va chạm giữa 2 mảng bắt đầu từ
cuối Trias nối tiếp sang Jura. Từ đó bắt đầu lòch sử hình thành các trũng đệ Tam giữa
núi Thái Lan – Malaysia. Đó là loạt các trũngChumphon, trũng Tây, trũng Kra được
ngăn cách bởi các trục nâng Samui, Kokra. Các trũng này được phủ dưới biển hiện

tại ở Vònh Thái Lan, kéo dài lên phía Bắc là loạt trũng Chao Phraya, MacSot, Chiang
Mai…
Các trũng này là đối tượng tìm kiếm than. Dầu thô trong cát kết Miocen có giá trò
không đáng kể, được khai thác để sử dụng cho công nghiệp đòa phương.

II.2.2.Các bồn trũng hình thành trên đới hút chìm:
Là các trũng hình thành ở nơi tiếp xúc giữa 2 mảng lục đòa và vỏ đại dương dọc
theo đới hút chìm Mezozoi muộn đầu đệ Tam. Móng của các trũng này được thành
tạo bởi các vật liệu của móng đại dương và biển sâu và các trầm tích dạng nhòp, vụn
núi lửa Paleocen – Eocen. Chúng bò uốn nếp, biến chất mạnh và bò xuyên cắt bởi các
thể magma. Đặc trưng cho dạng này là các bồn trũng Sarawak, Brunay – Sabab.
Tầng sản phẩm của các bồn trũng này gồm dầu tập trung chủ yếu ở cát kết Miocen
hạ, khí trong đá vôi Miocen trung.

II.2.3.Các bồn trũng hình thành trên móng á đại dương:
Các bồn trũng này chưa được nghiên cứu nhiều vì chúng tập trung chủ yếu ở
vùng nước sâu thuộc sườn và rìa lục đòa hoặc đáy đại dương.

II.2.4.Các bồn trũng hình thành trên móng lục đòa tương đối ổn đònh:
Các bồn trũng này phát triển trên mảng nhỏ lục đòa Kontum – Borneo sau khi các
giai đoạn tạo núi uốn nếp Mezozoi đã kết thúc. Đặc trưng phát triển kiến tạo sau
Trias



sự hình thành lớp phủ Mezo – Kainozoi. Giai đoạn thành tạo này chia 3

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

10


MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

thời kỳ:
Jura – Kreta là thời kỳ tạo ra các sụt lõm bên trong đòa khối, kết quả do sự tác
động va chạm tạo núi giữa lục đòa Miến – Thái và Kontum – Borneo. Ở rìa Tây Khối
Kontum hình thành trũng Khorat và trũng Phú Quốc.
Eocen muộn – Oligocen sớm là thời kỳ tạo ra các trũng giữa núi, phát triển dọc
theo đứt gãy và nằm không chỉnh hợp ngay trên lớp phủ Jura – Kreta.
Oligocen muộn – đệ Tứ là sự mở rộng bồn trũng kết quả do sự phát triển biển
Đông. Trầm tích tướng biển lan rộng dần từ Đông sang Tây và Tây Bắc.
Ở thềm lục đòa Việt Nam có các trũng Cửu Long, Nam Côn Sơn, và rìa đông của
vùng trũng Vònh Thái Lan. Vào đầu Kainozoi toàn bộ vùng Đông Nam Á nói chung
và vùng nghiên cứu nói riêng trải qua 1 thời kỳ tạo núi. Trong quá trình nâng lên,
xuất hiện các đòa hào kiểu rift kéo dài theo 2 hướng Đông Bắc – Tây Nam, Tây Bắc
– Đông Nam và các đứt gãy thuận tạo nên các cấu tạo nâng. Ở bồn Cửu Long được
mở rộng với sự tích tụ của các lớp sét dày chuyển lên trên là các lớp trầm tích thô khi
bồn trũng được nâng lên vào cuối Paleogen trong môi trường châu thổ, lúc đầu là
prodelta và sau đó là avandelta. Nếu như bồn trũng Cửu Long trong Paleogen đặc
trưng bởi môi trường lắng đọng châu thổ và châu thổ lấn dần ra biển thì ở Nam Côn
Sơn ảnh hưởng của biển rõ nét hơn. Vào đầu Miocen ở bồn trũng Cửu Long có sự
tranh chấp giữa lục đòa và biển thì ở Nam Côn Sơn tính trội của biển được thể hiện rõ
hơn. Vào đầu Miocen giữa biển đã tràn vào không những ở phạm vi bồn trũng Nam
Côn Sơn mà còn bao phủ gần như toàn bộ trũng Cửu Long để tích tụ lớp sét biển với
hóa thạch Rotalia. Tiếp theo biển rút ra khỏi phạm vi bồn trũng Cửu Long để tạo nên

vùng châu thổ rộng lớn(delta và avandelta) còn ở trũng Nam Côn Sơn nằm trong
điều kiện châu thổ (avandelta và prodelta) ở phần Tây Bắc, còn phần phía Đông
chuyển sang điều kiện biển với sự tích tụ của trầm tích hạt mòn, đá vôi cũng như xuất
hiện các thể đá vôi ám tiêu. Vào Pliocen – Đệ Tứ các bồn trũng trong vùng đặc trưng
bởi sự lún không đều. Ở bồn trũng Cửu Long với độ dày 600 – 700m được tích tụ
trong điều kiện biển nông, còn ở phạm vi trũng Nam Côn Sơn được đặc trưng bởi sự
SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

