Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Hệ thống tòa án pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.77 KB, 49 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG I. CƠ CẤU TỔ CHỨC HỆ THỐNG TÒA ÁN PHÁP

1


CHƯƠNG 1: CƠ CẤU TỔ CHỨC HỆ THỐNG TÒA ÁN PHÁP

I. TOÀ ÁN CÓ THẨM QUYỀN CHUNG
1. Toà án cấp sơ thẩm

1.1 Toà sơ thẩm dân sự
1.1.1 Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp (the tribunal d'instance - TI)
Là toà án thấp nhất trong nhánh toà thẩm quyền chung
a. Thẩm quyền

Các vụ việc dân sự có giá trị tranh chấp nhỏ và các vụ án hình sự ít
nghiêm trọng
b. Hội đồng xét xử

Gồm một thẩm phán do vụ việc mang tính chất đơn giản, giá trị tranh
chấp nhỏ như những tranh chấp có giá trị dưới 10.000 euro1.
1 Xem tại: French legal system, www.justice.gouv.fr, truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2016.

2


c. Kháng cáo

Các phán quyết của TI sẽ được kháng cáo lên Toà án sơ thẩm thẩm
quyền rộng (TGI) hoặc có thể xem xét bởi Toà Phá án (Cour de


Cassation) theo thủ tục giám đốc thẩm.
1.1.2 Toà sơ thẩm thẩm quyền rộng (The Tribunal de Grande Instance TGI)
a. Thẩm quyền
Tất cả các loại vụ việc hình sự và dân sự "trừ những thẩm quyền đã
được trao một cách rõ ràng cho một loại toà án khác trên cơ sở đặc điểm
tranh chấp hoặc số tiền hay mức độ nghiêm trọng của tội phạm có liên
quan"2.
b. Hội đồng xét xử
Gồm ba thẩm phán. Một số vụ việc có thể chỉ được xét xử bởi một thẩm
phán.
c. Kháng cáo
Các phán quyết được tuyên bởi TGI sẽ được kháng cáo lên Toà án Phúc
thẩm (Cour d'Appel). Nếu vụ việc bị kháng cáo chỉ liên quan tới khía
cạnh pháp luật thì toà án có thẩm quyền xem xét lại là Toà Phá án.
1.1.3 Toà thương mại sơ thẩm (Tribunal de commerce)
a. Thẩm quyền xét xử
Các tranh chấp thương mại và phá sản trong phạm vi lãnh thổ thuộc
thẩm quyền của mình. Hiện nay, Pháp có khoảng 230 toà thương mại 3.

2 Tô Văn Hoà, Tính độc lập của Toà án, tr.246.

3 Michael Bogdan, Luật so sánh, tr.137.

3


Toà thương mại sơ thẩm được thành lập từ cuối thời trung cổ và cũng là
toà án lâu đời nhất trong hệ thống toà án tại Pháp4,
b. Hội đồng xét xử
Gồm ba thẩm phán. Các thẩm phán này là thẩm phán không chuyên

được lựa chọn trong số các thương gia với nhiệm kỳ từ hai đến bốn
năm. Các thẩm phán được lựa chợn bởi hội đồng gồm các thẩm phán
đương nhiệm, các cựu thẩm phán và những đại biểu thương nhân trong
khu vực đó (délégués consulaires)5.
c. Kháng cáo
Các phán quyết được tuyên bởi toà án này có thể được kháng cáo lên
Toà sơ thẩm thẩm quyền rộng có chung thẩm quyền về mặt lãnh thổ với
Toà thương mại.
1.1.4 Toà lao động (Conseil de Prud'hommes)
a. Thẩm quyền xét xử

Tất cả tranh chấp liên quan đến hợp đồng lao động trừ vấn đề bảo hiểm
xã hội và vấn đề thoả ước lao động tập thể (do Toà sơ thẩm thẩm quyền
rộng xét xử).

