VIỆN HẦN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN BẠCH MAI
BẢN SẮC VÀ GIÁ TRỊ
VĂN HÓA TRỐNG - TRỐNG TRẬN TÂY SƠN
Chuyên ngành: Văn hóa dân gian
Mã số: 62 22 01 30
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2016
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Ngô Đức Thịnh
2. PGS.TS. Kiều Trung Sơn
Phản biện 1: PGS.TS. Phạm Tú Hương
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Châm
Phản biện 3: GS.TS. Nguyễn Chí Bền
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện, tại Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, quận Thanh
Xuân, Hà Nội, phòng
vào hồi
Có thể tìm đọc luận án tại:
- Học viện Khoa học xã hội
- Thư viện Quốc gia
ngày
tháng
năm 2016
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình Định được mệnh danh là miền “đất võ, trời văn”, đất “địa linh
nhân kiệt”, là cái nôi của nghệ thuật dân gian bài chòi, hát bội, võ Tây
Sơn... Gắn với những loại hình nghệ thuật độc đáo đó là trống trận Tây
Sơn, một nhạc khí đang được coi là biểu tượng văn hóa vùng đất võ.
TTTS được coi là môn nghệ thuật kép “hai trong một”. Võ và nhạc
có quan hệ biện chứng, tôn tạo nhau, song hành cùng nhau như thế nào,
vẫn còn nhiều tiềm ẩn.
TTTS có liên quan mật thiết, có nét tương đồng, giao thoa với hát
bội, bài chòi về các mặt: tính năng, nghệ thuật trình diễn, biên chế dàn
nhạc, phương thức trình diễn và âm hưởng nhạc điệu.
Nghiên cứu trống – trống trận Tây Sơn ở Bình Định với vai trò là
“thủ lĩnh” trong các dàn nhạc võ, gắn kết giao thoa với hát bội, bài chòi,
trong lễ hội trên nền cảnh văn hóa trống Việt và mối quan hệ tương tác,
lan tỏa rộng khắp trong đời sống cộng đồng đương đại một cách có hệ
thống là công việc có tính cấp thiết, góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc
và giá trị văn hóa trống mà đỉnh cao là trống trận Tây Sơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra được những đặc trưng bản sắc độc đáo trong cấu tạo, âm
thanh, nghệ thuật diễn tấu điêu luyện, đượm sắc màu võ thuật của trống
trận Tây Sơn ở Bình Định, đồng thời, nhận định giá trị văn hóa của
TTTS.
Nhận định giá trị của TTTS có vai trò quan trọng trong đời sống
đương đại. Âm hưởng nhạc điệu của TTTS là nguồn cảm hứng cho các
nhạc sĩ, nghệ sĩ sáng tạo nên hàng trăm tác phẩm ở nhiều thể loại nghệ
thuật khác nhau và đang được sử dụng với tần xuất cao trong hầu hết các
lễ hội văn hóa truyền thống ở Bình Định
2
Tìm luận cứ chứng minh: trống trận Tây Sơn đang được coi là biểu
tượng văn hóa của Bình Định.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu bản sắc và giá trị văn hóa của trống trận Tây Sơn trên
nền cảnh văn hóa trống Việt
- Các tài liệu, ấn phẩm, luận án, luận văn, các bài nghiên cứu liên
quan đến đề tài nghiên cứu, các dàn nhạc trong các bộ môn, loại hình
nghệ thuật, các lễ hội có sự tham gia, có mặt của trống trận Tây Sơn và
các võ công – nghệ nhân, chuyên gia... am hiểu TTTS
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Các vấn đề nghiên cứu chủ yếu được thực hiện tại: Bình Định, nơi
thường diễn ra các lễ hội văn hóa truyền thống, nhất là các lễ hội, chiến
thắng Ngọc hồi Đống Đa
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu hệ thống
4.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: sử học, dân tộc nhạc
học, văn hóa học, xã hội học, nhân học
4.3. Phương pháp điền dã dân tộc học kết hợp với phỏng vấn sâu
và quan sát tham gia
4.4. Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Bản sắc văn hóa trống trận Tây Sơn đó là, nghệ thuật “võ trong
nhạc”, hàm ý nghĩa, cùng một lúc, sắc võ, đòn, thế võ siêu đẳng thời Tây
Sơn không chỉ được hiển thính rõ nét trong “tiếng trống - võ thanh” mà
còn được hiển thị gần như nguyên dạng trong điệu nghệ “múa trống - võ
hình” của võ công - nghệ nhân.