11

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

lún xuống mạnh hơn đệ tích tụ trầm tích mòn hạt với độ dày 2000 – 3000m ở phía
Đông bồn.
Đòa tầng Đệ Tam sớm nhất được khoan qua có tuổi bắt đầu từ Oligocen. Các trầm
tích molat giữa núi Eocene có lẽ chỉ phổ biến ở trung tâm các rãnh sụt. Lòch sử phát
triển Oligocen – Đệ Tứ được chia thành 3 chu kỳ lớn – chu kỳ biển lùi Oligocen, chu
kỳ biển lùi Miocen và chu kỳ biển tiến Miocen muộn – Đệ Tứ.
Trầm tích Oligocen ở chu kỳ đầu được xếp trong hệ tầng “Trà Tân” trên cơ sở
nghiên cứu giếng Trà Tân, gồm bên dưới là các trầm tích lục đòa với thành phần cát
kết hạt thô, cuội kết thay thế bởi bột kết,sét kết loang lổ tướng đầm lầy ven biển
nông ven bờ, hoặc đập cát ven biển ở trũng Nam Côn Sơn. Nguồn cung cấp lục
nguyên là phần nhô cao trong đất liền hiện tại ở đòa khối KonTum và đới Tây
Campuchia.
Tiếp theo là thời kỳ trầm tích ổn đònh, điều kiện biển nông phổ biến ở trũng Nam

Côn Sơn với thành phần chủ yếu là cát kết, còn ở trũng Cửu Long và Vònh Thái Lan
phổ biến các trầm tích sét bột kết xen cát kết tướng đầm lầy ven biển và châu thổ
ngầm. Kết thúc đòa tầng Oligocen và các trầm tích hạt mòn tướng lục đòa và châu thổ,
điều kiện đầm lầy ven biển chứa than phổ biến rộng khắp ở trung tâm các bồn trũng
thềm lục đòa phía Nam. Sự xô nhau giữa các mảng Thái Bình Dương Ấn – Úc với rìa
Nam lục đòa Âu Á vào cuối Oligocen đã ảnh hưởng đến sự phát triển của đòa khối ,
gây hiện tượng biển lùi và dâng lên tương đối ở khu vực lắng đọng. Các chuyển động
khối – gãy đồng sinh cùng quá trình trầm tích đã tạo ra những cấu tạo đòa phương,
băm nát chúng, một số cấu tạo kết thúc phát triển vào cuối Oligocen. Sự dâng lên
làm cho đa số các cấu tạo nhất là những cấu tạo ven rìa bò bào mòn ở đỉnh, hoặc vài
mỏng chiều dày, đặc biệt là sự hình thành các thể đòa chất đặc biệt (có lẽ là diapia
sét) xuyên cắt các trầm tích Oligocen và thường không xuyên qua phức hợp Miocen,
chúng liên quan đến các trầm tích sét dày liền châu thổ phổ biến ở các trung tâm
trầm đọng. Các trầm tích cát – bột đầu chu kỳ là đối tượng chứa dầu phổ biến ở Đông
Nam Á.
SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

12

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

Chu kỳ trầm tích tiếp theo – chu kỳ Miocen bắt đầu bằng đợt biển tiến dầu
Miocen hạ và kết thúc bằng sự nâng lên và gián đoạn trầm tích giữa Miocen giữa.
Chu kỳ này được chia thành hai phân kỳ tách nhau bởi đợt biển lùi vào cuối Miocen
sớm và biển tiến rộng khắp sau đó ở đầu Miocen giữa. Sự khác biệt chỉ thể hiện qua

