Tải bản đầy đủ (.pdf) (199 trang)

Thực hiện quy chế dân chủ ở các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh khánh hòa trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 199 trang )

VIN HN LM
KHOA HC X HI VIT NAM
HC VIN KHOA HC X HI
---------------

NGUYN HU TM

THựC HIệN QUY CHế DÂN CHủ ở CáC TRƯờNG ĐạI HọC
Và CAO ĐẳNG TRÊN ĐịA BàN TỉNH KHáNH HòA TRONG
GIAI ĐOạN HIệN NAY

LUN N TIN S TRIT HC

H NI - 2016


VIN HN LM
KHOA HC X HI VIT NAM
HC VIN KHOA HC X HI
---------------

NGUYN HU TM

THựC HIệN QUY CHế DÂN CHủ ở CáC TRƯờNG ĐạI HọC
Và CAO ĐẳNG TRÊN ĐịA BàN TỉNH KHáNH HòA TRONG
GIAI ĐOạN HIệN NAY
Ngnh, chuyờn ngnh: CNDVBC & CNDVLS
Mó s:
62 22 03 02

LUN N TIN S TRIT HC


NGI HNG DN KHOA HC:
1. PGS.TS. Trn Ngc Liờu
2. TS. Nguyn Trng Thúc

H NI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án
là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Những kết
quả khoa học của luận án chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào.
Tác giả luận án

Nguyễn Hữu Tâm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................3
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI ................................................................................................................................9
1.1. Các công trình nghiên cứu về dân chủ, quy chế dân chủ ở cơ sở và thực hiện dân
chủ ở cơ sở ......................................................................................................................... 9
1.2. Các công trình nghiên cứu về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và thực trạng thực
hiện quy chế dân chủ trong các trường đại học và cao đẳng ........................................... 20
1.3. Các công trình nghiên cứu về phương hướng và giải pháp thực hiện quy chế dân chủ
ở các trường đại học và cao đẳng nói chung và ở Khánh Hòa nói riêng. ........................ 24
1.4. Những vấn đề đặt ra từ các công trình đi trước luận án cần tiếp tục nghiên cứu ..... 28


Chương 2. KHÁI LUẬN VỀ QUY CHẾ DÂN CHỦ VÀ THỰC HIỆN QUY
CHẾ DÂN CHỦ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG.............30
2.1. Dân chủ và bản chất của dân chủ .............................................................................. 30
2.2. Quy chế dân chủ, quy chế thực hiện dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ....... 49
2.3. Quy chế thực hiện dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ trong các trường đại học,
cao đẳng ........................................................................................................................... 62

Chƣơng 3. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ TRONG CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KHÁNH HÒA ..........79
3.1. Tình hình ban hành các văn bản liên quan tới việc thực hiện dân chủ trong các
trường đại học, cao đẳng ở Khánh Hòa ........................................................................... 79
3.2. Kết quả thực hiện quy chế dân chủ và quy chế thực hiện dân chủ trong các trường
đại học và cao đẳng ở Khánh Hòa trong thời gian qua .................................................... 85

Chƣơng 4. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG Ở KHÁNH HÒA HIỆN NAY ..................................................122
4.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ trong các trường đại
học và cao đẳng ở Khánh Hòa ....................................................................................... 122
4.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở các trường đại học
và cao đẳng ở Khánh Hòa hiện nay ............................................................................... 128

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................................145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................................149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................150
PHỤ LỤC .......................................................................................................................161
1



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. BGH

Ban Giám hiệu

4. CNDVBC

Chủ nghĩa duy vật biện chứng

5. CNDVLS

Chủ nghĩa duy vật lịch sử

6. CTQG

Chính trị quốc gia

7. CNH

Công nghiệp hóa

8. CĐ

Cao đẳng

9. CĐYTNT

Cao đẳng Y tế Nha Trang

10. CĐNNT


Cao đẳng Nghề Nha Trang

11. CĐMGTWII NT

Cao đẳng Mẫu giáo Trung ương Nha Trang

12. CĐSPNT

Cao đẳng Sư phạm Nha Trang

13. CĐVHDLNT

Cao đẳng Văn hóa Du lịch Nha Trang

14. ĐHQG

Đại học quốc gia

15. ĐH

Đại học

16. HN

Hà Nội

17. ĐHNT

Đại học Nha Trang


18. ĐHTBD

Đại học Thái Bình Dương

19. HĐH

Hiện đại hóa

20. KHXH

Khoa học xã hội

21. Nxb

Nhà xuất bản

22. ST

Sự thật

23. PL

Phụ lục

24. TCN

Trước công nguyên

25. XHCN


Xã hội chủ nghĩa

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất
của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây
dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ
được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân
chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được
pháp luật bảo đảm. Dân chủ - thực chất là quyền lực thuộc về nhân dân, đây là
một khát vọng to lớn của nhân dân, hiện nay nó đã trở thành một chuẩn mực giá
trị của xã hội. Đồng thời, là nguyên tắc cơ bản của thể chế dân chủ XHCN ở Việt
Nam. Đặc biệt, trong điều kiện mở cửa và hội nhập của đất nước, việc xây

dựng nền dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở là một yêu cầu khách quan của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay ở nước ta. Dân chủ đang còn là
nội dung cần bàn trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng
như trong tiến trình phát triển cách mạng của thế giới. Đây là nội dung có tính
chất cơ bản để xác định phương hướng, mục tiêu, động lực, phương pháp và
tiêu chuẩn kiểm định của một chế độ xã hội, một thể chế chính trị, một đơn vị,
tập thể trong mỗi cộng đồng. Do đó, đối với Việt Nam, đây đang là vấn đề cấp
thiết cần phải nghiên cứu.
Để đảm bảo dân chủ, mà ở đó quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là
người sáng tạo ra lịch sử chân chính của mình. Chỉ thị số 30 - CT/TW ngày 18
tháng 02 năm 1998 của Bộ Chính trị về “Xây dựng và thực hiện quy chế dân

chủ ở cơ sở”, Nghị định số 71/1998/NĐ - CP ngày 08 tháng 09 năm 1998 về

việc “Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan ”,
Nghị định số 29/1999/NĐ - CP về “Quy chế thực hiện dân chủ ở xã”, Nghị
định số 07/1999/NĐ - CP về “Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà
nước” là văn bản pháp quy để người dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình
3