Giá trị văn hóa trống trận Tây Sơn thể hiện qua: Bài bản âm nhạc
trống có sự tích hợp nét tinh túy của một số làn điệu tuồng, giao thoa với
3
bài chòi, lồng ghép với võ thuật, tạo nên “bộ gen” quý có thể “di truyền”
qua các thời đại; Âm hưởng, nhạc điệu dân gian trống trận Tây Sơn là
nguồn cảm hứng sáng tạo âm nhạc đương đại và đang có sức sống lan
tỏa trong các lễ hội truyền thống. Trống trận Tây Sơn trong tâm thức
người Bình Định là biểu tượng văn hóa đất võ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận án phản ánh những thuộc tính và mối quan hệ biện chứng cơ
bản nhất, bản sắc và giá trị văn hóa trống trận Tây Sơn trong bối cảnh,
nền tảng “văn hóa trống” Việt Nam. “Văn hóa trống”, một khái niệm
mở, có thể trở thành một lí thuyết mới, nền tảng, hướng tiếp cận cho nhà
khoa học nào đó muốn nghiên cứu những bộ trống đặc sắc khác trên
nhiều địa phương, Quốc gia dân tộc.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Một số phần trong đề tài luận án này có thể được sử dụng làm giáo
trình trong các cơ sở đào tạo nhạc công trình diễn trống trận Tây Sơn.
- Từ việc xác định được bản sắc và giá trị văn hóa Trống trận Tây
Sơn trong bối cảnh văn hóa trống Việt Nam, sẽ nâng cao nhận thức của
cá nhân, kết nối cộng đồng bền chặt, tự hào về những truyền thống văn
hóa, lịch sử được trừu xuất trong biểu tượng văn hóa trống trận Tây Sơn,
cùng yêu mến, tôn tạo, gìn giữ và phát huy những giá trị và bản sắc của
môn nghệ thuật độc đáo chỉ có ở Bình Định.
7. Bố cục của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
Chương 2: Trống trận Tây Sơn trên nền cảnh văn hóa trống Việt Nam
Chương 3: Bản sắc trống trận Tây Sơn – nghệ thuật võ trong nhạc
Chương 4: Trống trận Tây Sơn – gắn kết giao thoa, cảm hứng sáng
tạo và sức sống lan tỏa
4
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1. 1. Địa bàn nghiên cứu
1.1.1. Địa bàn nghiên cứu
Bình Định là mảnh đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá Sa Huỳnh,
từng là cố đô của vương quốc Chăm, nơi đây còn nổi tiếng bởi truyền
thống thượng võ và có nền văn hoá đa dạng phong phú với các loại hình
nghệ thuật như bài chòi, hát bội, nhạc võ Tây Sơn. Người khởi nguồn
sáng tạo bộ môn nghệ thuật trống trận Tây Sơn, từ mục đích ban đầu là
luyện binh và xung trận. Từ môn võ trống dùng để luyện võ, Quang
Trung đã sử dụng để luyện quân, điều binh, khiển trận, góp phần làm nên
những chiến công kỳ vĩ, thống nhất non sông bờ cõi. Trống trận Tây Sơn
ra đời từ đó.
1.1.2. Điểm, luận tư liệu
1.1.2.1. Nhóm tài liệu liên quan mật thiết đến lý thuyết nghiên cứu
Gồm các tài liệu dưới dạng sách chuyên khảo như: Tìm về bản sắc
Việt Nam, cơ sở văn hóa Việt Nam và các bài tham luận bàn về giá trị,
hệ giá trị văn hóa Việt Nam.
1.1.2.2. Nhóm tài liệu liên quan đến cơ sở lí luận của luận án
Bao gồm các tài liệu liên quan đến địa bàn nghiên cứu, Quang Trung –
Nguyễn Huệ, TTTS và liên quan như: võ thuật, tuồng, bài chòi.
1.1.3. Nhận định
- Nhóm tài liệu để sử dụng cho cơ sở lý thuyết tương đối đầy đủ,
tuy nhiên, các tư liệu viết về trống và dàn nhạc trong các loại hình nghệ
thuật đặc sắc ở Bình Định còn quá nghèo nàn.