Xem tại: truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2016.
4

5 Michael Bogdan, Luật so sánh, tr.137.

4


Trong toà lao động còn chia làm 5 đơn vị nhỏ, phụ trách những lĩnh vực
lao động chuyên môn khác nhau, đó là: quản lý, sản xuất, phân phối,
dịch vụ thương mại và các lĩnh vực khác. Toà lao động được thành lập
vào cuối thế kỷ XIX và hiện nay Pháp có 210 toà lao động6.
Nếu người lao động là cán bộ, công chức, viên chức thì sẽ do Toà hành
chính giải quyết.
b. Hội đồng xét xử


Gồm bốn thẩm phán đại diện đều cho cả hai phía trong vụ án.
c. Kháng cáo
Các phán quyết được tuyên bởi toà án này có thể được kháng cáo lên
Toà phúc thẩm có thẩm quyền.
1.1.5 Toà an sinh xã hội (Tribunal des Affaires de la Sécurité Sociale)
a. Thẩm quyền xét xử
Các tranh chấp liên quan đến vấn đề bảo hiểm xã hội giữa quỹ bảo hiểm
xã hội và người tham gia. Hiện nay Pháp có 115 Toà an sinh xã hội7.
b. Hội đồng xét xử
Gồm ba thành viên: trong đó có hai thẩm phán không chuyên (một đại
diện cho người lao động và một đại diện cho người sử dụng lao động),
thành viên còn lại là một thẩm phán chuyên nghiệp.
c. Kháng cáo

Các phán quyết được tuyên bởi toà án này có thể được kháng cáo lên
Toà phúc thẩm.
6 Xem tại: />truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2016.

7 Xem tại: />truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2016.

5


1.1.6 Toà nông nghiệp (Tribunaux Partitaires dé Baux Ruraux)
a. Thẩm quyền

Các tranh chấp giữa người chủ và người thuê đất nông nghiệp 8. Hiện
nay có khoảng 40 Toà nông nghiệp tại Pháp9.
b. Hội đồng xét xử

Gồm ba thẩm phán không chuyên đến từ phía người đi thuê và người
cho thuê với tỉ lệ ngang nhau.
1.2 Toà sơ thẩm hình sự
1.2.1 Toà vi cảnh (Tribunal de police)
Thẩm phán chính là các thẩm phán
Xét xử các tội vi cảnh, có thể áp dụng hình phạt tù từ 1 ngày đến 2 tháng, phạt
tiền từ 1.200 euro trở xuống10.

8 Tô Văn Hoà, Tính độc lập của Toà án, tr.253.

9 Michael Bogdan, Luật so sánh, tr.137.

10 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật so sánh, NXB CAND 2007, tr.162.

6


1.2.2 Toà tiểu hình (Tribunal de correctionnel)
Xét xử đối với nhóm thường tội và có thể áp dụng hình phạt tù trên 2 tháng
hoặc phạt tiền trên 12.000 euro11.
1.2.3 Toà đại hình (Cour d'Assises)
Mỗi vùng có một Toà đại hình, Paris cũng có một.
a. Thẩm quyền

Xét xử các tội hình sự nghiêm trọng như giết người, hiếp dâm, cướp có
vũ trang, phản quốc, gián điệp...12 pháp luật pháp coi đây là những trọng
tội (đại hình), nên cần có cơ chế xét xử riêng biệt.
b. Hội đồng xét xử
Gồm 12 thành viên gồm: 1 thẩm phán chủ toạ, 2 thẩm phán thành viên
và bồi thẩm đoàn 9 thành viên.

c. Kháng cáo
Thủ tục duy nhất để xem xét lại phán quyết của toà này là thủ tục giám
đốc thẩm tại Toà Phá án. Như vậy, khía cạnh tình tiết do Toà Đại hình
đưa ra có giá trị chung thẩm (vì Toà Phá án chỉ quan tâm tới khía cạnh
pháp luật và phải tuân thủ những sự thật mà án phúc thẩm đã dựa vào
đó làm căn cứ).
2. Tòa án cấp phúc thẩm (Cour d'appel)
11 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật so sánh, NXB CAND 2007, tr.162.

12 www.justice.gouv.fr truy cập ngày 13/9/2016

7


Có chức năng thực hiện việc phúc thẩm trung gian của Pháp. Các toà này
có tại các thành phố lớn và được phân biệt theo tên gọi của các thành phố,
ví dụ như Cour d'Appel de Paris (Toà phúc thẩm Paris), Cour d'Appel de
Versailles (Toà phúc thẩm Versailles), Cour d'Appel de Bordeaux (Toà
phúc thẩm Bordeaux)…Hiện nay có 36 Toà phúc thẩm tại Pháp, trong đó
có 29 toà trong nước và 7 toà ở lãnh thổ hải ngoại của Pháp.13
2.1 Thẩm quyền
Xem xét kháng cáo đối với các phán quyết của tất cả các toà án sơ thẩm.
2.2 Hội đồng xét xử
Gồm ba đến bảy thẩm phán trong một phiên xét xử.
Các phán quyết của Toà Phúc thẩm có giá trị chung thẩm với phần nhận
định về các sự kiện. Phần về áp dụng pháp luật có thể bị kháng cáo lên cấp
xét xử cuối cùng là Toà Phá án. Toà Phá án chỉ quan tâm tới khía cạnh
pháp luật và phải tuân thủ những sự thật mà án phúc thẩm đã dựa vào đó
làm căn cứ.
3. Tòa án cấp tối cao (Toà Phá án - Cour de Cassation)

