Tìm hiểu về tuổi dậy thì
Nhóm 8
Các thành viên trong nhóm:
1.
Dương Thùy Chinh
2. Trần Thị Kim Dung
3. Nguyễn Thu Hà
4. Phùng Thanh Thủy
5. Nguyễn Thị Thêm
6. Nguyễn Hải Yến
7. Ngô Thị Yến
Các nội dung chính:
1. Giới hạn độ tuổi dậy thì
2. Vấn đề thay đổi sinh lý , thể chất và tâm lý ở tuổi dậy
thì. Tại sao có sự khác biệt giữa nam và nữ ?
3. Thách thức và những vấn đề gặp phải ở tuổi dậy thì
4. Mâu thuẫn giữa học sinh với thầy cô
1. Giới hạn độ tuổi dậy thì:
“Nữ thập tam, nam thập lục” là một câu nói thời xưa muốn ám chỉ về
độ tuổi dậy thì ở nam và nữ. Một giai đoạn khiến trẻ thay đổi cả về
tâm lí, sinh lí ngoại hình, biến những cô bé thành những thiếu nữ xinh
đẹp, những cậu trai nhỏ trưởng thành hơn, chín chắn hơn..
Tuổi dậy thì hay còn gọi là tuổi thiếu niên giới hạn từ 11,12 tuổi và
kết thúc 14,15 tuổi. Ở Việt Nam lứa tuổi này gần trùng với thời kỳ trẻ
học ở THCS. Vì vậy, còn được gọi là tuổi học sinh THCS. Tuy nhiên,
trong thực tế , sự dậy thì có thể không hoàn toàn trùng với việc học
sinh vào lớp 6, mà có thể sớm hoặc muộn hơn.
Tuổi dậy thì ở mỗi người trai và gái là khác nhau, độ tuổi dậy thì
thường là:
• Bé trai độ tuổi dậy thì bình thường rơi vào độ tuổi 12 – 17 tuổi.
• Bé gái có độ tuổi dậy thì bình thường rơi vào độ tuổi 11 – 15 tuổi.
2. Sự thay đổi sinh lý, thể chất và tâm lý ở
tuổi dậy thì
a) Sự thay đổi sinh lý, thể chất:
-) Sự tăng cường hoạt động của nội tiết đã tạo ra nhiều thay đổi
trong cơ thể thiếu niên, đặc biệt là “ sự nhảy vọt về chiều cao”.
Chiều cao của các em tăng rất nhanh . Trung bình một năm, các
em gái cao thêm 5-6cm, em trai cao thêm 7-8cm.
-) Hệ xương diễn ra quá trình cốt hóa về hình thái. Các em gái
diễn ra quá trình hoàn thiện các mảnh xương chậu và kết thúc
vào tuổi 20,21.Dưới 14 tuổi, các em vẫn còn sụn giữa các đốt
sống, do đó cột sống dễ bị cong vẹo..
-) Khuôn mặt thiếu niên cũng thay đổi do sự phát triển nhanh
chóng phần phía trước của hộp sọ.
- Sự tăng khối lượng các bắp thịt và lực của cơ bắp diễn ra mạnh nhất vào cuối thời kỳ dậy thì. Cuối
tuổi thiếu niên , cơ thể của các em đã rất khỏe mạnh. Tuy nhiên thiếu niên thường chóng mệt và
không làm việc lâu bền như người lớn.
- Sự phát triển cơ thể diễn ra không cân đối. Hệ cơ phát triển chậm hơn hệ xương, làm mất đi sự nhịp
nhàng của các cử động làm cho các em lúng túng, vụng về.
- Hệ tim mạch phát triển không cân đối. Thể tích tim tăng nhanh , tim to hơn, hoạt động mạnh hơn,
trong khi đường kính của các mạch máu phát triển chậm hơn dẫn đến sự rối loạn tạm thời của tuần
hoàn máu. Do đó, thiếu niên thường bị mệt mỏi, chóng mặt, huyết áp tăng khi làm việc quá sức
- Não có sự phát triển mới giúp các chức năng trí tuệ phát triển mạnh mẽ
- Có sự thay đổi ngôn ngữ, các em nói chậm, ngập ngừng.. Em nam có hiện tượng ‘vỡ giọng”
- Dậy thì là thời kỳ hệ thống “vùng dưới đồi”, tuyến yên và buồng
trứng bắt đầu hoạt động phối hợp.
- Ở nữ :lúc đầu chỉ xuất hiện một số ảnh hưởng do hormone, tạo nên
một sự biến đổi sinh lý đầu tiên trên cơ thể .