tướng trầm tích. Nóiù cách khác, nguyên nhân của hiện tượng biển lùi vào cuối
Miocen sớm và biển tiến sau đó vào đầu Miocen giữa liên quan có lẽ chủ yếu đến
sự dao động của mực nước đại dương.
Biển tiến gần vào đầu chu kỳ Miocen đã mở rộng diện tích các bồn trũng. Trầm
tích Miocen hạ được tách ra ở trũng Cửu Long dưới tên hệ tầng “ Bạch Hổ”, còn ở
trũng Nam Côn Sơn là hệ tầng “ Trái Dừa”. Hệ tầng Bạch Hổ bắt đầu bằng tầng đất
sét biển, châu thổ ngầm, ở trên có xen nhiều lớp cát biển và cuối cùng là các trầm
tích hạt mòn chứa than tướng đầm lầy ven biển và châu thổ nổi. Ở trũng Nam Côn
Sơn, hệ tầng “ Trái Dừa”, cũng có thành phần thạch họ tương tự như hệ tầng Bạch
Hổ, nhưng yếu tố biển và sông có ảnh hưởng biển phổ biến phong phú hơn, nhất là ở
phần giữa đòa tầng.
Ở Vònh Thái Lan từ trũng Malaia ở phía Nam sang trũng Patlani ở phía Bắc yếu
tố biển giảm dần chuyển sang tướng lục đòa, chủ yếu là châu thổ.
Có nhiều cấu tạo vẩn tiếp tục phát triển từ Oligocen sang Miocene sớm, đồng
sinh cùng với quá trình trầm tích nhưng biên độ giảm, biến dạng đứt gãy cũng yếu đi.
Sau đợt thu hẹp vào cuối Miocen sớm, biển lại tràn khắp trên các bồn trũng ở
thềm lục đòa Việt Nam. Diện tích bồn trũng được được mở rộng và phủ chồng lên rìa
các khối nâng mà trước đây là vùng bào mòn và cung cấp vật liệu hạt thô. Do sự
dâng lên của mực nước biển các bồn trũng có đủ điều kiện để lắng đọng trầm tích.
Trầm tích Miocen trung được phân thành hệ tầng “ Côn Sơn” ở trũng Cửu Long và
hệ tầng “Vũng Tàu” ở trũng Nam Côn Sơn. Hệ tầng Côn Sơn bắt đầu bằng tầng sét
biển phong phú Rotalia ổn đònh trong khắp bồn. Hiện tượng này nói lên quá trình
biển tiến xảy ra trên 1 vùng đòa hình thấp khi sự sụp lún được cân bằng bởi nguồn vật
liệu sét.
SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

13

MSSV:0316166



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

Ở trũng Nam Côn Sơn, đòa tầng Miocen trung cũng bắt đầu bằng tầng sét biển,
chuyển tiếp lên trên là cát kết biển nông, thành phần hạt thô phổ biến ở rìa Tây và
Tây Bắc giáp với đới nâng Tây Campuchia và Côn Sơn, còn ở phía Đông trên đới
nâng rìa 1090 phổ biến trong những lớp cát kết mòn có xen đá vôi, cát kết chứa vôi,
thạch cao.
Ở các trũng Vònh Thái Lan, phức hệ Miocen trung cũng bắt đầu bằng tập sét bột
kết chuyển dần lên trên là cát kết, biển nông và kết thúc bằng các trầm tích lục
nguyên mòn chứa than. Tướng lục đòa phát triển phong phú hơn ở khu vực phía Bắc.
Vào cuối chu kỳ, sự va chạm giữa mảng Âu – Á và Thái Bình Dương, đồng thời
sự va chạm đầu tiên của mảng nhỏ Biển Đông với khối Borneo – Philippin dọc đới
hút chìm Palawan làm cho các trầm tích đệ Tam bò biến dạng, rìa nam lục đòa khối
Âu – Á được nâng lên, biển lùi xảy ra trên toàn vùng. Chu kỳ Miocen kết thúc bằng
bất chỉnh hợp khu vực, chấm dứt bình độ kiến tạo Oli – Miocen.
Chu kỳ tiếp theo bắt đầu từ cuối Miocen giữa, sang Miocen muộn - Pliocen Pleistocen và đặc trưng cho quá trình biển tiến tiếp diễn đến ngày nay. Phức hệ trầm
tích được tách thành từng hệ tầng: hệ tầng Đồng Nai ở trũng Cửu Long và hệ tầng
Vũng Tàu ở Trũng Nam Côn Sơn, đại diện cho phần cao nhất của Miocen trung: cuối
cùng là hệ tầng Cửu Long gồm các trầm tích tuổi Miocen muộn – Pliocen –
Pleistocen. Vào đầu chu kỳ, biển đã tồn tại trên các bồn trũng hình thành trước đó
đồng thời mở rộng lên các đòa hình thấp ở rìa các miền nâng tạo ra vùng biển nông
và châu thổ rộng lớn. Chu kỳ bắt đầu bằng đợt biển tiến cuối Miocen giữa với thành
phần lục nguyên hạt mòn, sét bột kết chứa vôi trũng Nam Côn Sơn. Ở trũng Cửu
Long thành phần hạt thô hơn, phổ biến cát lẫn sạn, bên trên là cát và sét biển. Chiều
dày trầm tích biến động với xu thế tăng về rìa Đông của trũng Nam Côn Sơn, nơi tiếp
giáp mảng biển Đông. Ở đây thành phần sét biển chiếm ưu thế. Trên đới nâng rìa
1090 và phía Đông, Đông Nam trũng Nam Côn Sơn, cấu tạo trong Miocen tiếp tục

phát triển yếu sang đầu Plio- Pleistocen làm cho các trầm tích cuối Miocen bò uốn
nhẹ và phá hủy bởi các đứt gãy biên độ nhẹ. Trong các bồn trũng thềm lục đòa Nam
SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

14

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

Việt Nam trầm tích cát kết thuộc chu kỳ Oligocen, Miocen hạ, trung là đối tượng tìm
kiếm dầu khí.