- Toà này được gọi là Toà phá án vì thường huỷ bỏ các bản án của toà án cấp

dưới nhưng không thay thế các bản án đó bằng bản án của mình mà gửi bản
án xuống một toà án khác cùng cấp với toà đã xét xử để xét xử lại 14. Toà
Phá án là toà cao nhất trong nhánh toà tư pháp nên còn được gọi là toà giám
đốc thẩm.
13 Xem tại truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2016.

14 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật so sánh, NXB CAND 2007, tr.163.

8


-

Toà Phá án có lịch sử rất lâu đời, được thành lập vào năm 1790 sau cách
mạng tư sản Pháp15. Toà được chia làm sáu toà chuyên trách (chambres) đó
là: Toà dân sự đệ nhất cấp (première chambre civile), Toà dân sự đệ nhị cấp
(deuxième chambre civile), Toà dân sự tam cấp (troisième chambre civile),
Toà thương mại (chambre commerciale), Toà lao động (chambre sociale)
và Toà hình sự (chambre criminelle).

3.1 Thẩm quyền

Xem xét lại các phán quyết của Toà Phúc thẩm và cả phán quyết của bất kỳ
toà án nào trong nhánh toà tư pháp. Vụ việc muốn được xem xét tại Toà
Phá án phải có đơn giám đốc thẩm. Một vụ việc có thể được xem xét theo
thủ tục giám đốc thẩm tai Toà Phá án hai lần:
- Lần một: Khi thụ lý một đơn giám đốc thẩm, hội đồng xét xử có thể bác
đơn kháng cáo và giữ nguyên bản án bị kháng cáo, hoặc huỷ bản án đó

và giao lại cho một trong những toà sơ thẩm để xét xử lại, mà không
giao cho toà án đã ra bản án đó. Toà sơ thẩm này không bắt buộc tuân
-

theo phán quyết của hội đồng giám đốc thẩm.
Lần hai: Nếu bản án thứ hai lại bị phúc thẩm và bị bác bỏ bởi Toà Phá
án (trường hợp xảy ra khi có quyết định toàn thể của toà án) thì toà Phúc
thẩm thứ ba xem xét vụ việc sẽ phải tuân thủ quan điểm của Toà Phá án
về vấn đề pháp luật.

Khác với toà án cấp cao nhất ở nhiều nước, Toà Phá án, kể từ năm 1958
không thể giảm lượng công việc của mình bằng cách chuyển án xuống cho
toà phúc thẩm, vì vậy, vụ việc phải chờ đợi rất lâu vì toà án phải quyết định
hàng ngàn vụ việc hằng năm, gồm cả những vụ việc nhỏ không mấy quan
trọng.
15 Serge Guinchard, André Varinard and Thierry Debard, Institutions juridictionnelles, 11th edn.

9


3.2 Hội đồng xét xử

Một vụ việc có thể được xét xử bởi hội đồng gồm ba hoặc năm thẩm phán
khi có sự chỉ đạo từ Chánh án.
Bản án được tuyên bởi Toà phá án rất đơn giản, chỉ bao gồm tuyên bố và
tóm tắt các phán quyết của Toà, cũng không chỉ ra những điểm trong vụ án
mà quyết định phán quyết của toà án16 như trong các bản án của Toà án
trong hệ thống thông luật17.
Không giống như trong hệ thống Thông luật với nguyên tắc stare decisis,
các phán quyết của toà án tối cao không có giá trị bắt buộc đối với các toà

án cấp thấp hơn, mặc dù các toà án này thường xét xử theo các phán quyết
này trong các vụ việc tương tự 18. Mỗi năm, Toà Phá án cho xuất bản một
tuyển tập, trong đó thường là các kiến nghị về việc sửa đổi pháp luật, những

16 Nguyên tắc ratio decidendi.

17 Serge Guinchard, Cécile Chainais, Frédérique Ferrand, Civil procedure, Paris, Dalloz editor, 30th
edition, 2010.

18 Xem tại: truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2016.

10


lời bình luận trong các vụ án quan trọng và các bài nghiên cứu khoa học
pháp lý được viết bởi các thẩm phán của Toà19.