+ Buồng trứng tiết ra các hormone estrogen, tạo nên những thay đổi
hình dạng âm đạo, âm hộ, cổ tử cung và vú, các em bắt đầu có dáng vẻ
của người lớn, xuất hiện những đường cong cơ thể.
+ Núm vú phát triển, nở to hơn, tròn hơn. khung chậu phình ra.
+ Về bộ phận sinh dục, môi lớn, âm hộ nở ra, môi nhỏ sẫm màu. Âm
vật to lên và âm đạo trở nên ẩm ướt. Các cơ quan sinh dục bên trong
phát triển, xuất hiện kinh nguyệt.
- Ở nam:
+ Ngực, vai phát triển to ra nhanh chóng.
+ Phát triển chiều cao nhanh nhất, có thể tăng 8 – 13cm/năm.
+ Lông mu và lông nách bắt đầu xuất hiện, lông mu thô, sẫm màu, cong
lên, mọc cao lên vùng bụng, lông nách cũng thô và sẫm màu. Có hiện tượng
mọc râu.
+ Bắt đầu có mùi cơ thể và cơ thể tiết nhiều dầu nhờn gây mụn trứng cá.
+ Giọng nói trở nên trầm hơn.
+ Kích thước dương vật tăng lên, bắt đầu phát triển, chức năng sinh sản bắt
đầu hoạt động.
Tại sao có sự khác biệt giữa nam và nữ ?
- Nhiệm vụ tạo nên những khác biệt độc đáo nhất trên cơ thể phụ nữ và nam giới
được trao vào tay các hormone giới tính.
+ Hormone giới tính quan trọng nhất ở phụ nữ do buồng trứng tiết ra là oestrogen và
progesterone. Ngoài ra, còn có một phần nhỏ testosterone
o Oestrogen là hormone độc tôn trong việc thúc đẩy sự phát triển của các đặc điểm giới
tính nữ. oestrogen cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển mạnh và tập
trung các mô mỡ ở những nơi rất đặc trưng của nữ giới, tạo những đường cong mềm
mại ở hông, mông và đùi. Chúng còn kiểm soát việc phát triển của bề mặt tử cung
trong giai đoạn đầu của chu kỳ kinh nguyệt, tăng khả năng đàn hồi và bôi trơn ở nơi
này. Sự phát triển của tuyến vú lúc dậy thì, mang thai cũng chịu ảnh hưởng của
oestrogen. Khi hàm lượng oestrogen giảm đột ngột do tuổi tác, phẫu thuật cắt bỏ
buồng trứng sẽ gây nên loãng xương, chóng mặt, đau nửa đầu, bốc hỏa, đổ mồ hôi
đêm, mất thăng bằng cảm xúc, kinh nguyệt không đều
o Progesterone, kích thích rụng trứng, tác động các tuyến tạo sữa ở vú.
Testosterone và androgen là các hormone sản sinh chủ yếu trong cơ thể
nam giới. Chúng giúp cho sự phát triển và hoạt động của tinh hoàn, các đặc
tính sinh dục thứ phát đặc trưng nam giới như cơ xương, sự hưng phấn
tình dục và tác động đến quá trình sinh ti
Testosteron là hormone duy nhất có khả năng quyết định sự biệt hóa của
cơ quan sinh dục nam. Giai đoạn dậy thì, testosterone giúp phát triển các
đặc tính sinh dục thứ phát và kiểu hình nam giới như kích thước tinh hoàn
tăng, dương vật phát triển, mọc râu, giọng nói trầm, cơ bắp phát triển
Nhiều người thường nghĩ testosterone là hormone đặc trưng giới tính
nam, ở phụ nữ oestrogen và progesterone nắm giữ vai trò này. Điều thú vị
là thực tế chẳng giới nào độc chiếm một loại hormone giới tính cả. Cơ thể
tất cả chúng ta đều sản sinh oestrogen và androgen (đặc biệt là
testosterone) bất kể giới tính. Chính liều lượng của chúng mới tạo nên sự
khác biệt.
6 điểm khác nhau thú vị giữa nam và nữ
1. Ngực
- Phụ nữ có ngực, còn đàn ông thì không phát triển bộ phận
này. Tại sao vậy? Các nhà khoa học lý giải rằng, phụ nữ có
ngực để thực hiện thiên chức của mình là nuôi con, đồng thời
thu hút phái mạnh và chứng tỏ về tiềm năng sinh sản của
mình.