MĂT CẮT QUA BỒN CỬU LONG VÀ NAM CÔN SƠN
TÂY BẮC

ĐÔNG NAM
Mực nước biển

TWT (S)

TWT (S)

BẤT CHỈNH HP PLIOCEN

D


1.0

B

MIOCEN TRUNG VÀ
DƯỚI

1.0

F
2.0

A

2.0

3.0

E

BẤT CHỈNH HP MIOCEN SỚM

MIOCEN SỚM OLIGOCEN

v
v v
v
v v

3.0


C
4.0

4.0

ĐỚI NÂNG CÔN SƠN

BỒN TRŨNG CỬU LONG

CÁC KIỂU BẪY:
A: Mag ma xâm nhập trên nếp lồi
B: Đòa hào - đòa lũy trên nếp lồi
C: Đứt gãy ở phần cao của móng
D: Lớp phủ trên phần vát nhọn cánh đới nâng Côn Sơn
E: Lớp phủ trên phần nông của Móng tuổi Miocen giữa
F: Phần giữa khối đòa lũy nghiêng

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

KIỂU ĐÁ SINH:
Môi trường đầm hồ (tuổi Oligocen & Miocen sớm)
Khu vực rìa biển (tuổi Miocen giữa)

15

BỒN TRŨNG NAM CÔN SƠN

KIỂU ĐÁ CHỨA
Môi trường đầm hồ (tuổi Oligocen & Miocen sớm)

Cát kết vùng biển nông (tuổi Miocen giữa)
Đứt gãy Móng Granite (tuổi Cretaceous)

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

CHƯƠNG II: CƠ CHẾ HÌNH THÀNH – HỆ THỐNG
DẦU KHÍ BỒN TRŨNG CỬU LONG VÀ NAM CÔN
SƠN
I. CƠ CHẾ HÌNH THÀNH

I.1.BỒN TRŨNG CỬU LONG

I..1.1.Vò trí đòa lý:

Bồn trũng Cửu Long nằm chủ yếu trên thềm lục đòa phía Nam Việt Nam và một
phần đất liền thuộc khu vực cửa sông Mê Kông, trong khoảng giữa 90 đến 110 vó độ
Bắc đến 1090 kinh độ Đông, kéo dài dọc theo bờ biển Phan Thiết đến cửa Sông Hậu,
với diện tích châu thổ hiện tại là 400 ngàn km2.
Bồn có hình bầu dục, vồng ra về phía biển đồng thời nằm dọc theo bờ biển Vũng
Tàu – Bình Thuận. Bồn Cửu Long được coi là bồn khép kín điển hình của Việt Nam.
Bồn có diện tích khoảng 56000 km2, bao gồm các lô: 9, 15, 16, 17 và một phần của
các lô: 1, 2, 25 và 31. Bồn được lấp đầy chủ yếu bởi các trầm tích lục nguyên Đệ
Tam, chiều dày lớn nhất của chúng tại trung tâm bồn có thể đạt tới 7 – 8 km.
Công tác khảo sát đòa vật lý tại bồn Cửu Long được tiến hành từ thập niên 70.
Đến năm 1975 tại giếng khoan tìm kiếm đầu tiên BH-1X đã phát hiện được dòng dầu

công nghiệp đầu tiên trong cát kết Miocene hạ. Kể từ đó công tác thăm dò đòa chất
dầu khí được triển khai một cách mạnh mẽ.
Hầu hết các lô đã được chia đều có chiều dày trầm tích từ khoảng 2000m trở lên
và đang được thăm dò, khai thác bởi các công ty dầu như: Vietsovpetro, JVPC, PCV,
Conoco, Cuu Long JOC, Hoàng Long, Hoàn Vũ, Lam -Sơn JOC, VRJ. Đến nay bồn

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

16

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

Cửu Long được xem như bồn chứa dầu lớn nhất tại Việt Nam với các mỏ đang được
khai thác như: Bạch Hổ, Rồng, Rạng Đông, Ruby, Sư Tử Đen.