- Đối với nhóm tài liệu nghiên cứu về trống trận Tây Sơn, nhạc võ
Tây Sơn, trống võ Tây sơn trong các luận văn thạc sĩ và trong các bài khoa
5
học, nghiên cứu trước đây, chưa khai thác triệt để chất võ vốn có trong
lòng bản âm nhạc trống, hoặc nếu có thì hết sức sơ lược.
Từ những phân tích về tài liệu, đặt ra nhiệm vụ cần phải tập trung giải
quyết trong luận án đó là:
- Xây dựng, hình thành khái niệm “Văn hóa trống“
- Phát hiện đặc trưng bản sắc TTTS và lý giải là bộ môn võ nghệ
thuật “hai trong một” – “Võ trong nhạc”.
- Nhận định giá trị văn hóa TTTS, tương tác ảnh hưởng đến đời
sống âm nhạc đương đại và lan tỏa trong các lễ hội truyền thống.
- Tìm các luận cứ để chứng minh trống trận Tây Sơn đang được coi
là biểu tượng văn hóa Bình Định.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Một số khái niệm liên quan đến luận án
- Phân tích một số khái niệm văn hóa liên quan đến việc xây dựng,
hình thành khái niệm văn hóa trống:
“Văn hóa trống là tổng thể những giá trị, chức năng, đặc trưng
nghệ thuật của trống; là cách ứng xử của con người đối với trống từ khi
được chế tác, sử dụng đến những ảnh hưởng, tương tác trong môi trường
diễn xướng, đáp ứng được nhu cầu, mục đích khác nhau của đời sống
cộng đồng”.
Khái niệm trống trận Tây Sơn: “Trống trận Tây Sơn là một dàn
nhạc khí gồm: bộ 12 trống chiến đóng vai trò chủ đạo, được biên chế
cùng với trống chầu, kèn xô na, nhị, mõ, cồng, và não bạt (chập chõa –
chũm chọe).
- Phân tích một số khái niệm về bản sắc, bản sắc văn hóa làm nền
tảng, hướng tiếp cận, nhận định bản sắc văn hóa TTTS, đó là những đặc
trưng về kết cấu, tính giai điệu của bộ 12 trống, và đặc biệt, khi bài bản
nhạc trống được vang lên bởi nghệ thuật kích âm, “múa trống của võ công
– nghệ nhân, chính lúc đó, hiện lên những âm thanh võ, đòn, thế võ siêu
6
đẳng trong các bài võ của các tướng lĩnh thời Tây Sơn sáng tạo ra, mà
người thưởng thức có thể nghe, thấy được.
Phân tích một số khái niệm giá trị, giá trị văn hóa làm nền tảng,
hướng tiếp cận, xác định giá trị văn hóa TTTS đó là: TTTS mang trong
mình bộ gien quý được tạo bởi qua gắn kết giao thoa với Tuồng, bài chòi
và với võ thuật; Những âm hưởng nhạc điệu dân gian của trống trận Tây
Sơn là nguồn cảm hứng sáng tạo, ảnh hưởng rất lớn đến thủ pháp sáng
tác của nhiều nhạc sĩ, tạo ra hàng trăm tác phẩm ở nhiều thể loại âm nhạc
đương đại; Và đang có sức sống lan tỏa, được sử dụng với tần xuất cao
trong hầu hết các lễ hội truyền thống. Trống trận Tây Sơn trong tâm thức
người Bình Định là biểu tượng văn hóa đất võ.
1.2.2. Giả thuyết nghiên cứu của luận án
Ra đời từ nhạc lễ, võ trống, chiết được những nét tinh túy của tuồng, lồng
ghép với võ thuật, gần gũi với bài chòi cùng với chức năng đa dạng, mầu âm
độc đáo, phương thức thể hiện linh hoạt và điêu luyện trong nghệ thuật diễn
tấu; được sử dụng tần xuất cao trong các lễ hội, nhất là, lễ hội chiến thắng
Ngọc Hồi – Đống Đa, festival võ thuật cổ truyền Quốc tế tại Bình Ðịnh, lễ hội
trống và các nhạc cụ gõ Quốc tế tại Cố đô Huế; trống trận Tây Sơn đang được
coi là biểu tượng văn hóa Bình Định.