trong các mặt của đời sống xã hội. Đồng thời, qua đây nhân dân có thể đẩy
mạnh quá trình dân chủ hóa, tạo ra không khí dân chủ cho người dân về niềm
tin vào chế độ dân chủ nhân dân mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Trên cơ sở đó, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là tiền đề cho các
cơ quan giáo dục ở địa phương thực hiện dân chủ hóa, trong đó Khánh Hòa là
một trong những địa phương có nhiều trường đại học và cao đẳng đang đào tạo
một lực lượng lao động có trình độ cao của khu vực Nam Trung bộ.
Khánh Hòa, tỉnh thuộc ven biển Nam Trung bộ, với diện tích 5.197 km2,
phía Bắc giáp Phú Yên, Nam giáp Ninh Thuận, Tây giáp Đắk Lắk và Lâm Đồng.
Là tỉnh có phần vươn xa nhất ra biển Ðông trên cả đất liền và hải đảo, địa hình
Khánh Hòa tương đối đa dạng, phức tạp, thấp dần từ Tây sang Ðông, có rừng
núi, đồng bằng, miền ven biển, hải đảo. Chính đặc điểm này đã làm cho Khánh
Hòa có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về phát triển kinh tế biển và an ninh
quốc phòng. Vì vậy, Khánh Hòa đã trở thành một trung tâm kinh tế - chính trị
lớn của khu vực Nam Trung bộ. Đồng thời, đây là địa bàn tập trung nhiều trường
đại học và cao đẳng đang đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước
nói chung và tỉnh Khánh Hòa nói riêng. Tuy nhiên, do nhiều trường đại học và
cao đẳng nên lượng sinh viên và cán bộ công chức rất đông, đã ảnh hưởng không
nhỏ tới vấn đề chính trị - xã hội, trong đó vấn đề chính trị tư tưởng đang đứng
trước những thách thức lớn ở một số bộ phận cán bộ, giảng viên và sinh viên trên
địa bàn tỉnh Khánh Hòa hiện nay.

Để góp phần không nhỏ vào việc ổn định trật tự chính trị - xã hội trên địa
bàn của tỉnh, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là thực hiện quy
chế dân chủ trong các trường đại học và cao đẳng là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu trong giai đoạn hiện nay theo tinh thần của đảng, Chỉ thị số 30-CT/TW
nhằm mục đích xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và đẩy mạnh quá
trình dân chủ hóa trong xã hội. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã
ban hành nhiều chính sách đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội, phát huy một
4


bước quyền làm chủ của nhân dân, nhờ đó đã đạt được những thành tựu to lớn
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, trong thời gian qua, nhìn chung quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi
phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực, tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham
nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân đang phổ biến và nghiêm trọng
mà chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn được. Phương châm "Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra" chưa được cụ thể hoá và thể chế hoá thành luật pháp,
chậm đi vào cuộc sống. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII (tháng 6-1997) đã nhấn mạnh: Lúc này để giữ vững và
phát huy được bản chất tốt đẹp của nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ
của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm
soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn
tham nhũng. Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ
của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của
đảng và nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách
trực tiếp và rộng rãi nhất. Muốn vậy, nhà nước cần ban hành quy chế dân chủ ở
cơ sở có tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm
chỉnh thực hiện. Quy chế dân chủ cần được xây dựng cho từng loại cơ sở xã,
phường, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ quan hành
chính sự nghiệp… phù hợp với đặc điểm của từng loại cơ sở.

Trên cơ sở đó Quyết định 04/2000/QĐ-BGD&ĐT, ngày 01 tháng 03 năm
2000 về “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động nhà trường” đã khẳng định
mục đích cơ bản là: “Thực hiện dân chủ trong nhà trường nhằm thực hiện tốt
nhất, có hiệu quả nhất những điều Luật Giáo dục quy định theo phương châm:
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong các hoạt động của nhà trường
thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đảm bảo cho công
dân, cơ quan, tổ chức được quyền giám sát, kiểm tra, đóng góp ý kiến tham gia
xây dựng sự nghiệp giáo dục, làm cho giáo dục thực sự là của dân, do dân và vì
5


dân” [13, tr. 2]. Thực hiện dân chủ trong nhà trường nhằm phát huy quyền làm
chủ và huy động tiềm năng trí tuệ của hiệu trưởng, nhà giáo, người học, đội ngũ
cán bộ, công chức trong nhà trường theo luật định, góp phần xây dựng nề nếp,
trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của nhà trường, ngăn chặn các hiện tượng
tiêu cực và tệ nạn xã hội, thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục phù hợp với
đường lối, chủ trương của đảng và luật pháp nhà nước.
Việc nghiên cứu thực trạng thực hiện quy chế dân chủ ở các trường đại học
và cao đẳng ở Khánh Hòa hiện nay nhằm có cơ sở khoa học trong thực hiện dân
chủ, qua đó đề xuất một số giải pháp để phát huy tiềm năng sáng tạo của cán bộ,
giảng viên và sinh viên trong quá trình thực hiện dân chủ, đồng thời giúp các cơ
quan địa phương có căn cứ để ban hành các quy chế, quy định về thực hiện dân chủ.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hiện tượng vị phạm quy chế dân chủ và gây
mất dân chủ ở một số cơ quan trường học đã làm ảnh hưởng đến tư tưởng và lòng
tin của cán bộ, giảng viên và sinh viên đối với uy tín của đảng bộ và hạ thấp vai trò
quản lý của chính quyền các trường đại học và cao đẳng của tỉnh.
Xuất phát từ lý do như trên, chúng tôi chọn đề tài “Thực hiện quy chế
dân chủ ở các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong
giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu: Tác giả làm rõ hơn một số khái niệm như: Quy
chế dân chủ cơ sở, quy chế thực hiện dân chủ cơ sở… Đồng thời, chỉ ra thực
trạng ban hành quy chế thực hiện dân chủ và thực trạng thực hiện quy chế dân
chủ ở các trường đại học và cao đẳng ở Khánh Hòa. Từ đó, đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở các trường đại học và
cao đẳng ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, đề tài có những nhiệm
vụ cơ bản sau:
6


Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
nói chung và ở các trường đại học, cao đẳng Khánh Hòa nói riêng.
Thứ hai, phân tích những thành tựu, hạn chế của việc thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở ở các trường đại học và cao đẳng ở Khánh Hòa trong thời gian qua.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện
quy chế dân chủ trong các trường đại học, cao đẳng ở Khánh Hòa hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu việc thực hiện quy
chế dân chủ trong các trường đại học và cao đẳng trong thời gian qua trên địa
bàn tỉnh Khánh Hòa.
Phạm vi nghiên cứu: Xuất phát từ tình hình thực tế các trường đại học và cao
đẳng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa và các tài liệu mà tác giả có thể tiếp cận được, đề
tài tập trung nghiên cứu việc thực hiên quy chế dân chủ cơ sở ở các trường đại học và
cao đẳng từ năm 2012 đến năm 1015, bao gồm: Đại học Nha Trang, Đại học Thái
Bình Dương, trường cao đẳng Văn hóa và Du lịch Nha Trang, Cao đẳng Sư phạm
Nha Trang, Cao đẳng Mẫu giáo Trung ương II Nha Trang, Cao đẳng Y tế Nha Trang.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Để tài được thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện

chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử
dụng những phương pháp cơ bản như: Phương pháp biện chứng duy vật, lịch sử
- logic và phương pháp phân tích, tổng hợp, để có những tư liệu cụ thể, tác giả đã
tiến hành điều tra xã hội học.
5. Những đóng góp mới của luận án
Nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề quy chế thực hiện dân chủ và thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, chỉ ra thực trạng và giải pháp của việc thực hiện
quy chế dân chủ của các trường đại học và cao đẳng ở Khánh Hòa thông qua
khảo sát thực tế.
7


Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện quy chế
dân chủ trong các trường đại học, cao đẳng ở Khánh Hòa hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận của luận án: Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập về những vấn đề lý luận dân chủ, quy chế
thực hiện dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Ý nghĩa thực tiễn của luận án: Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho
đảng bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở các trường đại học và cao đẳng
trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong việc xây dựng chủ trương, kế hoạch và chỉ
đạo thực hiện công tác nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ trong
trường học cho những năm tiếp theo.
Đề tài cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến công
tác nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ nói chung, dân
chủ cơ sở đối với những tổ chức, cơ quan trường học nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận

án gồm 4 chương, 11 tiết

8


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về dân chủ và quy chế dân chủ rất
nhiều, tất cả các bài nghiên cứu đều xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, mỗi thời đại, mỗi quốc gia lại có quan
điểm về dân chủ khác nhau. Cho nên, đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu
thường tập trung vào một lĩnh vực nhất định hoặc một khía cạnh nổi bật nào đó,
bằng cách tiếp cận chuyên ngành khoa học xã hội cụ thể khác nhau. Cho đến nay
chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu về thực hiện quy chế dân chủ
trong các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa từ góc độ triết
học. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước đã
nghiên cứu về dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là cơ sở và là nguồn
tài liệu quan trọng của luận án. Từ tình hình nghiên cứu như vậy, tác giả sơ bộ
phân loại các công trình nghiên cứu trên thành các lĩnh vực như sau:
1.1. Các công trình nghiên cứu về dân chủ, quy chế dân chủ ở cơ sở và thực
hiện dân chủ ở cơ sở
Cơ sở của việc nghiên cứu thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện nay được
thể hiện trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học và đều bắt đầu từ
việc nghiên cứu lý luận về dân chủ. Đặc điểm của các công trình nghiên cứu về
dân chủ là các tác giả đi vào nghiên cứu sự biểu hiện của tư tưởng dân chủ trong
thể chế chính trị của mỗi quốc gia và ít mang tính so sánh vì nó còn phụ thuộc
vào đặc điểm văn hóa của mỗi dân tộc. Đây là loại hình chiếm số lượng lớn
trong những công trình nghiên cứu về dân chủ. Dân chủ với tư cách là phạm trù
chính trị không mang tính khuôn mẫu của bất kỳ một chế độ chính trị nào. Cho
nên, ở lĩnh vực dân chủ ngoài những quan điểm kinh điển của các nhà macxít và
tư tưởng Hồ Chí Minh còn có một số công trình tiêu biểu như sau:

Khi bàn đến tư tưởng dân chủ và bản chất của nền dân chủ, trong cuốn
“Tương lai của nền dân chủ xã hội” của Thomas Meyer và Nicole Breyer, xuất bản
9


năm 2007 đã được Trần Danh Tạo và Ngô Lan Anh dịch. Đây không phải là cuốn
sách chuyên bàn về lịch sử tư tưởng chính trị, cơ bản nhất là tác giả đã đề cập đến
nền dân chủ hiện đại được hợp thức hóa như thế nào? Công bằng xã hội có vai trò
như thế nào đối với nền dân chủ hiện đại, nền dân chủ ấy dựa trên những quyền cơ
bản nào, nó có ý nghĩa như thế nào đối với sự ổn định và hiệu quả của xã hội. Tác
giả đã chỉ ra các quyền cơ bản của con người và đối tượng thực hiện dân chủ trên
tất cả các lĩnh vực, không chỉ trong quá khứ, hiện tại mà cả trong tương lai, đặc
biệt tác giả đã nhìn nhận nền dân chủ trong kinh tế thị trường trong xu thế toàn cầu
hóa: Tác giả đã nhận định rằng: Nền dân chủ tân tự do là một nền dân chủ không
hoàn thiện. Theo cách nhìn nhận này, dân chủ tân tự do có thể được coi là một
dạng không hoàn thiện, vì sự khiếm khuyết về cơ cấu thống trị, khi không đảm bảo
được cơ hội bình đẳng cho các nhóm lợi ích kinh tế và xã hội tác động vào tiến
trình chính trị…Tuy nhiên, tác giả vẫn khẳng định rằng, toàn cầu hóa không làm
mất đi cơ sở của dân chủ xã hội, tương lai của nền dân chủ xã hội và khẳng định:
“Dân chủ xã hội không chỉ là một đòi hỏi nhằm cải thiện cuộc sống của con người
mà còn đảm bảo quyền thực thi các quyền cơ bản của họ” [141, tr.414].
Một số tác giả khác khi bàn đến quyền dân chủ và phát huy dân chủ trong
công tác tham mưu, tác giả Phạm Văn Đức - Nguyễn Đình Hòa, trong bài viết
“Dân chủ và phát huy dân chủ trong công tác tham mưu nhằm nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học số 11 năm 2013.
Tác giả chỉ rõ: “Việc đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm
quyền của Đảng Cộng sản là yêu cầu cấp thiết, là nội dung cơ bản của công tác
xây dựng Đảng và việc phát huy dân chủ trong công tác tham mưu được xem là
một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
Cộng sản với tư cách đảng cầm quyền” [31, tr.3]. Tác giả Trung Thực, trong