1060

60
m

20 m

20
0m


T/P Hồ Chí Minh

1100

01
500
m

10
0m

1080

50

m

15-1 Petronas
Carigali

Sư Tử Đen

Lam Sơn JOC

02

Phương Đô ng

15-2
09-2


100

Ruby Field

Sư Tử Vàng
Sư Tử Trắ ng

JVPC

100

Mỏ Rang Đô ng

16-1
Hoang Long JOC
Hoan Vu Joint
Mỏ Bach Hổ Operating Co.
16-2 CONOCO
09-3
09-1
Vietsovpetro
Mỏ Rồ ng
25

B

Ư
Ể C


ÛU L

03

G
ON

17

04-2

VRJ

18

10

19

11-1

04-3
05-1A

05-1C

*

Conoco


05-1B

05-3

27
80

20

11-2

Pedco

BP

12 (W)
OPECO

12 (E)

06-1

BP

133

1000 m

05-2
BP


0
88°
134-1

Conoco

Rong Doi
28

Độ sâu mực nước
100 km

06

Lan Tây
Lan Đỏ

21

Vamex

07

Vamex

08

13


22

BỂ NAM CÔN SƠN
1060

VIETNAM

04-1

26
Con Son Isl.

m

Cuulong JOC

200
0

Vung Tau

1080

1100

Hình

Vò trí đòa lý bồn trũng Cửu Long

II.1.2. Lòch sử nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí:

Lòch sử tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí bồn trũng Cửu Long gắn liền với
lòch sử tìm kiếm thăm dò, khai thác dầu khí của thềm lục đòa Nam Việt Nam. Căn cứ
vào quy mô, mốc lòch sử và kết quả thăm dò, lòch sử tìm kiếm, thăm dò và khai thác
dầu khí bồn trũng Cửu Long được chia làm 4 giai đoạn sau:
Giai đoạn trước năm 1975.
Giai đoạn 1975 – 1979.
Giai đoạn 1980 – 1988.
Giai đoạn 1989 đến nay.
SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

17

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

II.1.2.1. Giai đoạn trước năm 1975:
Đây là thời kỳ khảo sát đòa vật lý khu vực như: từ, trọng lực và đòa chấn để chuẩn
bò cho công tác đấu thầu các lô.
Năm 1967: U.S Nauy Oceanographic Office tiến hành khảo sát từ hàng không
gần khắp lãnh thổ miền Nam.
Năm 1967-1968: hai tàu Ruth và Santa Maria của Alping Geophysical
Corporation đã tiến hành đo 19500 km tuyến đòa chấn ở phía Nam biển Đông trong
đó có tuyến cắt qua bồn Cửu Long.
Năm 1969: công ty Ray Geophysical Mandreel đã tiến hành đo đòa vật lý bằng
tàu N.V. Robray I ở vùng thềm lục đòa miền Nam và vùng phía Nam Biển Đông với
tổng số 3482 km trong đó có tuyến cắt qua bồn Cửu Long.

Trong tháng 6-8, 1969 U.S Nauy Oceanographic cũng tiến hành đo song song
20000 km tuyến đòa chấn bằng 2 tàu R/V E.V Hunt ở vònh Thái Lan và phía Nam của
biển Đông trong đó có tuyến cắt qua bồn Cửu Long.
Đầu 1970 công ty Ray Geophysical Mandreel lại tiến hành đo đợt hai ở Nam biển
Đông và dọc bờ biển 8639 km, đảm bảo mạng lưới cỡ 30 km x 50 km, kết hợp các
phương pháp từ, trọng lực và hàng không trong đó có tuyến cắt qua bồn Cửu Long.
Năm 1973, xuất hiện các công ty tư bản đấu thầu trên các lô được phân chia ở
thềm lục đòa Nam Việt Nam, cũng trong khoảng thời gian này các công ty trúng thầu
đã tiến hành khảo sát đòa vật lý chủ yếu là đòa chấn phản xạ trên các lô và các diện
tích có triển vọng. Những kết quả nghiên cứu của đòa vật lý đã khẳng đònh khả năng
có dầu của bồn trũng Cửu Long.
Trong khoảng 1973-1974 đã đấu thầu trên 11 lô, trong đó có 3 lô thuộc bồn Cửu
Long là 09, 15 và 16. Năm 1974, công ty trúng thầu trên lô 09 – Mobil, đã tiến hành
khảo sát đòa vật lý, chủ yếu là đòa chấn phản xạ, có từ và trọng lực với khối lượng là
3000 km tuyến.
Vào cuối 1974 đầu 1975, công ty Mobil đã khoan giếng khoan tìm kiếm đầu tiên
trong

Cửu Long, BH-1X, ở phần đỉnh của cấu tạo Bạch Hổ. Giếng khoan này

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

18

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long


khi khoan tới độ sâu 3026 (m) đã gặp nhiều lớp cát kết chứa dầu ở độ sâu 2755 (m) –
2819 (m) tại các cấu tạo đứt gãy thuộc Miocen sớm và Oligocen. Cuộc thử vỉa thứ
nhất ở độ sâu 2819 (m) đã thu được 430 thùng dầu và 200000 bộ khối khí ngưng tụ.
Thử vỉa lần 2 ở độ sâu 2755 (m) cho 2400 thùng dầu và 860000 bộ khối khí ngày và
đêm.

