TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG
PHÂN HIỆU KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
BÀI BÁO CÁO THỰC TẬP CUỐI KÌ
Chủ đề dạng hoạt động:
PHÚC LỢI – TIÊU DÙNG SINH HOẠT CỦA NGƯỜI
DÂN TỘC TÀ MUN
SVTH
: PHẠM VÕ XUÂN DIỆU
LỚP
: 14XH01
2
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
3
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Phần 1: Dẫn nhập.....................................................................................................
5
1.
Lý do viết chủ đê
.......................................................................................................................
2.
5
Mục tiêu
.......................................................................................................................
3.
5
Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
.......................................................................................................................
4.
5
Nội dung nghiên cứu
.......................................................................................................................
6
Phần 2: Nội dung.....................................................................................................
7
1.
Tổng quan
.......................................................................................................................
2.
7
Cách tiếp cận
.......................................................................................................................
3.
8
Phương pháp nghiên cứu
.......................................................................................................................
4.
9
Các hoạt động tại địa bàn
.......................................................................................................................
5.
11
Những kinh nghiệm rút ra từ thực tế
.......................................................................................................................
14
4
Phần 3: Kết luận......................................................................................................
16
5
LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian thực tập tại ấp Tân Đông, xã Tân Thành, huyện Tân Châu,
tỉnh Tây Ninh, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô chú
là cán bộ UBND xã!
Cảm ơn Ban Giám Hiệu trường đại học bình dương đã tạo điêu kiện để
em và các bạn sinh viên có cơ hội thực tập nghiên cứu tại một địa bàn vô
cùng thú vị!
Cảm ơn quý thầy cô Khoa Xã hội Học đã tận tình hướng dẫn em từ các
công đoạn chuẩn bị đến giai đoạn viết báo cáo này!
Cảm ơn hai thầy là giáo vụ và trợ lý Khoa Ngoại Ngữ đã nhiệt tình hỗ trợ
các thủ tục giấy tờ cho em và nhóm nghiên cứu!
Cảm ơn bà con tại địa bàn nghiên cứu đã giúp đỡ hết sức cho nhóm hoàn
thành chuyến thực tập này!
Trân trọng!
6
PHẦN 1: DẪN NHẬP
1.
Lý do viết chủ đề:
Trong các nghiên cứu khoa học, các dân tộc ít người luôn là đê tài hấp dẫn. Các
nhà nghiên cứu đã cố gắng tìm hiểu và giải thích những vấn đê trong đời sống
của họ bằng nhiêu phương pháp khác nhau. Thông qua tìm hiểu các hoạt động
sống, các nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ và thực hiện cuộc nghiên cứu trở nên
chuẩn xác hơn. Nhiêu nghiên cứu cho rằng lối sống của người dân tộc bị ảnh
hưởng bởi điêu kiện tự nhiên, bởi phong tục tập quán hay sự giao lưu văn hóa
giữa các vùng miên. Và trong quá trình phát triển nhanh chóng của đất nước ta
hiện nay, liệu họ có theo kịp nhịp sống hối hả, thích nghi với cách sống hiện
đại?
Để tìm được câu trả lời và lý giải những thắc mắc, nhóm nghiên cứu đã thực
hiện một cuộc nghiên cứu (thông qua chuyến thực tập cuối kì) vê “Lối sống của
dân tộc Tà Mun tại ấp Tân Đông, xã Tân Thành, huyện Tân Châu, tỉnh Tây
Ninh”. Tuy nhóm người Tà Mun này chưa được công nhận là một dân tộc riêng
biệt như Bana, Hoa, Kinh,…nhưng vẫn là một nhóm người dân tộc ít người, có
nét văn hóa và lối sống khác biệt của riêng mình. Bản thân em (thành viên của
nhóm nghiên cứu) nhận thấy tầm quan trọng từ vấn đê thu nhập của người Tà
Mun có nhiêu khả năng quyết định đến chất lượng cuộc sống. Để tạo thu nhập
ổn định và duy trì nó, các thành viên trong hộ gia đình đã chăm chỉ làm việc và
không ngừng tìm kiếm những nguồn thu nhập thêm cho gia đình. Nhất là nên
kinh tế hiện nay đang có nhiêu khó khăn, vấn đê thu nhập của họ càng đáng
được lưu ý. Đồng thời, việc quản lý thu chi trong tiêu dùng sinh hoạt của gia
đình sao cho hợp lý cũng nên được tìm hiểu. Với ý nghĩ xếp người Tà Mun
thuộc dân tộc ít người, họ có cách tạo thu nhập và quản lý chi tiêu như thế nào?