cuốn “Quyền dân chủ ở nước ta”, xuất bản năm 1957, cho rằng: “Chế độ dân chủ
của nước ta hoàn toàn khác hẳn chế độ dân chủ của các nước tư bản Âu - Mỹ,
với nền thống trị của giai cấp tư sản, nhân dân lao động không có quyền làm chủ
10


quốc gia, không có quyền tự do, bình đẳng thực sự. Ở chế độ chúng ta toàn dân
làm chủ nhà nước và Bản chất của chế độ ta là hoàn toàn tốt đẹp” [134, tr.41].
Một công trình khác của nhà nghiên cứu Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo, trong
cuốn “Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa”, xuất bản năm 1991. Tác giả
chỉ ra bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là “Một nền dân chủ khác hẳn với
dân chủ tư sản bởi dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ thuộc về số đông, hơn thế
dân chủ còn là kết quả của đấu tranh giai cấp và cải tạo xã hội do quần chúng nhân
dân thực hiện như một hành vi giải phóng để đạt đến tự do và trở thành tự do” [111,
tr. 41]. Khi bàn đến nền dân chủ tư sản, tác giả cũng khẳng định: “Nền dân chủ tư
sản không phải là của đa số nhân dân lao động, không phải là nền dân chủ của dân,
vì dân, do dân mà chỉ là dân chủ tư sản, vì giai cấp tư sản, do giai cấp tư sản, dân
chủ của thiểu số giai cấp này” [111, tr. 31]. Như vậy, các tác giả đã có sự so sánh để
thấy được tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đối với Việt Nam, tác giả
cho rằng: “Dân chủ hóa trên các lĩnh vực ở Việt Nam là vấn đề cấp bách. Nhưng
dân chủ hóa muốn được đảm bảo cần phải có pháp luật tức dân chủ hóa là thực hiện
pháp luật dân chủ hóa đồng thời là pháp chế hóa xã hội” [111, tr.111].
Qua nghiên cứu của hai tác giả, họ đã so sánh hai nền dân chủ trên cơ sở
tính chất của nền dân chủ của hai thể chế. Tuy nhiên, những vấn đề nghiên cứu
chưa đi sâu vào quá trình thực hiện dân chủ của người dân tại cơ sở, tính chất cụ
thể cho đối tượng thực hiện chưa được thể hiện rõ về dân chủ cho mọi đối tượng
trong dân chúng.
Để thực hiện quyền dân chủ thực sự trong nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân, quyền con người, quyền công dân giữ vai trò quyết định trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Trong cuốn “Quyền con người,

quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” đề tài KX - 07 của Trung
tâm Thông tin tư liệu - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, xuất bản năm
1993. Qua nghiên cứu về quyền con người, quyền công dân, các tác giả cho
rằng: Quyền con người trong xã hội là một biểu hiện cụ thể của mối quan hệ
11


giữa cá nhân và cộng đồng trong xã hội đó, về thực chất nó là quyền của những
cá nhân về hành vi và hoạt động trong thực tiễn của đời sống xã hội. Đề tài đã
được các tác giả đi sâu nghiên cứu về các quyền cơ bản của con người và sự biểu
hiện của nó trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế - chính trị và các mặt khác của đời
sống xã hội. Tuy nhiên, trong đề tài chỉ nhấn mạnh quyền con người, quyền công
dân mà chưa tìm thấy được mô hình tổ chức và quản lý xã hội hợp lý để cho
phép chuyển tư tưởng về quyền con người từ khả năng thành hiện thực.
Bài viết của Hoàng Chí Bảo, “Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội
trong phát triển biền vững”, Tạp chí Triết học số 7 năm 2008. Tác giả đã chỉ ra
vai trò của kinh tế trong quá trình thực thi dân chủ cũng như các mặt của đời
sống xã hội. Không chỉ thế, việc đồng thuận trong xã hội là cơ sở cho tính chặt
chẽ trong sự liên minh, liên kết giữa các tổ chức xã hội đồng thời là điều kiện
cho quá trình thực hiện dân chủ xã hội. Tuy nhiên, ông chưa chỉ ra cách thức,
biện pháp để tạo nên sự đồng thuận xã hội, vì đây là bài viết đứng trên cách tiếp
cận lý luận là chủ yếu.
Liên quan đến vấn đề dân chủ và pháp luật, trong cuốn “Mối quan hệ giữa
dân chủ và văn hóa pháp luật” của Hoàng Chí Bảo - Tống Đức Thảo, xuất bản
năm 2011. Cuốn “Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” của
tác giả Nguyễn Trọng Thóc, xuất bản năm 2005. Cuốn “Xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, tác giả Nguyễn Văn
Niên, xuất bản năm 1996. Ngoài ra còn có cuốn “Phản biện xã hội và phát huy
dân chủ pháp quyền” của Hồ Bá Thâm - Nguyễn Tôn Thị Tường Vân, xuất bản
năm 2009. Để thực thi quyền dân chủ của nhân dân, trước hết cần phải thường

xuyên xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Dân chủ phải đi đôi với pháp luật,
không có dân chủ ngoài pháp luật. Tác giả Hoàng Chí Bảo - Tống Đức Thảo đã
khẳng định: Dân chủ và pháp luật luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo
điều kiện cho nhau phát triển. Việc thực hiện dân chủ phải dựa vào pháp luật và
thông qua pháp luật. Đồng thời dân chủ lại là thước đo để đánh giá sự tiến bộ
12