- Đàn ông không cần phải chứng tỏ rằng bản thân có thể nuôi
con bằng sữa nên họ không cần có ngực phát triển. Tuy nhiên,
cả hai giới đều có núm vú, đó là do các gene quy định núm vú
được phát triển ngay trong tử cung, thậm chí trước cả gene
quy định giới tính của phôi thai.
2. Giọng nói
- Đàn ông có giọng nói trầm, trong khi phụ nữ có giọng nói
thanh thoát hơn. Cả hai giới đều có các sụn bao quanh
thanh quản, nhưng thanh quản của đàn ông lớn hơn, các
sụn nhô ra tạo nên “hạt táo của Adam” - yết hầu, đè lên
dây thanh tạo giọng nói trầm hơn.
- Cao độ của giọng nói có mối quan hệ tương quan với
lượng hormone testosterone cơ thể tiết ra, và lượng
hormone này có liên quan đến di truyền và khả năng sinh
sản. Có một điều khá hiển nhiên khi nhiều nghiên cứu cho
thấy, phụ nữ thường bị hấp dẫn bởi những chàng trai có
giọng nói trầm ấm.
3. Gương mặt
- Các nội tiết tố có thể quy định đường nét trên gương
mặt, bên cạnh khả năng di truyền. Ở nam giới, lượng
testosterone dồi dào khiến trán cao hơn cùng lông
mày đậm, cằm, gò má bạnh và góc cạnh hơn.
- Ngược lại với nữ giới, càng nhiều estrogen, gương
mặt của phái yếu có xu hướng thanh thoát, môi mọng
và cặp lông mày nhỏ. Bên cạnh đó, lượng nội tiết tố
dồi dào còn được thể hiện qua cơ bắp và tính cách
hung hăng của phái mạnh.
4. Lông, tóc
- Từ khi dậy thì, nam giới có xu hướng mọc nhiều lông tóc trên cơ thể, đặc biệt là
râu, do hormone androgen dồi dào hơn nữ giới. Tuy nhiên, tại sao nam giới lại
cần có râu?
Theo các nhà khoa học nghiên cứu về sự tiến hóa, sở dĩ râu trở nên phổ biến vì
trong quá khứ, phụ nữ thường cảm thấy đàn ông có râu trông rất quyến rũ. Họ
thường gặp gỡ những anh chàng có râu vì cho rằng những người đó có lượng
testosterone dồi dào hơn, đảm bảo cho việc sinh con khỏe mạnh. Đồng thời, râu
cũng cho thấy được sự trưởng thành, tương tự như ngực của phụ nữ.
Tuy nhiên, có một điều khá thú vị là lượng testosterone khiến lông tóc mọc trên
cơ thể đàn ông càng nhiều thì nguy cơ khiến họ hói đầu khi về già là khá lớn.
5. Sắc tố
- Xu hướng cho thấy, đàn ông được coi là đẹp trai
thường có màu da sậm khỏe khoắn, còn phụ nữ đẹp
thì phải “tóc vàng da trắng”. Những sở thích về màu
da có thể phản ảnh thực tế rằng, vào tuổi dậy thì, xu
hướng con gái có màu da, màu tóc và mắt sáng hơn
con trai. Theo đó, quan niệm về sự nam tính và nữ
tính cũng phụ thuộc nhiều vào sắc tố da.
- Các nhà khoa học tin rằng, việc tiếp xúc với nhiều
estrogen trước khi ra đời, bằng cách nào đó đã khiến
sắc tố da, màu tóc và mắt sáng hơn.
6. Cơ bắp - đường cong
- Đàn ông có nhiều cơ bắp hơn, ngược lại, phụ nữ có những
đường cong quyến rũ. Lý do là ở quá trình trao đổi chất, nam
giới đốt cháy calo nhanh hơn, trong khi đó, nữ giới có xu
hướng chuyển đổi thức ăn thành chất béo, tích mỡ ở ngực,
hông, mông và đùi, tạo nên những đường cong mềm mại
cho cơ thể.
- Tạo hóa đã tạo ra cơ thể thích ứng với vai trò trong xã hội.
Phụ nữ có vai trò sinh sản, chăm sóc con cái nên cần hông rộng
và lượng mỡ thừa trong quá trình dưỡng thai. Đàn ông không
cần sinh sản nên có cơ thể rắn chắc và khỏe mạnh, nhằm phục
vụ quá trình kiếm ăn, cạnh tranh với những cá thể khác.
b) Sự thay đổi về tâm lý:
- Dành sự quan tâm đặc biệt hơn đến diện mạo, vóc dáng, ưu nhược
điểm trên cơ thể. Lúc này tính cách trẻ phát triển theo xu hướng
mưu cầu sự độc lập, tự khẳng định bản thân, muốn tách khỏi kiểm
soát của gia đình, mở rộng hơn nữa các mối quan hệ xã hội, đồng
thờ muốn tự quyết định các vấn đề liên quan đến bản thân mình.