Đó là lý do em viết chủ đê “ Phúc lợi – tiêu dùng sinh hoạt của người dân tộc Tà
Mun”, trường hợp nghiên cứu tại ấp Tân Đông, xã Tân Thành, huyện Tân Châu,
tỉnh Tây Ninh.
7
2.
Mục tiêu:
Mục tiêu chung: hiểu rõ hơn vê lối sống của người Tà Mun thông qua dạng hoạt
động phúc lợi – tiêu dùng sinh hoạt.
Mục tiêu cụ thê:
-
Hiểu thêm vê các dịch vụ phúc lợi tại địa phương.
Nắm được cách tạo thu nhập và quản lý chi tiêu của gia đình.
Biết được quan niệm vê nhà ở
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: dạng hoạt động phúc lợi – tiêu dùng sinh hoạt của người Tà Mun
Khách thể: lối sống của người dân tộc Tà Mun
Phạm vi nghiên cứu: nội dung trình bày chủ yếu của chủ đê là vấn đê thu nhập.
Bao gồm cách thức tạo thu nhập, mối quan hệ giữa thu nhập và việc làm, giữa
thu nhập và chi tiêu.
4.
Nội dung nghiên cứu trong dạng hoạt động “phúc lợi – tiêu dùng
sinh hoạt” này thông qua:
‾
Cách tiếp cận các dịch vụ phúc lợi và chính sách ưu đãi.
‾
Thu nhập, cơ cấu tiêu dùng của họ.
-
Nhà ở và đồ dùng của người Tà Mun
8
PHẦN 2: NỘI DUNG
1.
Tổng quan:
Các công trình nghiên cứu vê các nhóm dân tộc phía Nam có thể kể đến như:
“Cộng đồng các dân tộc Việt Nam” là Văn kiện Đại hội Đại biểu các dân tộc
thiêu số Việt Nam của Ban chỉ đạo đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt
Nam – NXB GDVN, “Xã hội học với dân tộc ít người ở các tỉnh phía Nam” của
TS Phan Lạc Tuyên (tạp chí Xã hội học số 4/1986), “Các dân tộc ít người ở VN(
các tỉnh phía Nam)” được viết bởi nhiêu tác giả (NXB KHXH). Các bài viết đêu
nêu ra những đặc điểm vê đời sống của các dân tộc thiểu số, những hoạt động
kinh tế cơ bản truyên thống. Tuy nhiên những cái đó đã bị mai một dần và hiện
nay ít còn sử dụng cũng như đã không tồn tại đúng với nguồn gốc của chính dân
tộc đó. Trong đời sống ngày càng phát triển theo xu hướng đổi mới và hiện đại,
các cá nhân trong cộng đồng các dân tộc thiểu số có những hoạt động hoàn toàn
khác với những giá trị lưu giữ trên sách. Họ có lối sống hòa nhập và cách tiếp
cận riêng.
Vê mảng kinh tế đời sống có các bài viết như: “Thực trạng điêu kiện sống của
các nhóm dân tộc thiểu số ở VN: phương pháp tiếp cận kinh tế học và xã hội –
nhân học” của Christian Culas ( thuộc CNRS là trung tâm Nghiên cứu Khoa học
Quốc gia Pháp), “Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người dân tộc thiểu số
ở ĐBSCL” của Nguyến Quốc Nghi và Bùi Văn Trịnh, “Vốn xã hội, mạng lưới
xã hội và những phí tổn” của Hoàng Bá Thịnh (tạp chí XHH số 1/2009), “Gia
đình Khơ me ở đồng bằng sông Cửu Long và lao động làm thuê” của Nguyễn
Hồng Quang (tạp chí XHH số 4/2000), “Gia đình dân tộc thiểu số và lao động
trẻ em (nghiên cứu trường hợp 3 nhóm dân tộc thiểu số Tày, H’mông,và Dao)”
của Nguyễn Hồng Quang (tạp chí XHH số 1/2003),. Lao động trong gia đình
của các dân tộc chủ yếu là làm nông và làm thuê. Khi gia đình không có đất
hoặc không có đủ đất để làm nông, họ chuyển sang làm thuê, từ các công việc
trên ruộng, rẫy quen thuộc đến các công việc mang tính chất công nghiệp (như
9
công nhân trong các công xưởng tư nhân, nhà máy nhỏ,…nhưng không nhiêu vì
trình độ học vấn không đáp ứng yêu cấu công việc). Một số dân tộc có khả năng
phát triển nghê thủ công của mình như dệt vải, se sợi, se chỉ,…ngoài ra còn có
vấn đê trẻ em bỏ học để phụ buôn bán cho gia đình.