19 Xem tại: truy cập ngày 13 tháng 9 năm
2016.

11


II.
NHÁNH TOÀ HÀNH CHÍNH
1. Toà Hành chính sơ thẩm (Tribunal administratif)
1.1 Lịch sử hình thành

Toà Hành chính sơ thẩm được thành lập bởi Nghị định số 53-934 ngày 30
tháng 9 năm 1953, nhằm giảm bớt gánh nặng xét xử cho Hội đồng Nhà

nước. Kể từ khi Nghị định của ngày 29 tháng 7 năm 2009 chính thức hóa
việc thành lập Tòa án hành chính ở Montreuil, hiện nay có 42 toà hành
chính sơ thẩm, bao gồm 31 toà ở Pháp và 11 toà ở vùng lãnh thổ ở nước
ngoài.

20

Các tòa án hành chính sơ thẩm được thành lập từ năm 1953 thay

thế cho các “Hội đồng tỉnh trưởng” vốn là một dạng tòa án được thành lập
vào năm 1800 trong mỗi tỉnh với năng lực rất hạn chế.21
1.2 Chức năng
1.2.1 Thẩm quyền xét xử

Thẩm quyền của Toà hành chính sơ thẩm là xét xử sơ thẩm tất cả các vụ
án hành chính thuộc thẩm quyền của toà hành chính (Điều L. 211-1 Bộ
pháp điển về tài phán hành chính) trừ một số ngoại lệ như một số trường
hợp đặc biệt về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thuế; hoặc trường
hợp yêu cầu chuyển vụ án vì có lý do chính đáng nghi ngờ Toà án hành
20 truy cập ngày 17/09/2016

21 Giáo trình Luật so sánh, Trường ĐH Luật Hà Nội, tr.165

12


chính sơ thẩm đã thụ lý sẽ không xét xử công minh.22 Tranh chấp mà
Toà giải quyết là tất cả các tranh chấp với chính phủ (nhà nước, chính
quyền địa phương, các tổ chức hành chính công, vv) và cả các vấn đề
liên quan đến các cuộc bầu cử địa phương.

Thẩm quyền của tòa án hành chính được xác định theo nguyên tắc lãnh
thổ nghĩa là tòa hành chính có thẩm quyền xét xử là tòa án nơi có trụ sở
của cơ quan hành chính đã ban hành quyết định hành chính bị khiếu
kiện hoặc hợp đồng hành chính có tranh chấp.23
1.2.2 Thẩm quyền cố vấn
Bên cạnh chức năng xét xử, Tòa hành chính sơ thẩm còn có chức năng
cố vấn cho người đứng đầu bộ máy hành chính của các tỉnh nằm trong
phạm vi lãnh thổ của mình.24
1.2.3 Hội đồng xét xử
Số lượng thẩm phán ở mỗi phiên toà sơ thẩm hành chính luôn là số lẻ,
thông thường một Hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán. Phán quyết của
22 truy cập ngày
17/09/2016

23 Giáo trình Luật so sánh, Trường ĐH Luật Hà Nội, tr.165

24 Tô Văn Hoà, Tính độc lập của Toà án, tr257

13


Tòa Hành chính Sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị lên Tòa Hành
chính Phúc thẩm có thẩm quyền hoặc Hội đồng Nhà nước.
2. Toà Hành chính phúc thẩm (Cour administratif d'appel)
2.1 Lịch sử hình thành
Toà Hành chính phúc thẩm được thành lập bởi Đạo luật ngày 31 tháng 12
1987 để giảm đi áp lực xét xử của Hội đồng Nhà nước. Năm tòa án hành
chính phúc thẩm được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1989 tại Paris,
Lyon, Nancy, Nantes và Bordeaux. Sau đó ba toà khác cũng được thành lập
ở Marseille, Douai và Versailles.25

2.2 Chức năng
2.2.1 Thẩm quyền xét xử
Tòa án Hành chính Phúc thẩm có thẩm quyền xét xử phúc thẩm với các
phán quyết của các Tòa án Hành chính Sơ thẩm thuộc thẩm quyền của
mình, giải quyết mọi kháng cáo, kháng nghị đối với các bản án của Toà
án hành chính sơ thẩm, cả trong lĩnh vực khiếu kiện đầy đủ, lẫn khiếu
kiện yêu cầu huỷ văn bản.26 Tuy nhiên, Toà Hành chính Phúc thẩm
không có thẩm quyền đối với các trường hợp là những kháng cáo, kháng
nghị liên quan đến tính hợp pháp của các quyết định hành chính và bầu
cử địa phương, các phán quyết thuộc thẩm quyền phúc thẩm của Hội
đồng nhà nước.
25 truy cập ngày 17/09/2016