- Đây là giai đoạn phát triển mạnh về tư duy trừu tượng, kỹ năng
phân tích và nhận thức cao hơn về hành vi của mình. Do suy nghĩ
còn non nớt nên các em không ý thức được những hậu quả từ
hành vi của mình
- Một vấn đề nổi trội ở lứa tuổi này là các em bắt đầu chú ý đặc biệt
đến bạn khác giới. Những rung động đầu đời dễ khiến trẻ nhầm
lẫn giữa tình bạn và tình yêu.
* Tóm tắt tư tưởng của Stanley Hall trong 12 điểm tương phản tâm lí của tuổi dậy thì:
1. Tuổi dậy thì hoạt động hăng, nhưng cũng dễ nhược: Lúc này hoạt động hăng hái,
không đếm xỉa đến sức khỏe, dễ mắc chứng lao lực. Lúc khác lại lười biếng, ngại làm việc,
hoặc không thể làm việc được như trước, vì đã gắng sức quá trong khi bồng bột. Vả lại
những biến động trong thân xác cũng làm kiệt sức, làm mỏi mệt thần kinh, gây trạng thái
nhọc nhằn, chán ngán hoạt động.
2. Tuổi dậy thì dễ vui mà cũng dễ buồn: Có khi chỉ vì một căn cớ không đâu, đang vui
như hoa nở, bỗng lại ủ dột như chiều thu. Ngay đến chính nạn nhân cũng không biết lý do
tại đâu
3. Tuổi dậy thì tự tôn, nhưng cũng tự ti: ưa khoe khoang, tự kiêu, dễ xúc động về những
lời khen chê, vì vinh dự, nhưng cũng dễ chán nản khi gặp một trở lực nhỏ. Để vơi sầu,
chúng ghi đầy những trang nhật ký hoặc tìm an ủi và nghị lực nơi Thượng Đế.
4. Tuổi dậy thì quảng đại, nhưng cũng ích kỷ. Trong lúc hào hứng có thể rất hy sinh, ghét
ích kỷ, nhưng nhiều khi không ngần ngại chà đạp quyền lợi của người khác
5. Tuổi dậy thì vừa muốn làm thiên thần vừa muốn làm Satan. Một đàng muốn sống hợp luân lý, phong tục,
một đàng có khuynh hướng thỏa mãn dục vọng
6. Tuổi dậy thì lúc ưa sống yên tĩnh một mình, lúc lại rạo rực muốn đi theo nhóm
7. Tuổi dậy thì lúc cao thượng, lúc đê hèn...
8. Tuổi dậy thì lúc thắc mắc mọi vấn đề, lúc thờ ơ tất cả: Chúng muốn tìm hiểu tất cả, nhưng rồi lại thờ ơ với
mọi cái, ngay cả vấn đề chúng chú trọng nhất như danh vọng học hành.
9. Tuổi dậy thì nhận lí rồi lại chê: khi đọc sách, lúc nhận những tư tưởng của tác giả, lúc lại khinh chê những
kiến thức ấy, sẵn có thiên kiến và tư tưởng cố chấp, chúng bịt tai trước lời bàn cãi của tha nhân.
10. Tuổi dậy thì là tuổi cách mạng: muốn đả phá và đổi mới trật tự sẵn có, nhưng rồi lại bảo thủ yêu cổ tục: Vì
phán đoán và trí óc còn non nớt.
11. Tuổi dậy thì vừa tân vừa cổ: cho thiếu niên nhiều kiến thức mới, nhưng cũng thích duy trì cơ cấu hiện tại.
12. Tuổi dậy thì vừa khôn vừa khờ: nhiều khi tỏ ra sáng suốt, thông hiểu và có óc xác thực, trái lại có lúc vớ
vẩn hành động như người thiếu lương tri.