Đối tượng nghiên cứu vẫn là những dân tộc khá quen thuộc như Chăm, Khơ me,
Hoa, Kinh, và một số dân tộc phía Bắc. Còn những nhóm dân tộc, nhóm người
nhỏ khác, họ không có truyên thống lâu đời như người Kinh, khiếu kinh doanh
giỏi của người Hoa, sự chăm chỉ của người Chăm, văn hóa đặc sắc của người
Khơ me,… Trong những nghiên cứu đó vẫn chưa nhắc đến, chưa thật sự tìm
hiểu sâu những nhóm mà trong nghiên cứu khoa học gọi là “nhóm những người
dễ tổn thương”.
(nguồn: trích tổng quan trong đề cương nghiên cứu thực tập của nhóm, đề tài:
“Lối sống của dân tộc Tà Mun tại ấp Tân Đông, xã Tân Thành, huyện Tân
Châu, tỉnh Tây Ninh”.)
2.
Cách tiếp cận
Theo G.E Batughiu, A.N. Malinki: lối sống là tổng hòa các dạng hoạt động sống
đối với một xã hội nhất định, được xem xét thống nhất với điêu kiện của các
dạng hoạt động sống.
Trong đê tài nghiên cứu của nhóm thực tập, cách tiếp cận lối sống được vận
dụng dùng để mô tả và phân tích vê điêu kiện sống và các quan niệm sống. Cách
tiếp cận lối sống là cách tiếp cận chủ yếu, dựa và các đặc điểm của văn hóa nông
nghiệp, cách làm việc và sinh hoạt truyên thống của nông hộ. Cách tiếp cận lối
sống giúp nhóm nghiên cứu dễ hình dung và mô tả đối tượng nghiên cứu, tiếp
cận nhanh chóng và quan sát tỉ mỉ hơn
Dưới đây là khung phân tích vê lối sống:
10
Trong phần này, em xin trình bày một trong năm dạng hoạt động sống là “phúc
lợi – tiêu dùng sinh hoạt”, sẽ vận dụng cách tiếp cận lối sống vào nghiên cứu,
được triển khai như sau:
11
12
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích thông tin: thứ cấp (các tư liệu sẵn có), sơ cấp từ
3.
-
các tư liệu sách, tạp chí khoa học, đê tài nghiên cứu, báo cáo địa phương,
…
Phương pháp này giúp định hướng ý tưởng nghiên cứu, so sánh tốt khi làm tổng
quan tình hình nghiên cứu. Thông qua nó, em có thể biết những thông tin cơ bản
vê đê tài nghiên cứu như địa điểm, đối tượng nghiên cứu, vài nét vê điêu kiện
địa lý và cả lịch sử, văn hóa…Ví dụ: nhờ báo chí mà nhóm biết được người Tà
Mun từ Sóc Năm của Bình Phước di chuyển xuống Tây Ninh, khi đi thực tế, dựa
vào đó nhóm đã đưa ra câu hỏi kiểm tra và kiểm định lại thông tin.
Hạn chế: có những thông tin sai lệch do cách đánh giá chủ quan của người viết,
làm nhóm nhận sai thông tin, ảnh hưởng đến việc chuẩn bị các công cụ. Ví dụ:
báo chí và tivi đưa tin vê Lễ hội cúng cơm của người Tà Mun và tháng 8 âm
lịch. Khi xuống thực địa, người dân hoàn toàn không biết Lễ hội cúng cơm là lễ
gì, tại đây chỉ có Lễ mừng tuổi (cũng là tết của người Tà Mun) diễn ra vào tháng
8.
-
Phương pháp định lượng: sẽ thu thập thông tin dựa vào khảo sát bảng
hỏi
Cách chọn mẫu (ngẫu nhiên): Tổng số người Tà Mun ở ấp Tân Đông, xã Tân
Châu, huyện Tân Thành, tỉnh Tây Ninh là 691 người với 162 hộ. Dựa vào công
thức quy mô mẫu: n = N/ 1+ N.e2, với sai số e = 0.05 sẽ có 115 bảng hỏi và thêm
5 bảng dự trù. Sau khi xuống thực địa đã có sự thay đổi, chỉ có khoảng hơn120
hộ là người dân tộc Tà Mun, ta có tổng số bảng hỏi đã thực hiện là 101 gồm 92
bảng và 9 bảng dự trù (cũng với sai số e = 0.05).