Tiểu kết chương 1
Chúng tôi đã phân tích các khái niệm liên quan để tìm hướng tiếp cận
làm nền tảng để nhận định, hình thành khái niệm của luận án gồm: khái
niệm “Bản sắc Văn hóa TTTS“, và “Giá trị Văn hóa TTTS“, từ đó làm cơ
sở lý thuyết cho việc hình thành khái niệm của luận án.
7
Chương 2
TRỐNG TRẬN TÂY SƠN TRÊN
NỀN CẢNH VĂN HÓA TRỐNG VIỆT NAM
2.1. Nền cảnh văn hóa trống Việt Nam - Đặc tính và các chức năng
2.1.1. Đặc tính cơ bản của trống
2.1.1.1. Phong phú về thể loại, kiểu dáng
Thứ tự theo chất liệu chế tác (đồng, gỗ, sành), kích thước (đại, trung,
tiểu cổ, trống Việt Nam có các loại thể sau: trống đồng, trống Sấm, trống
đại, trống chầu, trống trận, trống bồng, trống cơm trống bỏi... Và trống
sành của dân tộc Cao Lan.
2.1.1.2. Độc đáo về màu âm
Tùy vào vị trí và cách kích âm có thể tạo ra các âm thanh như: tong,
thờn, tùng, thùng, tang, táng, tỏng, tịch, cắc, rù. Khi đánh mau trong một
chỗ gọi là tà roong, tà rờn, tà rùng, tà ráng….
2.1.1.3. Linh hoạt trong phương thức thể hiện
Trống Việt Nam rất linh hoạt trong phương thức thể hiện, có thể
trình diễn độc lập hoăc tổ hợp thành dàn, phối hợp với một số nhạc cụ
khác tạo nên những dàn nhạc đặc trưng cho miền vùng.
2.1.1.4. Tinh xảo trong chế tác
Trong chế tác trống, có một số nét văn hóa độc đáo: chỉ truyền nghề
cho người trong họ, cho con trai. Khi khởi tác và khánh thành, có những
nghi thức cúng tế, rước rất bài bản. Mỗi làng nghề, thân tộc đều có
những bí quyết chế tác riêng, với kỹ xảo tạo mặt, thân trống, bưng trống
theo quy trình nghiêm ngặt...
2.1.2. Các chức năng văn hóa của trống
2.1.2.1. Trống trong đời sống tâm linh
Trong đời sống tâm linh, trống thường được dùng nhiều trong việc
tế, lễ, cầu, nhất là trong các lễ cầu mưa. Khai tràng, lễ chùa, đám tang...
8
2.1.2.2. Trống trong đời sống sinh hoạt
Trống thường sử dụng với chức năng thông tin như: báo động khi có
vỡ đê, hỏa hoạn, múa lân (còn gọi là múa sư tử, thường được tổ chức vào
đêm trung Thu hoặc mừng một sự kiện như được mùa, công trình mới.
2.1.2.3. Trống luyện võ,
Thời Tây Sơn, trống (cổ) là một môn võ thuật, võ công được luyện
trên 17 chiếc trống, về sau được tăng dần lên đến 45 chiếc.
2.1.2.4. Trống trong các dàn nhạc truyền thống, cổ điển, hiện đại
Trống trong dàn nhạc Tuồng luôn trình tấu cùng Kèn, Nhị, ngoài ra
còn có đàn Bầu, Nhị 2, Sáo, Tiêu, Thập Lục, Nguyệt, Đàn Tam, Hồ
Trầm và một chiếc trống chầu dành cho khán giả dùng để khen chê diễn
viên. Trống chiến trong tuồng được phong là “phó sư“ dàn nhạc.
Trong dàn nhạc bài chòi gồm 01 trống chầu, có thể có vài 3 chiếc
trống chiến, cùng với song loan, nhị, sáo, đàn bầu...
Trong dàn nhạc chèo, người ta thường nói: “Phi trống bất thành
chèo”. Ngày nay, dàn nhạc Chèo thường chỉ có 5, 6 nhạc công và mỗi
nhạc công có thể sử dụng được 1 hoặc 2 nhạc cụ. Với bộ gõ, hiện thường
dùng là trống đế, thanh la, mõ, trống cơm.