26 truy cập ngày
17/09/2016

14


2.2.2

Thẩm quyền cố vấn
Điểm khác biệt giữa Toà hành chính Phúc thẩm này với Toà Hành chính
Sơ thẩm và Hội đồng Nhà nước là nó không có chức năng cố vấn. Bởi
lẽ, ở phạm vi địa phương, chức năng tư vấn đã thuộc về Toà Hành chính
Sơ thẩm, còn ở phạm vi trung ương, chức năng này thuộc về Hội đồng

2.2.3

nhà nước.

Hội đồng xét xử
Trình tự, thủ tụ xét xử của Tòa án Hành chính phúc thẩm tương tự như
ở cấp sơ thẩm. Phán quyết của Tòa án Hành chính phúc thẩm có giá trị
chung thẩm đối với phần nhận định về mặt sự kiện. Chúng chỉ có thể bị
kháng cáo theo thủ tục giám đốc thẩm tại Hội đồng nhà nước đối với

các tình tiết pháp lý.27
3 Hội đồng Nhà nước - Tham Chính viện (Conseil d’État)
3.1 Lịch sử hình thành
Hội đồng Nhà nước – Tham Chính viện (Conseil d'État) là cơ quan công
pháp

của

Pháp được

thành

lập vào năm 1799

bởi Napoléon

Bonaparte theo Hiến pháp năm VIII. Trụ sở của Conseil d'État được đặt
tại Palais-Royal ở thủ đô Paris28. Đây là một trong những thiết chế lâu đời
nhất ở Pháp và cũng mang nhiều điểm độc đáo của thể chế chính trị Pháp.
Hội đồng bao gồm 200 thành viên và được Hội đồng Bộ trưởng bổ nhiệm.
Theo học thuyết phân quyền thì quyền chức năng tư pháp và chức năng
27 Tô Văn Hoà, Tính độc lập của Toà án, tr258

28 truy cập ngày 17/09/2016


15


hành chính phải được phân lập. Hiến pháp 1799 đã quy định sự ra đời của
thiết chế mới – Hội đồng nhà nước có chức năng giải quyết các khó khăn
về hành chính. Hội đồng nhà nước có hai tư cách: Tư cách thứ nhất là cơ
quan tài phán hành chính nhà nước cao nhất, tư cách thứ hai là cơ quan tư
vấn của Chính phủ29. Sở dĩ Hội đồng Nhà nước có đến hai chức năng này là
vì một nguyên tắc quan trọng của nền hành chính Pháp là nguyên tắc phân
chia hành chính quản lý và hành chính tài phán. Hành chính quản lý (hay
hành chính điều hành) là toàn bộ hoạt động thường ngày của cơ quan hành
chính trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hành chính tài phán là hoạt
động xem xét tính hợp pháp của các hành vi hành chính quản lý thông qua
việc giải quyết các khiếu kiện của người dân khi họ phản đối quyết định
của cơ quan hành chính vì cho rằng quyết định đó trái pháp luật, gây thiệt
hại hoặc cản trở việc thực hiện các quyền và lợi ích đã được pháp luật ghi
nhận và bảo đảm thực hiện.30
Tuy nhiên, Hội đồng Nhà nước Pháp khi ra đời chưa phải đã là cơ quan tài
phán hành chính thực thụ. Nó có trách nhiệm nhận các đơn khiếu nại của
công dân, tiến hành xem xét, thẩm cứu và đề nghị giải pháp cho vụ kiện để
29 truy cập ngày 17/09/2016