Phương pháp định lượng có nhiêu ưu điểm như: nhanh, thông tin thu thập nhiêu
và đa dạng, có thể so sánh theo thời gian, sử dụng dạng thống kê có độ chính
xác cao. Do đó phương pháp này có thể mô tả được vấn đê, giúp người nghiên
cứu có cái nhìn tổng thể vê địa bàn nghiên cứu. Nhược điểm: số liệu phong phú
13
nhưng số liệu cần thiết lại ít, việc tổng hợp số liệu khó khăn và phức tạp do khó
thống nhất thang đo, nhiêu số liệu mang tính chủ quan, thiếu độ sâu của vấn đê.
Công cụ này giúp ích khá nhiêu vê thu thập thông tin khi hỏi bảng hỏi. Khi thực
hiện công cụ này, em có thời gian tìm hiểu thêm vê các lĩnh vực sống khác
(không chỉ riêng chủ đê này), làm xong công cụ này em có thể hình dung vê địa
bàn nghiên cứu một cách khá rõ ràng dù chưa qua xử lý thông tin bằng phần
mêm. Công cụ này làm tăng thêm khả năng giao tiếp và phát hiện lỗi của bảng
hỏi, góp phần lặp đi lặp lại ý tưởng.
Tuy nhiên để có thể thực hiện tốt, giai đoạn chuẩn bị trước khi thực tập khá khó
khăn, phải trao đổi nhiêu lần cùng các thành viên trong nhóm. Dù đã lường
trước những câu hỏi không phù hợp, nhưng khi xuống thực địa vẫn phải thay đổi
và chỉnh sửa lại nhiêu lần. Khi hỏi bảng hỏi vẫn tiếp tục khai thác sâu hơn nếu
thông tin không logic. Ví dụ: trong tài sản không có xe máy nhưng có tiên xăng
trong chi tiêu.
-
Phương pháp định tính chủ yếu là phỏng vấn sâu. Đối tượng phỏng vấn
được chọn theo tiêu chí và chủ đê nghiên cứu.
Ưu điểm của phương pháp này là có thể thu được thông tin theo chiêu sâu, khai
phá được những vấn đê đặc biệt hoặc mới lạ, góp phần giải thích cho những
thông tin trước đó (từ bảng hỏi). Nhưng cũng có nhược điểm là không mang tính
phổ quát vấn đê như phương pháp định lượng. Ngoài ra, thông tin thu được và
xử lý mang tính chủ quan cao bởi người nghiên cứu, không đảm bảo tính đại
diện. Trong trường hợp phỏng vấn không khéo sẽ không thu được thông tin như
ý muốn, thậm chí gây mẫu thuẫn làm sai lệch thông tin.
Trên thực tế, phương pháp này còn bao gồm cả thảo luận nhóm tập trung và
công cụ PRA. Trong chuyến thực tập ngắn ngủi, em đã thực hiện được một cuộc
phỏng vấn nhằm lấy thông tin cho chuyên đê và rèn kỹ năng của bản thân.
Thông qua cuộc phỏng vấn, nhiêu vấn đê được sáng tỏ và giải thích rõ ràng theo
quan điểm của người được phỏng vấn. Đối tượng được chọn thỏa các tiêu chí
14
mà em đặt ra bao gồm: là chủ hộ, thay đổi nhiêu nghê, người tạo thu nhập, nắm
rõ chi tiêu và thông hiểu nhiêu chuyện tại địa bàn nghiên cứu.
Hạn chế: người dân tộc thường sử dụng tiếng bản địa và khả năng hiểu các câu
hỏi tiếng Việt rất chậm. Đây là hạn chế khi hỏi bảng hỏi và phỏng vấn sâu gặp
phải.
-
Phương pháp quan sát:
Là phương pháp dễ thực hiện, có thể lưu lại bằng hình ảnh, thu thập thông tin
một cách trực tiếp nên phản ánh đượchiện tượng cụ thể trong hoàn cảnh cụ thể.
Đảm bảo tính khách quan, đánh giá chính xác hơn, có thể quan sát được nhiêu
tiêu chí khác. Có thể quan sát nhiêu người, ghi nhận hành động theo thời gian.