Trống trong dàn nhạc ca trù, gồm 3 nhạc cụ: thứ nhất là cổ phách 3
lá; thứ hai đàn đáy, giữ chức năng đệm; thứ ba trống chầu, dùng để chấm
ngắt câu văn và khen chê giọng hát, tiếng đàn.
Trống trong dàn Quân nhạc, biên chế dàn trống gồm vài ba chiếc
cassa (trống cái), và dăm bảy chiếc trống con (kessner).
2.1.2.5. Trống trong lễ hội dân gian
Trong các lễ hội cồng chiêng, trống giữ vị trí quan trọng bởi, vừa
cùng hòa tấu vừa đảm nhiệm chức năng báo hiệu cho nhạc cồng chiêng
tiếp tục hay ngừng để chuyển sang khúc nhạc khác.
Lễ hội đâm trâu của người Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng, được tổ
chức tại nhà rông. Suốt đêm, họ ăn thịt lợn, uống rượu, múa và đánh
9
trống, cồng, chiêng, thúc giục mọi người đến xem cảnh đâm trâu truyền
thống.
Lễ hội Đua thuyền, được tổ chức hàng năm, vào mùa Thu đến Xuân.
Vào lễ hội, từng đoàn thanh niên nam nữ các làng có thuyền đua với cờ,
hoa, chiêng, trống chạy bộ dọc hai bờ sông cổ vũ thuyền đua của làng mình.
Lễ hội đấu vật được tổ chức vào mùa Xuân từ mồng 4 đến khoảng
15 tết. Hai bên trải chiếu hoa để các đô vật lễ thần trước khi đấu. Hai
trống cái do già làng cầm trịch, đánh ba tiếng một, điều khiển trận đấu
2.2. Trống trận Tây Sơn – đặc tính kết cấu và nghệ sĩ diễn tấu
2.2.1. Đặc tính kết cấu bộ 12 trống và các các nhạc khí trong dàn nhạc
trống trận Tây Sơn
Bộ 12 trống có kích thước đường kính từ 20 đến 40 cm, được xếp
trên một giá sắt, thành 3 hàng theo thuyết Tam tài, Thiên – Địa – Nhân,
hàng trên cùng (Thiên) gồm 5 chiếc trống có kích thước lớn hơn cả, hàng
giữa (Địa) gồm 4 chiếc có kích thước vừa, hàng dưới cùng (Nhân) là 3
chiếc có kích thước nhỏ hơn.
Trống chầu được biên chế trong dàn nhạc đóng vai trò cực kì quan
trọng. Âm thanh của trống chầu trầm, vang xa, có thể đánh điểm hoặc
gây không khí, tạo cao trào…
Kèn xô na được dùng chủ yếu trong các dàn nhạc đám ma, tế lễ và
dàn nhạc sân khấu tuồng. Trong các dàn nhạc dân tộc, kèn là một thành
viên ít khi thiếu trong bộ ba trống – kèn – nhị.
Nhị, miền Nam hay gọi là đàn cò, trong dàn trống trận Tây Sơn, nhị
chạy cùng giai điệu với kèn xô na, góp làm cho dàn nhạc thêm đầy đặn.
Cồng là một nhạc khí bộ gõ được đúc bằng kim loại đồng Cồng trong
dàn trống trận Tây Sơn chỉ điểm xuyến tạo kịch tính, thêm hoành tráng.
Mõ trong dàn trống trận Tây Sơn, có hiệu quả cao trong việc giữ nhịp
cho dàn nhạc và mô tả nhịp điệu tiến quân thần tốc của quân Tây Sơn.
Não bạt thuộc bộ gõ được dập bằng đồng đồng, đường kính từ 25-30
cm. Trong dàn nhạc, não bạt hỗ trợ rất đắc lực để tôn bộ trống lên,
10
2.2.2. Nghệ sĩ diễn tấu - võ công, nghệ nhân
Trước 1954 có Thị Dần và nữ cao thủ tên là Châu Thị Đăng. Ngoài
ra còn có ông Tám Ngang ở Bình Khê, ông là người sử dụng được 17
chiếc trống.
Từ 1954 đến 1975, có Văn Bá Anh, Trần Công Mỹ và Trương Văn
Trí đánh 12 trống. Tiết mục độc tấu 12 trống đã được đi dự Festival thanh
niên thế giới tổ chức tại Maxcơva năm 1957.