30 truy cập ngày
17/09/2016

16


nhà vua hoặc những người đứng đầu cơ quan hành chính quyết định. Thời

kỳ này, người ta gọi là Hội đồng Nhà nước có thẩm quyền xét xử hạn chế,
kéo dài hàng thế kỷ. Thực chất, đây là phương sách tổ chức cơ quan tài
phán hành chính, tức là cơ quan hành chính chuyên giải quyết khiếu kiện
hành chính. Cho đến đạo luật 24/5/1872, Hội đồng Nhà nước Pháp mới có
quyền tự mình đưa ra phán quyết đối với các tranh chấp hành chính, ra các
bản án “nhân danh nhân dân Pháp”. Các toà án hành chính ở cấp cơ sở cũng
có quá trình hình thành tương tự như vậy.
Tóm lại, nhìn vào lịch sử hình thành, cơ quan tài phán hành chính Pháp đã
trải qua một thời kỳ khá dài từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Người
Pháp quan niệm sự có mặt các Toà án hành chính là một yếu tố quan trọng
của một Nhà nước pháp quyền với hai sứ mạng: bảo vệ quyền của công
dân; mặt khác bảo vệ tính pháp quyền trong hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước.31
3.2 Chức năng
3.2.1 Thẩm quyền xét xử
Về chức năng xét xử, Hội đồng Nhà nước tham gia xét xử ở cả 3 cấp: sơ
thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm. Từ trước và giữa thế kỉ 20, phạm vi
xét xử của Hội đồng Nhà nước là rất lớn, nhưng từ khi Toà án Hành
chính Sơ thẩm và Phúc thẩm ra đời, phạm vi này đã thu hẹp lại.


Xét xử sơ thẩm: đối với một số ít vấn đề.
Bởi vì, Nghị định năm 1953 quy định rằng các Toà án hành chính sơ
thẩm là Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với mọi vụ việc,
“trừ những vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tham chính viện do

31 truy cập ngày
17/09/2016

17



đối tượng của tranh chấp hoặc do nhu cầu quản lý hành chính”.

32



là cấp tòa cao nhất trong nhánh tòa hành chính, nên phán quyết sơ
thẩm của Hội đồng Nhà nước có giá trị chung thẩm.


Xét xử phúc thẩm: trong các trường hợp:
-

Khi áp dụng thủ tục xem xét tính hợp pháp của hành vi hành

-

chính theo thủ tục sơ bộ;
Khi có khiếu nại về bầu cử hội đồng thành phố, thị trấn, và

-

canton;
Khi đơn kháng cáo phúc thẩm đến từ các tòa hành chính chuyên
trách (Cour dé Comptes hay Cour de discipline budgétaire et

-


financière). Đó là:
Khiếu kiện đối với nghị định và pháp lệnh;
Khiếu kiện đối với quyết định quy phạm của bộ trưởng cũng như

-

quyết định hành chính do bộ trưởng ban hành;
Khiếu kiện đối với những văn bản hành chính có phạm vi áp
dụng vượt quá thẩm quyền lãnh thổ của một toà án hành chính sơ

-

thẩm;
Khiếu kiện đối với quyết định hành chính của các cơ quan đại

-

diện của Pháp ở nước ngoài;
Khiếu kiện đối với quyết định của bộ trưởng trong lĩnh vực kiểm

-

soát tập trung kinh tế;
Khiếu kiện yêu cầu bảo vệ quyền khỏi sự xâm hại của các quyết
định xử phạt do cơ quan Hành chính độc lập ban hành, căn cứ
theo quy định rõ trong một văn bản cụ thể;

32 truy cập ngày
17/09/2016


18


-

Khiếu kiện yêu cầu giải thích văn bản và khiếu kiện yêu cầu đánh
giá tính hợp pháp của các văn bản hành chính (có thể trực tiếp

-

yêu cầu Tham chính viện xem xét huỷ văn bản đó);
Tranh chấp liên quan đến tình trạng cá nhân của công chức được

-

bổ nhiệm theo quyết định của Tổng thống;
Khiếu kiện về bầu cử đại biểu Hội đồng vùng, đại biểu Hội đồng

-

đảo Corse và thành viên Nghị viện Châu Âu.33
Đơn kháng cáo phúc thẩm đến từ các tòa hành chính chuyên
trách, gồm Tòa kiểm toán (Tribunal de Compte) thành lập năm
1807; Tòa kỉ luật, ngân sách và tài chính thành lập năm 1948; Ủy
ban quốc gia về giải quyết tranh chấp về dịch vụ y tế và xã hội
thành lập năm 1980; và Ủy ban trung ương về giải quyết khiếu
kiện của người tị nạn thành lập năm 1988. Mỗi tòa án này chỉ có
phạm vi thẩm quyền nhất định, mang tính chất đặc thù của vụ
việc. Tất cả các thiết chế này đều chịu sự kiểm tra của thông qua


cơ chế kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm.34
• Xét xử giám đốc thẩm
Hội đồng Nhà nước là cơ quan duy nhất có quyền giải quyết
kháng nghị giám đốc thẩm đối với các quyết định xét xử chung
33Martine Lombard và Gilles Dumont, Pháp luật Hành chính của Cộng Hòa Pháp, NXB Tư pháp
2007, trang 703