Hạn chế của phương pháp này là chỉ thu thập thông tin mang tính bê nổi, tâm
trạng của người quan sát ảnh hưởng đến kết quả thu được, thiếu nhạy cảm (nếu
bị chai lì do quan sát thâm nhập), khó xây dựng thang đo và tổng hợp kết quả
nghiên cứu.
Trong chuyến đi thực tập, phương pháp quan sát giúp cho em có cơ hội kiểm
chứng các thông tin như nhà ở, chợ, quán ăn, các dịch vụ vui chơi, lao động sản
xuất,… khám phá thêm các thông tin khác như cách giao tiếp ứng xử giữa hàng
xóm với nhau, với già làng,…ví dụ: có thể kiểm chứng ngay câu trả lời của
người dân thông qua thái độ, sự biểu hiện bằng hành động.
4.
Các hoạt động tại địa bàn
Cả nhóm bắt đầu khởi hành từ sáng ngày 23/06/2015, trải qua một chặng đường
dài 130 km, cả nhóm đã có mặt tại UBND xã Tân Thành. Sau khi trao đổi với
cán bộ UBND vê chuyến thực tập, nhóm nghiên cứu đi ăn trưa và ghé nhà Già
làng. Già làng có dáng người trung bình, mập mạp, gương mặt tròn hiên hậu, tóc
bạc và đã vào độ tám mươi. Nhà của Già là một căn nhà nhỏ, vách gỗ như
những căn nhà dọc đường mà nhóm nhìn thấy, chỉ thi thoảng mới xen vào vài
căn nhà cấp bốn của người Kinh. Thầy Thành (giảng viên hướng dẫn thực tập
15
của nhóm) trò chuyện thân tình cùng Già làng, hỏi thăm vê các phong tục lễ hội
và đời sống bà con. Già làng tuy mới đi hái nấm vê, mồ hôi còn chưa lau kịp vẫn
nhiệt tình trả lời các câu hỏi của thầy. Vẫn những câu trả lời từ từ, cái mà cách
đây một tháng, nhóm đã từng hỏi qua. Buổi trò chuyện kéo dài đến giữa trưa,
thầy Thành đê nghị Già dẫn nhóm đến những nhà gần đó để hỏi bảng hỏi. Sau
đó, Già dẫn chúng tôi sang những nhà vừa có người đi làm vê, vì buổi sáng họ
phải đi làm ngoài ấp. Chúng tôi ngán ngẫm giữa cái nắng trưa hoang dại, lẽo đẽo
theo Già. Nhóm cũng biết tâm trạng Già chắc cũng mệt mỏi bởi tuổi già giữa cái
nắng trưa và cái bụng rỗng.
Thầy Thành và nhóm thực tập nói chuyện với Già làng Lâm Hoanh
Thời tiết là vấn đê thật đáng lưu ý, một cơn mưa lớn làm cả nhóm phải ngưng
công việc, trở vê nhà văn hóa, quét dọn chuẩn bị chỗ ngủ. Nhóm đi bộ vê nhà
văn hóa cách đó hai cây số. Cùng nhau ăn tối và họp buổi họp đầu tiên của
16
chuyến thực tập. Trải qua buổi chiêu tại cộng đồng, nhóm nhìn thấy cần sửa lại
bảng hỏi cho phù hợp với địa bàn hơn. Cụ thể là góp ý phần văn hóa tinh thần
của Hoàn cho hoàn chỉnh. Hoàn đã có những đóng góp tích cực cho bảng hỏi và
những đê nghị vê phỏng vấn sâu. Ngoài ra những phần khác khá ổn, nhóm tiếp
tục góp ý vê kỹ năng hỏi bảng hỏi và xem lại các tiêu chí phỏng vấn sâu. Bởi
nhóm gặp phải những trường hợp nghèo đặt biệt cần thảo luận để ứng phó. Buổi
họp kết thúc và mọi người gần như mệt mỏi vì buổi trưa không được nghỉ ngơi,
cộng thêm lúc trưa nắng gắt và lúc chiêu mưa lớn ập đến bất ngờ.
Buổi sáng ngày thứ hai tại địa bàn bắt đầu sớm dù cả đêm không ngủ yên được.