3. Thách thức và những vấn đề gặp phải ở
tuổi dậy thì
1. Rối loạn tâm lý
- Tuổi dậy thì là lứa tuổi có rất nhiều thay đổi về tâm sinh lý. Vì thế, trẻ
thường dễ bị tác động bởi chuyện học hành, bài vở, nhất là khi bước vào
mùa thi. Không những thế, một số trẻ còn thường xuyên phải thức khuya
hay phải nhờ đến sự trợ giúp của café để tỉnh táo hơn. Điều này càng
khiến cho sức khỏe của trẻ bị suy giảm, tinh thần mệt mỏi, lo âu, rối loạn
tâm lý…
- Bên cạnh đó, việc ăn uống và sinh hoạt thất thường ở lứa tuổi này cũng
dễ khiến trẻ dễ mắc bệnh hơn. Các biểu hiện dễ thấy nhất của căn bệnh rối
loạn tâm lý là biếng ăn, mất ngủ, mệt mỏi, dễ cáu gắt, lo âu, học tập giảm
sút… Nặng hơn, một số trường hợp còn có cả các biểu hiện như nói năng
lung tung, khóc cười vô cớ, dễ hoảng sợ, ngại tiếp xúc với người khác…,
thậm chí còn có ý định tự tử.
2. Rối loạn cảm xúc
- Rối loạn cảm xúc là một căn bệnh tâm lý xảy ra khi có
tình trạng rối loạn tại não bộ, gây nên những bất ổn về
tinh thần như chuyển từ cảm xúc hưng phấn sang cảm
xúc ức chế một cách nhanh chóng hoặc ngược lại.
Nguyên nhân của căn bệnh này thường là do những biến
đổi ở tuổi dậy thì sẽ khiến trẻ nhạy cảm hơn, dễ bị tác
động bởi các áp lực trong học tập, làm việc…
- Vì thế, khi cha mẹ thấy trẻ có các biểu hiện của rối loạn
cảm xúc như chán ăn, mất ngủ, gầy sút, hoạt động chậm
chạp, mất tập trung, hay quên… thì cần tham khảo ý kiến
các chuyên gia tâm lý để điều chỉnh kịp thời và tránh tình
trạng bệnh nghiêm trọng hơn.
3. Rối loạn hành vi
- Ở tuổi dậy thì, những định hình về xã hội xung quanh chưa thể toàn
diện như người trưởng thành. Trẻ có thể bị tác động chỉ từ sách
báo, phim ảnh bạo lực, các văn hóa phẩm đồi trụy và cả từ bạn bè xấu.
Đây chính là nguyên nhân dẫn đến rối loạn hành vi và gây nên những
hậu quả nghiêm trọng như gây thương tích cho người khác, chống
người thi hành công vụ, trộm cắp, đua xe mạo hiểm…
- Khi mắc phải căn bệnh này, trẻ thường có hành vi xâm phạm sớm và
rất khó thích ứng với xã hội. Một số trường hợp có thể thích ứng với các
hoạt động xã hội nhưng vẫn có hành vi chống đối, phạm pháp. Việc điều
trị căn bệnh này cũng rất khó khăn, đòi hỏi phải có sự phối hợp khắt
khe từ bản thân người bệnh và những người xung quanh.
4. Nhu cầu tình dục
- Ở độ tuổi này, trẻ đã có nhu cầu tình dục. Đặc biệt, trẻ
luôn thích khám phá tò mò về cơ quan sinh dục và các
hành vi liên quan đến tính dục. Với bản tính tò mò, ham
khám phá cùng với sự nhầm tưởng tình yêu và chưa ý
thức được hậu quả, dễ khiến các em hành động theo
bản năng dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Nếu không
được quan tâm, với bản tính tò mò, trẻ sẽ tự tìm hiểu
trên mạng và bạn bè. Lúc này sẽ rất nguy hiểm nếu trẻ
sa vào những trang web có nội dung xấu, đồi trụy, hay
gặp bạn bè xấu dễ dẫn đến những nhận thức lệch lạc về
tình yêu và tình dục.
5. Trầm cảm
- Trầm cảm là căn bệnh rối loạn tâm thần thường gặp với nhiều
triệu chứng như hay buồn bã, không quan tâm tới mọi thứ xảy ra
xung quanh và cả với bản thân, dễ mệt mỏi, mất hi vọng vào
tương lai… Căn bệnh này thường rất dễ mắc phải ở lứa tuổi dậy
thì do độ tuổi nhạy cảm này dễ chịu áp lực từ xung quanh, từ học
hành, bố mẹ, thầy cô, bạn bè hay cả từ các chất kích thích…
- Khi bị trầm cảm, trẻ thường tự cô lập mình với thế giới bên
ngoài. Thậm chí, rất nhiều trẻ chỉ quan tâm tới thế giới “ảo” và
sống trong thế giới này. Điều này khiến cho cuộc sống của trẻ trở
nên nhàm chán, u ám, thiếu niềm tin