34 truy cập ngày
17/09/2016

19


thẩm của mọi tòa án hành chính. Khác với Tòa phá án trong tòa
án tư pháp, Hội đồng Nhà nước sau khi hủy án hành chính có thể
trực tiếp xét xử lại về mặt nội dung vụ việc nếu thấy “có lợi cho
công tác quản lý xét xử”. Ngoài ra, Hội đồng Nhà nước có thẩm
quyền đưa ra ý kiến hướng dẫn giải quyết vụ việc theo yêu cầu
của các tòa án hành chính sơ thẩm hoặc tòa án hành chính phúc
thẩm.35
3.2.2 Hội đồng xét xử
Tham chính viện có khoảng 300 thành viên nhưng chỉ 2/3 trong số đó là
hoạt động thường xuyên tại Tham chính viện, số còn lại thường nắm giữ
những chức vụ quan trọng trong bộ máy hành chính nhà nước ở trung
ương. Đa số các thành viên của tham chính viện được lựa chọn từ
những người đã tốt nghiệp Học viện hành chính quốc gia. Thành viên
tham chính viện chia làm ba loại: thẩm phán tập sự, thẩm phán tham vấn
và thẩm phán cao cấp. Tham chính viện được chia thành 6 ban, 5 ban có
chức năng hành chính (nội vụ, tài chính, công chính, xã hội, nghiên cứu)
và 1 ban có chức năng tài phán. Ban tài phán chia làm 10 tiểu ban. Tùy

theo tầm quan trọng và tính chấr của vụ việc cần giải quyết, hội đồng
xét xử của Tham chính viện có 4 dạng sau đây:
-

Đối với vụ việc đơn giản, Hội đồng xét xử chỉ có 3 thẩm phán;

-

Đối với những vụ việc tương đối phức tạp và khó giải quyết, hội
đồng xét xử được thành lập tử nhiều tiểu ban, gồm 9 thành viên,

35 truy cập ngày
17/09/2016

20


trong đó tiểu ban đã thụ lí vụ việc và tiến hành thẩm cứu sẽ phối hợp
với một tiểu ban khác để xét xử.
-

Đối với những vụ việc phức tạp và khó giải quyết về mặt pháp luật
hoặc có ý nghĩa quan trọng Hội đồng xét xử sẽ có 17 thành viên bao
gồm Chủ tịch Ban tài phán, 3 Phó chủ tịch Ban tài phán, 10 Chủ tịch
tiểu ban, báo cáo viên và 2 thẩm phán cao cấp.

-

Đối với vụ việc đặc biệt phức tạp và nhạy cảm về chính trị thì phải
do Hội đồng thẩm phán Tham chính viện xét xử. Đây là Hội đồng

cao nhất, gồm Chủ tịch của tất cả các Ban hành chính và Ban tài
phán, 3 phó chủ tịch Ban tài phán, Chủ tịch tiểu ban thẩm cứu và báo
cáo viên, dưới sự chủ tọa của phó chủ tịch tham chính viện (tất cả có
12 thành viên).36

Thẩm quyền cố vấn
Theo Hiến pháp của Đệ ngũ Cộng hòa Pháp, vai trò chính của Hội đồng
3.2.3

Nhà nước là cố vấn chính phủ. Cũng vì vậy, cơ quan này đảm trách
chức năng giám sát một số văn bản của chính phủ Pháp, trong đó có cả
các đề án chính phủ. Mặt khác, đây còn là cơ quan đầu não của hệ thống
hành chính Pháp, song song với hệ thống tư pháp. Trên hết, Hội đồng
Nhà nước cũng tuân theo những quyết định từ Tòa án tranh chấp thẩm
quyền cũng như những quyết định từ Tòa án hiến pháp vốn có chức

36 Martine Lombard và Gilles Dumont, Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp, bản dịch của Nhà
pháp luật Việt – Pháp, 2007, tr.578

21


năng kiểm tra tính hợp hiến của mọi quyết định, theo đề nghị, đưa ra bởi
Hội đồng Nhà nước.37
Về chức năng tư vấn, Hội đồng Nhà nước được tham vấn về tất cả các
dự án luật trước khi được Chính phủ thông qua và trước khi trình Nghị
viện thông qua (Điều 39 Hiến pháp 1958); về các dự án pháp lệnh (Điều
38 Hiến pháp 1958); về các nghị định sửa đổi, bổ sung văn bản pháp
luật đã ban hành trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền lập quy (Điều 37
Hiến pháp 1958). Ngoài ra Chính phủ có thể chủ động xin ý kiến của

Hội đồng Nhà nước về bất kỳ dự thảo văn bản nào hoặc về mọi vướng
mắc phát sinh trong lĩnh vực hành chính (Điều 23 Pháp lệnh ngày
31/07/1945).38 Ý kiến tham vấn của Hội đồng Nhà nước không mang
tính bắt buộc, tức là Chính phủ có thể cân nhắc việc theo hoặc không
theo ý kiến này.
3.2.4 Chức năng báo cáo
Kể từ năm 1963, Hội đồng Nhà nước còn có thêm một chức năng nữa là
chức năng báo cáo. Hàng năm Hội đồng phải nộp một bản báo cáo hoạt
động cho Chủ tịch nước.