Nhóm với sự hướng dẫn của chú Phúc (người địa phương, cựu cán bộ Đoàn
thanh niên xã) vào cộng đồng. Quả nhiên mọi nhà đêu khóa cửa để đi làm, họ
vẫn chưa vê và nhóm phải cố gắng tìm những ai còn ở nhà để hỏi vì chỉ có ba
ngày để thu thập thông tin. Chú Phúc là người vui vẻ, nhiệt huyết, có dáng khá
cao, da ngâm, đôi mắt sáng và đôi tay rắn rỏi. Chú mời nhóm vê nhà ăn cơm
trưa với măng tươi. Sau khi có một cuộc họp nhỏ, nhóm nhận thấy không thể
tiếp tục công việc vì người dân vẫn chưa đi làm vê. Các thành viên bắt đầu thấm
mệt do thiếu ngủ và say nắng. Vậy là nhóm đồng ý vê nhà chú Phúc cùng nấu ăn
trưa.
17
Nhóm thực tập đang bẻ măng chuẩn bị cơm trưa nhà chú Lâm Phúc
Khoảng giữa trưa, thầy Thành gọi cho các nhóm trưởng hỏi thăm tiến độ công
việc và nhóm lại tiếp tục đến nhà Già làng nhờ làm người hướng dẫn. Buổi
chiêu có tiến triển tốt hơn, nhưng nhóm lại mắc phải vấn đê khác, người dân đã
đi làm vê nhưng sau khi ăn trưa thì họ cũng say rượu hết. Họ có thói quen sáng
đi làm rất sớm (2h – 4h sáng) và nhậu khi ăn trưa. Nhóm đã cố gắng hoàn thành
các bảng hỏi cho kịp tiến độ nhưng vẫn đảm bảo độ chính xác của thông tin.
Nhóm ra khỏi địa bàn khi trời nhá nhem tối. Sau đó nhóm họp lại cùng nhau sửa
bảng hỏi và trao đổi những vấn đê bắt gặp suốt buổi chiêu. Nhờ những kinh
nghiệm trước đó, nhóm giải quyết các vấn đê trong bảng hỏi nhanh chóng và kết
thúc.
Sáng ngày thứ ba, nhóm không xuống địa bàn mà làm việc với cán bộ xã do rút
kinh nghiệm hôm trước. Đến đàu giờ chiêu, nhóm di chuyển vào địa bàn tiếp tục
18
công việc với sự hướng dẫn của chú Phúc, đi vòng xung quanh khu vực hôm qua
đã làm. Cuối buổi, nhóm vẫn chưa đủ số bảng hỏi do địa điểm nhà xa hơn trong
khi nhóm vẫn đi bộ. Sau khi báo cáo với thầy Thành, thầy yêu cầu nhóm làm
cho xong số bảng hỏi và rời khỏi địa bàn trước khi trời tối. Nhóm trở lại trở vê
nhà văn hóa trễ hơn hai ngày trước, sau khi sinh hoạt cá nhân và ăn tối, nhóm
vẫn họp như mọi. Buổi họp chủ yếu bàn vê công việc còn lại bao gồm: nên tiếp
tục phỏng vấn sâu hay dừng lại theo ý thầy Thành lúc chiêu, thu dọn nhà văn
hóa và kiểm tra lại số bảng hỏi đã hoàn thành, thống kê lại văn phòng phẩm.
Khu hội chợ sát nhà văn hóa tối nay nghỉ sớm, bên cạnh đó nhóm thanh niên
hoạt động sớm hơn. Theo đê nghị của Trang, cả nhóm nên đi ngủ sớm, vì nhóm
ở nhà văn hóa ba ngày đã gây sự chú ý. Sau khi thống nhất lại lần cuối rồi đi
ngủ.
Ngày thứ tư, nhóm vẫn thức sớm như mọi ngày, rồi di chuyển vào cộng đồng.