I.1.2.2. Giai đoạn 1975 – 1979:
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 11/1975 Tổng cục dầu khí (tiền
thân của Petrovietnam ngày nay) quyết đònh thành lập công ty dầu khí Nam Việt
Nam. Công ty đã tiến hành đánh giá lại triển vọng dầu khí thềm lục đòa Nam Việt
Nam nói chung và từng lô nói riêng.
Năm 1976, Công ty đòa vật lý CGG của Pháp khảo sát 1210.9 km theo các con
sông của đồng bằng sông Cửu Long và vùng ven biển Vũng Tàu – Côn Sơn. Kết quả
của công tác khảo sát đòa chấn đã xây dựng các tầng phản xạ và bước đầu xác lập
các mặt cắt trầm tích khu vực. Cũng trong đợt nghiên cứu này đã phát hiện ra sự tồn
tại của các Graben ở phần Tây Nam bồn.
Năm 1978, công ty Geco (Nauy) thu nổ đòa chấn 2D trên các lô 10, 09, 16, 19, 20,
21 với tổng số 11898.5 km làm rõ chi tiết trên cấu tạo Bạch Hổ với mạng tuyến 2*2
và 1*1 km.
Trên lô 15 và cấu tạo Cửu Long (nay là mỏ Rạng Đông), công ty Deminex và
Geco đã khảo sát 3221.7 km tuyến đòa chấn mạng lưới 3.5*3.5 km.
Trong đợt thăm dò này, công ty Daminex đã khoan được 4 giếng khoan tìm kiếm
trên các cấu tạo triển vọng nhất Trà Tân (15A-1X), Sông Ba (15B-1X), Cửu Long
(15C-1X) và Đồng Nai (15G-1X). Kết quả khoan các giếng khoan này đều gặp các
biểu hiện dầu khí trong cát kết tuổi Miocen sớm và Oligocen nhưng không có ý
nghóa công nghiệp.
Trong giai đoạn này, Công ty dầu khí II (Petrovietnam II) đã xây dựng một số cấu
tạo theo thời gian tỉ lệ 1/200000 cho một số lô (09, 10, 16) và chủ yếu là xây dựng
SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng


19

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

bản đồ cấu tạo đòa phương tỉ lệ 1/50000 và 1/25000 phục vụ trực tiếp cho công tác
sản xuất.

I.1.2.3. Giai đoạn 1980 – 1988:
Hiệp đònh hữu nghò và hợp tác tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí ở thềm lục đòa
Nam Việt Nam được kí kết giữa Việt Nam và Liên Xô, đã mở ra một giai đoạn mới
trong lòch sử phát triển ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam với sự ra đời của Xí
nghiệp liên doanh dầu khí “Vietsovpetro”.
Năm 1980, tàu nghiên cứu POISK (Vietsovpetro) đã tiến hành khảo sát 4057 km
tuyến đòa chấn MOP – điểm sâu chung, từ và 3250 km tuyến trọng lực trong phạm vi
các lô 09, 15 và 16.
Kết quả đợt khảo sát này đã chia ra 4 loạt đòa chấn C, D, E, F và xây dựng được
một số sơ đồ cấu tạo dò thường từ và trọng lực Bughe.
Trên cơ sở tổng hợp tài liệu và các kết quả nghiên cứu trước đây, Xí nghiệp liên
doanh Vietsovpetro đã tiến hành khoan các giếng khoan tìm kiếm trên cấu tạo Bạch
Hổ và Rồng nhằm tìm kiếm và thăm dò trong trầm tích tuổi Miocen và Oligocen. Sự
nghiên cứu này đã mang lại nhiều thành tựu lớn trong ngành công nghiệp dầu khí
Việt Nam:
Hàng loạt các giếng khoan thẩm lượng và khai thác ở khu vực mỏ Bạch Hổ được
thực hiện, dẫn đến việc phát hiện dầu ở tầng cát Oligocen và tầng móng nứt nẻ. Đây

là sự kiện quan trọng mang đến những thay đổi quan trọng trong việc đánh giá trữ
lượng và mục tiêu khai thác của mỏ Bạch Hổ, cũng như cho ra đời một quan niệm đòa
chất mới về việc tìm kiếm thăm dò dầu khí trên thềm lục đòa Việt Nam.
Mặc dù hạn chế về số lượng, nhưng các giếng khoan thăm dò ở các cấu tạo Rồng,
Đại Hùng và Tam Đảo đã mang lại những kết quả khả quan về phát hiện dầu thô, và
sau đó các mỏ Rồng, Đại Hùng đã được đưa vào khai thác thương mại (R-1X, BH3X, BH-4X, BH-5X).


thể

nói rằng, 1980-1988 là giai đoạn mở đầu hình thành ngành công nghiệp

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

20

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

dầu khí Việt Nam, đặt nền móng cho hoạt động tìm kiếm thăm dò trong các giai
đoạn tiếp theo trên toàn bộ khu vực thềm lục đòa.