của pháp luật giữa các quốc gia. Các tác giả khẳng định: “Pháp luật của chúng ta
là pháp luật thực sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân
dân lao động” [9, tr. 223]. Cũng bàn về dân chủ và pháp luật, tác giả Nguyễn
Trọng Thóc khẳng định: “Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước có
vai trò quyết định trực tiếp việc thể chế hóa nội dung dân chủ. Hoạt động nhà
nước trong việc lập pháp, bảo vệ pháp luật, giữ vững kỷ cương xã hội có ý nghĩa
to lớn trong việc thực hiện dân chủ của nhân dân. Muốn vậy, nhà nước phải bảo
đảm tính tối cao của pháp luật” [129, tr.104].
Bàn đến nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tác giả Nguyễn Văn Niên
còn nhấn mạnh đến vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình thực thi quyền lực
chính trị của nhà nước Việt Nam. Theo ông, đây là một nhiệm vụ quan trọng
trong việc xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tác giả còn quan
niệm rằng: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
quá trình lâu dài, trên cơ sở hình thành đầy đủ các tiền đề và nền tảng của mô
hình mới về nhà nước pháp quyền cả trong lý luận và thực tiễn. Đây không phải
là công việc một sớm, một chiều có thể làm ngay được. Để xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, trước hết đề cao vai trò và
giá trị xã hội của pháp luật, làm cho nó giữ địa vị tối cao trong đời sống. Như
vậy, tác giả đã đề cao vai trò của pháp luật, đặc biệt trong thực tiễn. Tác giả còn
khẳng định: “Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là quá trình đẩy mạnh
các hoạt động tổ chức và thực hiện pháp luật trong thực tiễn” [110, tr.195].
Bên cạnh đó, Trần Ngọc Liêu, trong cuốn “Quan điểm của chủ nghĩa Mác

- Lênin về nhà nước với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
Tác giả đã chỉ rõ quyền lực của nhân dân trong mối quan hệ với nhà nước và
nhấn mạnh vai trò to lớn của nhân dân trong việc thực thi quyền dân chủ của
người dân. Để người dân thực thi quyền làm chủ của mình, phải xây dựng hoàn
thiện bộ máy nhà nước và các thiết chế chính trị - xã hội. Nhưng để thực thi
quyền dân chủ của nhân dân phải thể chế hóa quyền lực của nhân dân thành pháp
13


luật. Như vậy, ở đây tác giả muốn đề cao pháp luật và chỉ có pháp luật mới bảo
đảm quyền dân chủ thực sự. Từ việc chỉ ra bản chất nhà nước pháp quyền. Tác
giả kết luận rằng: “Quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp luật và
được bảo đảm thực thi bằng bộ máy nhà nước và các thiết chế chính trị - xã hội
khác nhằm mang lại quyền lợi cho nhân dân” [80, tr.254].
Trong bài viết “Xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hóa
xã hội ở nước ta” của tác giả Lương Đình Hải, Tạp chí Triết học số 01 năm
2006, đã nhấn mạnh vai trò của dân chủ hóa xã hội trong nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân. Vấn đề cơ bản tác giả đã khẳng định, đó là vai trò
của nhà nước pháp quyền: “Không có nhà nước pháp quyền thực sự thì không
có nền dân chủ rộng rãi và bền vững. Dân chủ đóng vai trò cơ sở, động lực thúc
đẩy sự phát triển của nhà nước pháp quyền” [50, tr.1]. Trong quan niệm về nhà
nước pháp quyền vẫn còn nhiều quan điểm hiểu chưa đúng nghĩa cho nên đã
dẫn đến tình trạng sai lầm trong việc giải quyết một số vấn đề phức tạp và rất
nhạy cảm của xã hội ta hiện nay. Qua đây tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về nhà
nước pháp quyền để thực thi quyền dân chủ hóa xã hội. Tuy nhiên, bài viết chủ
yếu tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất của nhà nước pháp quyền, vấn đề
dân chủ hóa, còn những cách thức để thực thi dân chủ hóa trong thực tiễn vẫn
còn là vấn đề đang đặt ra.
Khi bàn đến dân chủ - pháp luât và phản biện xã hội, tác giả Hồ Bá
Thâm và Nguyễn Tôn Thị Tường Vân trong cuốn “Phản biện xã hội và phát

huy dân chủ pháp quyền”. Tác giả cũng khẳng định: Để xã hội phát triển ổn
định, quyền lực không trở thành tham quyền vị lợi, thì phải phát huy vai trò của
phản biện xã hội. Khi phản biện được thực hiện đúng đắn sẽ đem lại kết quả
tích cực trực tiếp chủ trương, đường lối, chính sách sẽ vận động phù hợp với
thực tiễn khách quan, các chính sách phản ánh đúng nhu cầu thực tế, có cơ sở
vững chắc: “Phản biện xã hội chính là cách thức cân bằng tốt nhất đối với các
chủ thể lợi ích giúp họ phản ánh tiếng nói của mình để những nhà quản lý,
14


chính trị gia uốn nắn, điều chỉnh lại các chính sách cho phù hợp với đòi hỏi
chính đáng của quần chúng” [136, tr. 37]. Phản biện xã hội là phương thức và
xu hướng thực hiện dân chủ của xã hội đương đại.
Trong cuốn “Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị
Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Hữu Đông, xuất bản năm 2009. Tác giả đã chỉ ra
những thành tựu và hạn chế của các tổ chức chính trị trong thực thi quyền lực của
mình, đồng thời đề cập đến những vấn đề đặt ra trong tổ chức và hoạt động của
đảng, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước
ta. Tác giả chỉ ra những định hướng về sự phát triển đối với các tổ chức chính trị xã hội trong nhà nước pháp quyền và khẳng định: “Để có nhà nước pháp quyền thì
phải xây dựng được kinh tế thị trường và xã hội dân sự, vì đó được coi là ba trụ
cột chính của hệ thống chính trị - xã hội. Do vây, để xã hội dân sự được hình
thành và phát triển, đã đến lúc Đảng và Nhà nước cần xây dựng các thể chế của xã
hội dân sự làm cơ sở quản lý và định hướng bằng pháp luật của nhà nước, nhằm
tạo ra một môi trường pháp lý, dân chủ, tạo không gian cho sự phát triển của các
tổ chức chính trị xã hội” [33, tr.155].
Để ổn định chính trị và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn hiện nay, trong bài “Sự thống nhất giữa ổn định chính trị và phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa - cơ sở của đồng thuận xã hội và phát triển đất nước hiện
nay” của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số 02 năm 2008. Tác giả chỉ ra
rằng, ổn định chính trị trước hết là sự phản ánh các mối quan hệ xã hội giữa