Nhóm ghé thăm một cụ già gần đó, người mà Trang có dịp hỏi bảng và thương
cho hoàn cảnh của cụ. Cả nhóm đồng ý ghé thăm cụ để động viên tinh thần. Cụ
độ khoảng gần bảy mươi, người thấp bé, đôi mắt dường như không còn thấy gì
nữa. Gương mặt nhăn nheo trên đôi má bầu lam lũ. Cụ sống trong một cái chòi
không có vách, diện tích chưa tới 15m 2. Mái trên lọp lá dừa nước gần như nắng
mưa có thể xuyên qua hết. Bên trong kê được hai cái giường nhỏ, một cho cụ và
một cho đứa cháu. Tài sản duy nhất của cụ là cái tivi không bao giờ dám xem vì
sợ không đóng nổi tiên điện. Bếp là 3 viên đá bắt lại, bên trên treo 2 cái nồi cũ kĩ
mà có lẽ nó có tuổi lớn hơn cả chúng em. Nhóm lên tiếng chào cụ và đoán chắc
là cụ chỉ nghe thấy tiếng. Sau khi hỏi thăm cụ, hỏi vê cái tivi, cụ cố gắng cầm
cái điêu khiển mở lên cho nhóm xem. Cái ti vi chỉ có duy nhất 2 đài, màn hình
mờ nhạt chỉ thấy tiếng không thấy hình. Em đê nghị bắt đầu công việc phỏng
vấn vì trời sắp trưa, nhưng thực ra chỉ muốn nhóm đi khỏi để cụ có thể tắt tivi để
không tốn tiên điện. Sau đó, nhóm tranh thủ khi xe chưa xuống, chia ra hỏi thăm
thêm thông tin.. Em và Hoàng ghé thăm bác Lâm Phi. Bác là người đã đứng
tuổi, ốm yếu và mất một chân. Bác luôn chào đón nhóm bằng nụ cười như nắng
19
chiêu, bác thích uống trà một mình. Những câu chuyện bác kể rất thú vị, từ khi
còn ở trong rừng đến khi định cư một chỗ. Những kinh nghiệm trong sản xuất và
săn bắt thú rừng được bác học hỏi như thế nào? Những cây thuốc trong rừng có
thể chữa bệnh sốt rét, thấp khớp.
Những ngày còn lại, nhóm tập trung kiểm bảng hỏi và xử lý số liệu sau khi thu
được. Sau đó nhóm tập hợp lại và lên xe ra vê, kết thúc chuyến thực tập đầy thú
vị vào ngày 02/07/2015.
5.
Những kinh nghiệm rút ra từ thực tế
Sau chuyến thực tập, bản thân em đã rút ra được nhiêu bài học quý giá, những
trải nghiệm thực sự của một chuyến thực tập. Đầu tiên là để thực hiện một cuộc
nghiên cứu không thể thiếu đi tiên trạm. Những thông tin thu được khi đi tiên
trạm giúp công việc chuẩn bị công cụ chuẩn xác hơn, tính toán được phương
tiện di chuyển và vấn đê ăn ở. Sự quen biết trong chuyến đi tiên trạm giúp nhóm
không bỡ ngỡ với người dân, có thể linh hoạt trong công việc.
Thứ hai, lần đầu tiếp xúc và nghiên cứu người dân dân tộc, em và các bạn đã
học được cách giao tiếp, cách nghiên cứu mới. Đây là kinh nghiệm quý giá cho
những nghiên cứu sau này. Khi giao tiếp tốt, em có thể thu được những thông tin
thú vị và cần thiết mà không tốn nhiêu thời gian.
Thứ ba là kỹ năng, khi gặp càng nhiêu khó khăn và vượt qua được nó, em càng
tự tin vê kỹ năng của mình hơn, có dịp trui rèn và học hỏi thêm từ các bạn. Rèn
cho mình tư duy nhạy bén khi nhìn nhận sự việc, nhận ra những khuyết điểm
của mình. Khi hỏi bảng hỏi cần khéo léo thì thông tin thu được xác thực hơn.
Thứ tư là kinh nghiệm làm việc nhóm, em nghĩ rằng đó là kinh nghiệm quý giá
nhất. Làm việc nhóm mang lại hiệu quả cao, nhất là khi đồng đội ăn ý. Có
những công việc làm cá nhân nhưng có những công việc chỉ có đồng đội mới
làm tốt được. Làm việc nhóm giúp em hiểu rõ hơn vê các bạn, tin tưởng nhiêu
hơn vào khả năng của đồng đội mình.
20
Thứ tư là kiến thức, cái mà bất kì chuyến đi nào cũng được nhận thấy. Em đã có
dịp hiểu thêm vê lối sống, văn hóa và hiểu thêm vê con người. Học hỏi kiến thức
từ các bạn và mọi người trong lúc đọc tài liệu hay kinh nghiệm dân gian.
Sau những gì học hỏi được, em cũng nhận thấy khuyết điểm của mình là cần
nhìn sự việc ở nhiêu góc độ, đặt mình vào nhiêu vị trí để có cái nhìn đa dạng,
hiểu rõ sự việc hơn. Ngoài ra việc tăng cường thể lực cũng rất quan trọng khi
phải thích nghi với điêu kiện khí hậu thay đổi liên tục và phải đi bộ thường
xuyên. Những kiến thức vê dân gian có được góp phần rút ngắn khoảng cách với
người dân khi giao tiếp.