Sau 1975 đến nay, ở Bảo tàng Quang Trung, Tây Sơn có nghệ nhân
diễn tấu số 1 TTTS Nguyễn Thị Thuận, Ngọc Mai. Ở Nhà hát tuồng Đào
Tấn Bình Định có NSƯT Thế Dân và nghệ sĩ Hoàng Thanh Bình.
2.3. Tính cách đặc biệt, vị thế độc tôn và sức thu phục du khách của
trống trận Tây Sơn trong bối cảnh văn hóa trống
Trong kết cấu bộ 12 trống có một phẩm chất đặc biệt về âm thanh học đó
là, tính giai điệu. Trống trận Tây sơn sở hữu “bộ gien“ quí được tạo bởi,
gắn kết, giao thoa, của trống trận Tây Sơn với tuồng, bài chòi, võ thuật.
So với bình diện văn hóa trống Việt, TTTS ở vị thế độc tôn đó là,
nhạc lễ thiết triều, thăng quan tiến chức, điều binh khiển trận; Trình tấu
độc lập và làm nhạc nền cho biểu diễn võ thuật
Trống trận Tây Sơn được xếp vào hàng kỷ lục về mức độ thu hút
khách. Mỗi năm có đến hàng triệu lượt người về dự lễ chiến thắng Ngọc
Hồi – Đống Đa tại Bình Định và Hà Nội.
Tiểu kết chương 2
Trống Việt Nam, phong phú về thể loại, đa dạng chức năng, độc
đáo về mầu âm và tính xảo trong chế tác. TTTS ở Bình Định có câu tạo
và âm thanh đặc biệt với một lực lượng võ công – nghệ nhân tuy ít
nhưng rất điêu luyện trong nghệ thuật diễn tấu.
11
Chương 3
BẢN SẮC VĂN HÓA TRỐNG TRẬN TÂY SƠN –
NGHỆ THUẬT VÕ TRONG NHẠC
3.1. Bản sắc văn hóa thể hiện qua nghệ thuật âm nhạc trống trận
Tây Sơn
3.1.1. Đặc tính, kết cấu độc đáo của bộ 12 trống
Bộ 12 trống được sắp xếp theo thuyết tam tài: “Thiên – Địa – Nhân
(Trời – Đất – Người), trong đó, trời - dương, đất – âm, con người ở
giữa“, cho rằng con người phải hòa đồng với vũ trụ, nhân đạo cốt ở đắc
trung, trung có nghĩa là ở giữa, bởi vậy trong mọi phương diện như: nghệ
thuật và kỹ thuật, màu sắc, sáng tối, hình khối, động tĩnh… đều lấy sự
dung hòa làm đầu chứ không chú trọng gây cảm giác mạnh, tương phản
hay cực đoan .
Độ cao, âm vực của bộ trống có những điểm đặc biệt, kích thước
đường kính của từng thành viên bộ 12 trống không bằng nhau và độ
căng, chùng da mặt trống khác nhau nên không có trống nào trùng nhau
về cao độ. Âm vực của bộ trống là khoảng một quãng tám rưỡi.
3.1.2. Đặc trưng bài bản âm nhạc dân gian của trống trận Tây Sơn
Bài bản âm nhạc của trống trận Tây Sơn mang tên “trống trận Quang
Trung“. Đây là một bải bản đặc biệt bởi, là một bản khí nhạc dân gian
với chất liệu âm nhạc đậm chất Nam Trung bộ, thang 5 âm: Xang, Xê,
Cống, Líu, Ú, Xáng), nhưng lại có phong cách âm nhạc bác học - thể
loại tiểu phẩm khí nhạc.
Bản khí nhạc “Trống trận Quang Trung“ là một tiểu phẩm khí nhạc
dân gian được cấu trúc thành ba hồi – Gọi là “Sắp”: Tập hợp quân –
Xuất quân, Xung trận – Phá thành và Khải hoàn ca. Nội dung ca ngợi
cuộc hành binh thần tốc của quân đội Tây Sơn tiến quân ra Bắc giải
phóng thành Thăng long, Xuân Kỷ dậu 1789.