Đảng và các bộ phận cấu thành khác của hệ thống chính trị. Với tư cách là đội
tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xuất phát từ nguyên
tắc tổ chức cơ bản của đảng là tập trung dân chủ nên sự lãnh đạo của đảng
không phải là một chiều, mang tính áp đặt hoặc độc đoán, chuyên quyền, mà
luôn tiếp nhận sự tác động trở lại của đối tượng lãnh đạo. Nguyên tắc “Liên hệ
mật thiết với quần chúng, lấy phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển của
đảng là điều kiện tất yếu để giữ vững sự ổn định chính trị” [148, tr.5]. Tuy
15


nhiên, ở đây quyền dân chủ được đề cập chỉ mang tính hình thái, chưa phản ánh
đầy đủ nội dung dân chủ với những yếu tố được thừa nhận một cách rộng rãi,
mà dân chủ còn chung chung, chưa phải là cái phổ biến.
Liên quan đến vấn đề dân chủ hóa, trong bài viết “Toàn cầu hóa hiện nay
và vấn đề dân chủ hóa đời sống xã hội” của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết
học số 01 năm 2006, đã cho rằng: Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, nó tác động
mạnh đến quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực tài chính và vốn đầu tư quốc tế.
Không những thế toàn cầu hóa còn tác động đến quá trình dân chủ hóa cả mặt tích
cực và tiêu cực. Như vậy, qua bài viết tác giả đã chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng
tích cực và tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa tới đời sống của xã hội. Tuy nhiên, tác
giả chỉ nhấn mạnh vấn đề kinh tế còn các vấn đề như chính trị, văn hóa còn chưa
được thể hiện rõ trong quá trình thực thi dân chủ hóa đời sống ở nước ta. Cùng với
bài viết của Nguyễn Trọng Chuẩn, có bài của Philip Cam về “Toàn cầu hóa và
dân chủ”, Tạp chí Triết học, số 02 năm 2006. Trong bài viết của mình, ông đã
nhấn mạnh vấn đề chính trị - xã hội đang đặt ra trước mắt và bàn về cách mà
chúng ta có thể liên hệ với vấn đề kinh tế, tác giả đã trình bày tiêu chuẩn đánh giá
thái độ của người tham gia vào nền kinh tế toàn cầu theo nghĩa là nguyên tắc cho
sự chuyển đổi xã hội - chính trị dưới khẩu hiệu dân chủ. Đây là vấn đề được tập
trung luận giải nhưng chủ yếu đi sâu vào vấn đề kinh tế, còn cách thức để thực
hiện dân chủ hóa trong những lĩnh vực khác của đời sống xã hội ít được đề cập.

Bàn đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, vấn đề này được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, những vấn đề được đưa ra đều xuất phát từ
thực tiễn của đất nước và đặc biệt trước tình hình đất nước ta đang trong thời kỳ
mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới, cho nên, để đảm bảo quyền dân chủ
rộng rãi, nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở.
Để đẩy mạnh quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, vai trò của các
đoàn thể trong hệ thống chính trị của nước ta rất to lớn. Tác giả Phan Xuân Sơn
16


trong cuốn “Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay”,
xuất bản năm 2003. Trong đó, tác giả đã phân tích vai trò, vị trí của các đoàn thể
nhân dân trong việc thực hiện quy chế dân chủ và chỉ ra những nguyên nhân của
những hạn chế trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ: Thứ nhất, nhiều nơi
còn làm qua loa, đại khái, hời hợt, một số nơi tổ chức rầm rộ lúc đầu rồi sau đó
lại lắng xướng. Thứ hai, một số nơi chưa thành lập Ban Thanh tra Nhân dân, do
vây, trên nhiều mặt, quyền dân chủ còn bị hạn chế, tạo sự hoài nghi, thiếu tin
tưởng trong nhân dân. Thứ ba, nhiều cơ sở chưa phát huy được tính tích cực của
tất cả các thành viên trong hệ thống chính trị, đặc biệt là vai trò của đảng và việc
quản lý của chính quyền, nên việc phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân vì
thế cũng rất hạn chế, còn mờ nhạt. Đây là những những nguyên nhân làm cho
quá trình thực hiện dân chủ chưa đúng nghĩa của nó.
Bên cạnh những hạn chế đã đề cập trong nghiên cứu của mình, tác giả còn
chỉ ra những thành tựu to lớn của các đoàn thể nhân dân trong quá trình thực thi
quyền dân chủ, đó là: Thực hiện chức năng giám sát của mặt trận phối hợp với
Ban Thanh tra Nhân dân và các tổ chức thành viên đã phát hiện và đấu tranh
được nhiều vụ việc giúp chính quyền xem xét, xử lý, tham gia củng cố các tổ
chức hòa giải, tranh chấp đất đai, hôn nhân gia đình. Các tổ chức đoàn thể đã
nâng cao một bước nhận thức về dân chủ, về vai trò của các đoàn thể nhân dân

trong đảm bảo dân chủ. Trình độ giác ngộ chính trị, ý thức về quyền lợi chính trị,
nhận thức vai trò, chức năng của tổ chức mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong
tiến trình dân chủ hóa đời sống xã hội được nâng lên. Bước đầu tạo cho dân, cho
các đoàn thể nhân dân có điều kiện, có chỗ để thực hiện quyền làm chủ. Nhân
dân cũng thẳng thắn góp ý kiến phê bình cán bộ, hăng hái tham gia các công việc
chung của thôn, cộng đồng và của chính quyền. Nhiều cơ sở đã xây dựng được
hương ước, quy ước, phủ kín việc điều chỉnh các mối quan hệ cụ thể ở địa
phương. Gắn thực hiện dân chủ cơ sở với góp phần xây dựng đảng, chính quyền,
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
17