21
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Tóm lại, phương pháp nghiên cứu vẫn có những ưu điểm và nhược điểm khác
nhau. Phương pháp định lượng cho cái nhìn tổng thể theo chiêu rộng, phương
pháp định tính cho cái nhìn chiêu sâu, những khám phá mới. Phương pháp phân
tích tài liệu sẵn có cho em những hiểu biết cơ bản vê đối tượng nghiên cứu,
phương pháp quan sát giúp kiểm tra các thông tin. Các phương pháp hỗ trợ nhau
nếu biết cách kết hợp chúng lại. Tuy có nhiêu khó khăn khi vận dụng vào điêu
kiện thực tế, nhưng em và các bạn đã cố gắng vượt qua để đạt được kết quả tốt
nhất có thể trong chuyến thực tập.
Những hiểu biết vê người Tà Mun thu được so với chuyến đi tiên trạm trước đó
có nhiêu thay đổi vê chiêu sâu, vê cơ bản vẫn không thay đổi nhiêu. Những
thông tin vê văn hóa, lễ hội không có gì khác biệt, chỉ khác ở cách lý giải của
từng người và quan niệm vê ý nghĩa của sự vật, sự việc cũng khác nhau.
Vận dụng cách tiếp cận lối sống vào nghiên cứu giúp nhóm thuận lợi trong việc
thu thập thông tin và khai phá nhiêu vấn đê hấp dẫn khác nhau. Đây là một cách
tiếp cận khoa học và hợp lý khi nghiên cứu. Các công cụ cần được chuẩn bị khi
đã đi tiên trạm, và linh hoạt khi đi thực tế. Bên cạnh đó, nâng cao kỹ năng cá
nhân và kỹ năng làm việc nhóm là yếu tố quan trọng dẫn tới thành công, trong
một nhóm nghiên cứu.
Qua chuyến thực tập em nhận thấy làm nghiên cứu khoa học thật không dễ
dàng, gặp nhiêu khó khăn hơn tưởng tượng. Từ khâu lên ý tưởng, chọn địa bàn
nghiên cứu, chuẩn bị bộ công cụ, đi tiên trạm, đi thực tập, viết báo cáo, đêu đầy
những khó khăn. Nhóm đã tranh luận nhiêu lần, thậm chí cãi nhau trong các
buổi họp nhóm. Việc chia nhóm để làm công cụ gây ra những đứt gãy mạch
logic của bảng hỏi, dù sau đó đã sửa chữa lại. Nếu làm việc nhóm không tốt, sản
phẩm tạo thành cũng không tốt.
22
Chuyến thực tập lần này đã gây nhiêu thăng trầm cho nhóm, cộng thêm áp lực
vê thời gian hoàn thành khiến các thành viên mệt mỏi, lo lắng. Các dự định ban
đầu không được thực hiện hết, bao gồm các ý tưởng phỏng vấn sâu trở nên gấp
rút vào một buổi chiêu và không đủ số lượng như mong muốn. Những ý tưởng
P
T
C
N
D
vê công cụ PRA phải
ngưng lại, và những kế hoạch thời gian bị thay đổi. Cuối
ịc
g
ơ
ác
h
iệ
ú
h
u
a
n
cùng, nhóm chỉ hoàn
thành công cụ bảng hỏi, cố gắng thực hiện vài cuộc phỏng
c
ồ
vấn để tích lũy kinh nghiệm, trong khi mong muốn của các thành viên nhiêu hơn
n
thế. Bao gồm: tự hoàn thành số lượng bảng hỏi, tự thực hiện các ý tưởng riêng
vào phỏng vấn sâu, kinh nghiệm lần đầu tiên làm công cụ PRA, lần đầu hướng
dẫn thảo luận nhóm,…Có thời gian tìm hiểu và kiểm chứng thông tin theo từng
lĩnh vực của từng người.
Nhìn chung, nhóm đã tự mình hoàn thành mọi thứ và làm tốt công cụ, hoàn
thành chuyến thực tập nhiêu kỷ niệm. Các thành viên đã trải qua nhiêu chuỗi
hờn giận, căng thẳng để có thể đoàn kết lại và hài lòng với những gì mình cố
gắng.
23