37 truy cập ngày 17/09/2016

38 truy cập ngày
17/09/2016

22


III.
TÒA XUNG ĐỘT (Tribual des Conflists)
1. Lịch sử hình thành

Đươc thành lập để giải quyết những trường hợp có thể có tranh chấp thẩm
quyền giữa hai hệ thống tòa án tư pháp hay của hệ thống tòa án hành chính
mà không xét xử về mặt nội dung của các tranh chấp. Phán quyết của Tòa
Xung đột có giá trị chung thẩm.
2. Chức năng:
Từ năm 1932, có một ngoại lệ cho nguyên tắc này, Tòa xung đột có thể xét
xử nội dung của vụ việc đó đã được cả hai hệ thống tòa án xử nhưng lại đưa
ra hai phán quyết mâu thuẫn nhau.39

Như vậy, Tòa xung đột có thể thực hiện thẩm quyền của mình trong ba
trường hợp sau40:
• Thứ nhất, trong trường hợp “tranh chấp chủ động” 41 có nghĩa là tòa
hành chính không đồng ý với một vụ việc đang được tòa án của hệ
thống tư pháp thụ lý.
39 Tô Văn Hòa, Tính độc lập của Tòa án, Tr 265

40 Tô Văn Hòa, Tính độc lập của Tòa án, Tr 266

41 Tô Văn Hòa, Tính độc lập của Tòa án, Tr 265

23




Thứ hai, Tòa xung đột có thể can thiệp khi một Tòa án tư pháp và một
tòa án hành chính đã cùng từ chối thụ lý một vụ việc trên cơ sở cho rằng



tòa án kia mới chính là tòa án có thẩm quyền.
Thứ ba, khi một vụ việc đã được cả tòa án tư pháp và tòa hành chính xét
xử và công bố hai phán quyết mâu thuẫn nhau.

24


IV.
HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP

1. Lịch sử hình thành

Hiến pháp ngày 04/10/1958 đánh dấu sự ra đời của nền Cộng hòa thứ năm
– chính thể hiện hành của nước Pháp. Hiến pháp thiết lập chế độ Cộng hòa
lưỡng tính dựa trên chế độ nghị viện hợp lý và xu hướng đề cao vai trò của
Tổng thống. Lần đầu tiên, Hiến pháp quy định việc thành lập một cơ quan
chuyên trách bảo vệ Hiến pháp – Hội đồng Hiến pháp.42
2. Chức năng (thẩm quyền)
- Kiểm sát tính hợp hiến của những văn bản do cơ quan lập pháp ban
-

hành và
Xử lý những khiếu nại liên quan đến các cuộc bầu cử nghị viện, tổng

thống hoặc các cuộc trưng cầu dân ý.
3. Quy trình giám sát:
- Quy trình giám sát của Hội đồng Hiến pháp là giám sát trước khi văn
bản có hiệu lực pháp luật.
- Các phán quyết của Hội đồng có giá trị chung thẩm.
4. Hậu quả của việc giám sát:
Nếu như nó cho rằng đạo luật, quy tắc tố tụng của nghị viện hoặc điều ước
quốc tế vừa được nghị viện thông qua là vi hiến thì những đạo luật, quy tắc
tố tụng hoặc điều ước đó sẽ không được công bố.
5. Cơ cấu tổ chức:
Hội đồng Hiến pháp bao gồm ít nhất chín thành viên có nhiệm kỳ chín năm
và không được tái nhiệm. Trong đó: ba người do Tổng thống chỉ định (một
trong số ba người này là chủ tịch Hội đồng), ba người do chủ tịch Thượng
Nghị viện chỉ định, ba người do Chủ tịch Hạ Nghị viện chỉ định.

42 Lịch sử lập hiến và Hiến pháp Cộng Hoà Pháp, vanhoanghean.com

( Truy cập ngày 10/9/2016

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×