GS.TS. Hoàng Chí Bảo, trong cuốn “Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông
thôn trong tiến trình đổi mới”, xuất bản 2007. Tác giả đã làm rõ vai trò của dân
chủ và dân chủ hóa trong nông thôn ở nước ta. Qua đó, làm rõ vai trò lý luận và
thực tiễn đối với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đồng thời, tác giả chỉ ra vai trò
thực hiện dân chủ của nông dân và coi vấn đề dân chủ là vấn đề bức xúc của nông
dân, nhưng cũng là động lực để phát triển nông thôn hiện nay, “Nông dân nước ta
là lực lượng xã hội to lớn đã đóng góp một phần quan trọng cả vật chất và tinh
thần, cả tính mạng và của cải, hy sinh cả xương máu của mình để làm nên những
thành quả đó [8, tr.156]. Bằng khảo sát và tổng kết thực tiễn từ việc thực hiện dân
chủ ở cơ sở của các địa phương, tác giả đã chỉ ra những bài học kinh nghiệm quý
báu làm cơ sở để các địa phương khác thực hiện dân chủ ở cơ sở. Thứ nhất, tuyên
truyền, vận động về dân chủ và quy chế dân chủ ở cơ sở phải sâu rộng, thường
xuyên, bằng nhiều hình thức cụ thể, nhiều biện pháp sinh động, thiết thực đối với
người dân, hộ dân tại thôn xóm. Thứ hai, thực hiện quy chế dân chủ là thực hiện
dân chủ, phát huy quyền làm chủ của dân ở cơ sở, do đó quá trình triển khai thực
hiện quy chế là quá trình kết hợp đồng thời xây và chống. Xây dựng phong cách
dân chủ cho cán bộ đối với dân, chống quan liêu, xa dân, tham nhũng trong tổ
chức bộ máy, trong cán bộ có chức có quyền. Thứ ba, thực hiện quy chế dân chủ ở

cơ sở, đặc biệt ở nông thôn phải tạo được động lực để thúc đẩy kinh tế nông thôn,
kinh tế hộ nông dân, kinh tế từng người phát triển, do đó dân chủ trong kinh tế
chẳng những đảm bảo phát triển kinh tế mà còn đem lại sự thụ hưởng lợi ích công
bằng cho mỗi người dân, động lực thực sự của dân chủ và quy chế dân chủ là ở
đó. Thứ tư, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nhất là nông thôn phải chú trọng
phát huy tác dụng của các thiết chế xã hội có tính tự quản cộng đồng của dân. Thứ
năm, thực hiện quy chế dân chủ thực sự là một cuộc thử thách về đạo đức, năng
lực, bản lĩnh. Chỉ có tổ chức mạnh, cán bộ tốt thì mới có phong trào mạnh.
Qua nghiên cứu của tác giả, điểm nhấn mạnh của việc thực hiện dân chủ ở
nông thôn đó là việc coi thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế là điều kiện để
18


người dân thụ hưởng lợi ích từ quy chế thực hiện dân chủ. Hơn nữa, thực hiện
quy chế dân chủ ở nông thôn được xem như là lăng kính để xem xét năng lực
lãnh đạo công tác thực hiện dân chủ, tác giả xem đó là việc thử thách về đạo đức
của cán bộ, vì đạo đức là gốc của cán bộ. Tuy nhiên, bài viết của tác giả chỉ tiếp
cận vấn đề thực hiện quy chế dân chủ trong nông thôn mà chưa đề cập đến việc
thực hiện dân chủ trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp.
Thực hiện dân chủ là động lực để phát triển các mặt của đời sống của
nhân dân, trong bài viết “Quan điểm của Đảng về dân chủ và việc thực hiện dân
chủ ở nước ta hiện nay” của Mai Thị Qúy – Nguyễn Thị Chinh, Tạp chí Triết
học, số 3(262) năm 2013. Với bài viết của mình, họ đã làm nổi bật một số nội
dung cơ bản về bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, quan điểm
của Đảng ta về dân chủ trong Văn kiện Đại hội XI, thực trạng về dân chủ và đề
xuất một số giải pháp nhằm phát huy dân chủ ở nước ta. Bên cạnh những thành
tựu đạt được, các tác giả còn chỉ ra một số hạn chế trong quá trình thực hiện dân
chủ ở nước ta hiện nay như: Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một
vài lĩnh vực còn bị vi phạm, thực hành dân chủ còn mang tính hình thức, có tình
trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng

đến an ninh trật tự xã hội. Hiện tượng tham nhũng khá phổ biến, làm thất thoát
tài sản nhân dân, làm suy yếu bộ máy nhà nước, làm giảm lòng tin của nhân dân
đối với sự lãnh đạo của đảng và sự quản lý của nhà nước. Bên cạnh đó, một số
chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước còn chưa phù hợp với nhân dân,
các chính sách đưa ra chưa thực hiện nghiêm túc. Đồng thời, trình độ văn hóa,
hiểu biết về chính sách, pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế. Qua
đây, tác giả chỉ ra các giải pháp cụ thể để thực hiện dân chủ mang lại hiệu quả.
Tuy nhiên, nguyên nhân của những yếu kém của việc thực hiện dân chủ chưa
được làm rõ, mới chỉ ra hạn chế trong quá trình thực hiện dân chủ. Những hạn
chế đó còn mang tầm vĩ mô chưa mang tính cụ thể của từng cơ sở, chưa chỉ ra
cách thức thực hiện dân chủ đầy đủ cho mọi đối tượng thực hiện.
19


Trong bài viết của Lê Thi “Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn đề tăng
cường ý thức trách nhiệm của nhà nước”, Tạp chí Triết học, số 08 năm 2009, tác
giả chỉ ra rằng: Chính phủ tồn tại để phục vụ nhân dân, nhân dân là các công dân
của nhà nước dân chủ, chứ không phải là đối tượng của nhà nước. Khi nhà nước
bảo vệ quyền của công dân thì đáp lại, công dân trung thành với nhà nước của họ.
Như vậy, tác giả đã chỉ ra vị trí trung tâm của nhà nước đó là dân. Dân là chủ thể
của quyền lực chính trị. Tuy nhiên, ở đây chưa đi sâu vào các lĩnh vực của quyền
dân chủ mà chỉ nghiên cứu chế độ dân chủ mang tính lý luận, đồng thời chỉ rõ
trách nhiệm của nhà nước đó là yêu cầu cơ bản nhất trong bài viết của mình.
Cơ chế thực hiện dân chủ là nhu cầu cần thiết để thực hiện dân chủ, tác
giả Lê Thanh Thập, trong luận án Phó tiến sĩ Khoa học Triết học, năm 1995 đã
chỉ ra rằng: Việc thực hiện dân chủ ở nước ta còn phụ thuộc vào cơ chế thực hiện
dân chủ. Bằng lý luận của mình, tác giả chỉ ra thực trạng dân chủ và cơ chế thực
hiện dân chủ ở nước ta hiện nay. Đồng thời, qua đó chỉ ra một số giải pháp cơ
bản nhằm tiếp tục xây dựng nền dân chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa và
hoàn thiện cơ chế thực hiện dân chủ. Một là, giáo dục ý thức dân chủ nhằm nâng