I.1.2.4. Giai đoạn 1989 đến nay:
Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất trong công tác tìm kiếm, thăm dò và
khai thác dầu khí trên bồn Cửu Long.
Hàng loạt hợp đồng với công ty nước ngoài trong việc thăm dò và khai thác đã

được kí kết. Đến cuối 2003, đã có 9 hợp đồng tìm kiếm, thăm dò được kí kết trên các
lô: 09-1, 09-2, 09-3, 01 & 02, 15-1, 15-2, 16-1, 16-2, 17.
Hầu hết các lô thuộc bồn trũng trong giai đoạn này đã được khảo sát một cách tỉ
mỉ không chỉ phục vụ cho công tác thăm dò mà cả cho công tác chính xác mô hình
vỉa.
Khối lượng khảo sát trong giai đoạn này: 2D là 21408 km và 3D là 7340.6 km2.
Khảo sát 3D được tiến hành trên hầu hết các diện tích có triển vọng và trên tất cả các
mỏ có triển vọng và trên tất cả các vùng mỏ đã phát hiện.Trong lónh vực xử lý tài
liệu đòa chấn 3D có những tiến bộ rõ rệt khi sử dụng qui trình dòch chuyển thời gian
và độ sâu trước cộng (PSTM, PSDM).
Cho đến hết năm 2003, tổng số giếng khoan thăm dò, thẩm lượng và khai thác đã
khoan ở bồn Cửu Long khoảng 300 giếng. Trong đó riêng Vietsovpetro chiếm 70%.
Bằng kết quả khoan nhiều phát hiện dầu khí đã được xác đònh: Rạng Đông (lô
15.2), Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Sư Tử Trắng (lô 15.1), Topaz North, Diamond, Pearl,
Emerald, Jade (lô 01), Cá Ngừ Vàng (lô 09.2), Voi Trắng (lô 16.1), Đông Rồng,
Đông Nam Rồng (lô 09-1). Trong số phát hiện này có 5 mỏ dầu: Bạch Hổ, Rồng
(bao gồm cả Đông Rồng và Đông Nam Rồng), Rạng Đông, Sư Tử Đen, Ruby hiện
đang được khai thác.

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

21

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long
LSJOC 1/97

CLJOC

PETRONAS O (50%), PVEP
(50%),
LSJOC (0%)

15-1

PVEP (50%), CONOCO (23.25%), KNOC
(14.25%),
SK CORP (9%), GEOPET SA (3.5%)

JVPC – Phuong Dong, Rang Dong

JVPC (46.5%), CONOCO GM
(36%),
PVEP (17.5%)

HLJOC

PETRONAS 1

PETRONAS V (85%),
PVEP (15%)

16-1

PVEP (41%), SOCO (28.5%),
PTTEP HL (28.5%), OPECO
(2%),

HLJOC (0%)

CONOCO

PETRONAS 2

PETRONAS V (85%), PVEP
(15%)

HVJOC 9-2

16-2

CONOCO (40%),
KNOC (30%), PVEP
(30%)

VIETSOV 9-1

PVEP (50%), SOCO (25%),
PTTEP HV (25%), HVJOC (0%)

VIETSOV

VRJ Petroleum Corp

9-3

(VRJ = Vietnam,Russian,Japan)
ZARUBEZ N (50%), PVEP (35%), IDEMITSU (15%), VRJ

(0%)

Vị trí các cơng ty thăm dò

I.1.3.Đặc điểm về đòa tầng:
Trong phạm vi Bồn Cửu Long bao gồm hai thành tạo đá:
-

Móng trước Kainozoi.

-

Trầm tích Kainozoi.

I.1.4.1. Phần đá móng trước Kainozoi:
Chủ yếu là đá magma axit thuộc nhóm granitoite. Các đá này tương đương với
một số phức hệ đá xâm nhập của lục đòa như phức hệ Hòn Khoai, Đònh Quán, phức
hệ Cà Ná. Do các hoạt động kiến tạo mạnh mẽ trước Kainozoi, các đá này bò phá
huỷ mạnh mẽ bởi các đứt gãy, kèm theo nứt nẻ, đồng thời các hoạt động phun trào
Andesite, Basalt đưa lên thâm nhập vào một số đứt gãy và nứt nẻ ở các mức độ khác
nhau tùy theo từng khu vực.
SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

22

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

I.1.4.2.Các thành tạo trầm tích Paleogen:

Trầm tích Oligocen :
Được chia thành hai điệp: điệp Trà Cú – Oligocen hạ và điệp Trà Tân – Oligocen
thượng.
Trầm tích Oligocen hạ – điệp Trà Cú (P31tr.c) :
Gồm các tập sét kết màu đen, xám xen kẽ với các lớp cát hạt từ mòn đến trung
bình, độ lựa chọn hạt tốt, gắn kết chủ yếu bởi xi măng kaonilite, lắng đọng trong môi
trường sông hồ, đầm lầy hoặc châu thổ. Phần bên trên của trầm tích Oligocene hạ là
lớp sét dày. Trên các đòa hình nâng cổ thường không gặp hoặc chỉ gặp các lớp sét
mỏng thuộc phần trên của Oligocen hạ. Chiều dày của điệp thay đổi từ 0 – 3500m.
Trầm tích Oligocen thượng - điệp Trà Tân :
Gồm các trầm tích sông hồ đầm lầy và trầm tích biển nông. Ngoài ra trầm tích
Oligocen thượng còn chòu ảnh hưởng của các hoạt động magma vì thế ở đây còn tìm
thấy thân đá phun trào như basalt, andesite,… Phần bên dưới của trầm tích Oligocen
bao gồm sét xen kẽ với các lớp cát kết hạt mòn trung, các lớp sét và các tập đá phun
trào. Bên trên đặc trưng bằng các lớp sét đen dày. Ở khu vực đới nâng Côn Sơn cát
nhiều hơn. Ở một số nơi tầng trầm tích Oligocen thượng có dò thường áp suất cao.
Chiều dày của điệp thay đổi từ 100 –1000 m.

Các thành tạo trầm tích Neogen:
Trầm tích Miocen hạ – điệp Bạch Hổ :
- Phụ điệp Bạch Hổ dưới : gồm các lớp cát kết lẫn với các lớp sét kết và bột kết.
Càng gần với phần trên của phụ điệp khuynh hướng cát hạt thô càng rõ. Cát kết
thạch anh màu xám sáng, hạt độ từ nhỏ đến trung bình, được gắn kết chủ yếu bằng xi
măng sét, kaolinit lẫn với carbonate. Bột kết màu từ xám đến nâu, xanh đến xanh
tối, trong phần dưới chứa nhiều sét. Trong phần rìa của bồn trũng Cửu Long, cát
chiếm


một phần lớn (60%) và giảm dần ở trung tâm bồn trũng.

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

23

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

- Phụ điệp Bạch Hổ giữa : phần dưới của phụ điệp này là những lớp cát hạt nhỏ lẫn
với những lớp bột rất mỏng. Phần trên chủ yếu là sét kết và bột kết, đôi chỗ gặp
những vết than và glauconite.
- Phụ điệp Bạch Hổ trên : nằm chỉnh hợp trên các trầm tích phụ điệp Bạch Hổ giữa.
Chủ yếu là sét kết xanh xám, xám sáng. Phần trên cùng của mặt cắt là tầng sét kết
Rotalit có chiều dày 30 – 300m, chủ yếu trong khoảng 50 – 100m, là tầng chắn khu
vực cho cả bồn.
Trầm tích Miocen trung – điệp Côn Sơn :
Phủ bất chỉnh hợp trên trầm tích Miocen hạ, bao gồm sự xen kẽ giữa các tập cát dày
gắn kết kém với các lớp sét vôi màu xanh thẫm đôi chỗ gặp các lớp than.
Trầm tích Miocen thượng – điệp Đồng Nai :
Trầm tích phần dưới gồm cát xen kẽ với lớp sét mỏng, đôi chỗ lẫn với cuội,
sạn kích thước nhỏ thành phần chủ yếu là thạch anh một ít những mảnh đá biến chất,
tuff và những tinh thể pyrite. Phần trên là cát thạch anh với kích thước lớn độ lựa
chọn kém, hạt sắc cạnh. Trong cát gặp nhiều mảnh hoá thạch sinh vật, glauconite
than và đôi khi cả tuff.

Trầm tích Pliocen – đệ Tứ – điệp Biển Đông:
Trầm tích của điệp này đánh dấu một giai đoạn mới của một sự phát triển trên toàn
bộ trũng Cửu Long, tất cả bồn trũng được bao phủ bởi biển. Điệp này được đặc trưng
chủ yếu là cát màu xanh trắng, có độ mài tròn trung bình, độ lựa chọn kém, có nhiều
glauconite. Trong cát có cuội thạch anh hạt nhỏ. Phần trên các hoá thạch giảm cát trở
nên thô hơn, trong cát có lẫn bột, cát có màu hồng chứa glauconite.

SVTH: Huỳnh Ngọc Lam Hằng

24

MSSV:0316166


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD:Th.s Phạm Tuấn Long

Cột địa tầng của bồn Cửu Long
SVTH: Huyønh Ngoïc Lam Haèng

25

MSSV:0316166


×