cao năng lực thực hành dân chủ của nhân dân và hoàn thiện cơ chế thực hiện nó.
Hai là, đổi mới hệ thống chính trị nhằm hoàn thiện cơ chế thực hiện dân chủ. Ba
là, tiếp tục chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
để tạo ra tiền đề vật chất cho sự phát triển dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ.
Tuy nhiên, những giải pháp mà tác giả chỉ ra trên cơ sở tiếp cận về lý luận chung
cho việc ban hành cơ chế thực hiện dân chủ mà chưa đi sâu vào những giải pháp
cụ thể cho từng loại hình cơ sở để thực hiện.
1.2. Các công trình nghiên cứu về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và thực
trạng thực hiện quy chế dân chủ trong các trường đại học và cao đẳng
Bàn đến quy chế thực hiện dân chủ và vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở, được Đảng và Chính phủ và nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Năm 2001, từ
thực tiễn của đất nước đang đặt ra nhiều vấn đề về thực hiện dân chủ, Ban Tổ
20


chức - Cán bộ Chính phủ ban hành cuốn “Hướng dẫn triển khai quy chế dân chủ
cơ sở”. Bằng tổng kết việc ban hành và triển khai quy chế thực hiện dân chủ. Các
tác giả chỉ ra những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện dân chủ và nhấn
mạnh: Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo ra động lực mới thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh những thành tựu đạt được, các tác giả
còn chỉ ra phương pháp và kinh nghiệm thực hiện quy chế dân chủ và khẳng định:
Qua thực tiễn thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, đã nảy sinh những hạn chế và
yếu kém của việc thực hiện quy chế dân chủ, việc thực hiện quy chế dân chủ chưa
được triển khai đồng bộ, chưa thành nề nếp làm việc thường xuyên ở cơ sở.
Dương Xuân Ngọc (chủ biên) trong cuốn “Quy chế thực hiện dân chủ ở
cấp xã, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, xuất bản năm 2000. Tác giả đã làm
rõ vai trò của nhân dân trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở xã. Đồng thời, chỉ
ra những thành tựu và hạn chế của nhân dân trong việc thực hiện quy chế dân
chủ. Qua đó, tác giả nêu ra những giải pháp chủ yếu để nhằm hoàn thiện và thực
hiện có hiệu quả quy chế thực hiện dân chủ ở xã hiện nay.

Việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ là nhiệm vụ cơ bản trong quá trình
thực hiện dân chủ. Vấn đề ở chỗ, việc thực hiện quy chế dân chủ như thế nào? lại là
vấn đề của đối tượng thực hiện. Bàn đến vấn đề này, nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu rất cụ thể ở cơ sở, nơi mà mọi chủ thể thực hiện dân chủ đang đòi hỏi.
“Hướng dẫn thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” là bài sưu tầm và
tuyển chọn của Luật gia Đào Thanh Hải, xuất bản năm 2001. Tác giả đã hệ
thống các văn bản hướng dẫn thực hiện quy chế dân chủ một cách đầy đủ, qua
đó giúp mọi đối tượng thực hiện dân chủ hình dung về hệ thống các văn bản
pháp quy được ban hành của các cấp từ Trung ương đến địa phương và lấy
đây làm cơ sở cho các cấp, các ngành vận dụng vào địa phương để thực hiện
xây dựng quy chế dân chủ tại cơ sở.
Tác giả Nguyễn Cúc với cuốn “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
trong tình hình hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, xuất bản năm
21


2002. Ông đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực
hiện dân chủ ở cơ sở, đồng thời kiến nghị một số giải pháp giúp đảng và nhà
nước có luận cứ khoa học hoàn thiện quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở và
chỉ ra rằng: Trong thời gian qua, việc thực hiện quy chế dân chủ kết quả đạt
được chưa vững chắc, triển khai thiếu đồng đều ở các địa phương, khu vực
chưa thường xuyên, liên tục, dân chủ hình thức còn phổ biến. Lĩnh vực dân
chủ về kinh tế chưa được triển khai sâu rộng. Dân chủ trong cơ quan hành
chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước chưa được thực hiện mạnh mẽ.
Cuốn “Dân chủ ở xã, phường, thị trấn với các quyền dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” của Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý, xuất bản năm
2003. Các tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân khách quan của việc thực hiện
quy chế dân chủ ở xã, phường và thị trấn vẫn còn gặp nhiều khó khăn, không
phải nơi nào, lúc nào cũng thực hiện được, vẫn còn nhiều điều bức xúc trong
nhân dân, tình trạng khiếu kiện, tố cáo vẫn còn xuất hiện ở nhiều nơi. Nguyên

nhân của tình trạng này bắt nguồn từ ý thức làm chủ, tính tích cực, chủ động
trong nhân dân ở nhiều nơi chưa cao, người dân thiếu thông tin về các vấn đề
quan trọng ở địa phương, không hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của mình.
Nhiều cán bộ cấp xã còn hạn chế về chuyên môn, thiếu hiểu biết về pháp luật,
nhiều cơ chế hiện hành, sự công khai, minh bạch chưa được bảo đảm một
cách vững chắc. Do vậy, nhân dân chưa thực hiện được quyền kiểm tra, giám
sát của nhân dân, làm phát sinh tệ nạn quan liêu, xa rời nhân dân và tham
nhũng của không ít cán bộ chính quyền các cấp.
Tuy nhiên, việc chỉ ra tình hình thực hiện quy chế dân chủ của các tác
giả phần nào đã phản ánh một cách tổng thể về thành tựu và nguyên nhân yếu
kém của việc thực hiện quy chế dân chủ và đề ra một số giải pháp cơ bản,
nhưng những giải pháp đó là những giải pháp chung cho mọi loại hình dân chủ
ở cơ sở, chưa tiếp cận việc thực hiện quy chế dân chủ cho mỗi loại hình cụ thể
để thực hiện dân chủ ở cơ sở.
22


×