12
3.1.3. Điệu nghệ trình diễn ngoạn mục của võ công – nghệ nhân
3.1.3.1. Thủ pháp kích âm bộ 12 trống và trống chầu
Kích âm bằng cặp dùi (roi) nhỏ dài khoảng 30 cm, một đầu to, một
đầu nhỏ. Khi đánh vào âm tùng và âm rụp, hai tay cầm dùi trống theo
hình chữ vê ngược (^), khi đánh vào âm tang và âm cắc thì cầm dùi
theo hình chữ V.
Các âm thanh cơ bản: tùng, tang, rụp, cắc và các âm thanh phụ:
t’trùng, t’rang, t’rụp, t’răc được tạo bởi nhiều thủ pháp khác nhau như:
đánh vào tròng, rìa, tang trống, hoặc đánh 2 dùi trống, không cùng thời
gian, vào các vị trí khác nhau trên mặt trống và tang trống.
3.1.3.2. Phong cách nghệ thuật trình diễn của võ công – nghệ nhân
TTTS chỉ thích hợp với tư thế đứng đánh.Tùy theo tình cảm sắc thái
của, câu nhạc, đoạn nhạc, chủ đề tư tưởng của tác phẩm, người nghệ sĩ
cảm xúc và thể hiện tiết tấu lúc mạnh, lúc nhẹ, lúc đứng thẳng đánh, lúc
lại hơi cúi và đặc biệt nét mặt và ánh mắt cũng rất quan trọng để có thể
đạt được nghệ thuật “thăng hoa”. Lúc này chính là lúc người xem có thể
cảm nhận được rất nhiều đòn thế, võ thuật liên hoàn được tái hiện qua
hình thể diễn xuất của nghệ sĩ tấu trống.
Trình diễn bộ 12 trống, không chỉ phối hợp tốt nhịp nhàng, đồng bộ
giữa tay, chân và thân mình mà còn phải chú ý phối hợp với cả nét mặt,
ánh mắt và khuôn mặt phải có biểu cảm mới thể hiện được hết tình cảm
sắc thái của bản nhạc trống.
3.2. Bản sắc văn hóa thể hiện qua nghệ thuật võ trong nhạc
3.2.1. Bản sắc văn hóa thể hiện qua “Võ thanh“ được hiển thính
trong “tiếng trống“
Đẳng cấp võ của binh sĩ và nài khiển đàn voi trong cường độ và ám
hiệu tiếng trống võ (võ trống). Với cách luyện võ bằng trống, thể trạng
sức khỏe và đẳng cấp võ thuật của binh sĩ được đánh giá căn cứ vào độ
vang của tiếng trống. Nữ tướng – Đô đốc Bùi Thị Xuân luyện đàn voi
chiến bằng ám hiệu tiếng trống, cồng. Tiếng trống nổi lên, voi xông lên,
13
tiếng cồng đánh, voi lùi về, thành thói quen, rồi sau đó voi tập tiến lui
thuần thục theo hiệu lệnh của trống và cồng“ .
Tiếng trống trận - “Võ âm thanh“ trong Hành binh, là hiệu lệnh với
vai trò chỉ huy đại quân, bắt nhịp để quân sĩ đồng loạt hô, reo hò vang
dậy khi vây, hãm thành theo một nhịp điệu tiết tấu đặc biệt.
“Võ trận“ Ngọc Hồi – Đống Đa lịch sử được tái hiện trong âm vang
trống trận Quang Trung
“Võ trận” Ngọc Hồi – Đống Đa, một cách hiểu, đó là, thế trận (cách
dàn binh và hành binh) cùng với những mưu lược, kế sách tài tình và
những đòn (Thần tốc, táo bạo, bất ngờ), được tái hiện bởi tổng hòa âm
thanh vang lên trong 3 hồi (còn gọi là sắp) của bản nhạc trống.
3.2.2. Bản sắc văn hóa thể hiện qua “võ hình“ trong điệu nghệ
“múa trống“
“Quyền công lực“ trong bài luyện Tứ pháp bằng võ trống
Nghe tiếng trống, có thể nhận biết người thực hiện đang đạt được bao
nhiêu “quyền công lực”. Người đã đạt trình độ thượng thặng, tiếng trống
nghe rất giòn giã, ngọt lịm nhờ bộ ngựa (đôi chân) và đôi quyền (cặp tay)
có sự ăn khớp điêu luyện. Người chưa đạt, tiếng trống vang lên rời rạc,
lủng củng, nhịp trống bị loạn bởi tứ pháp chưa có được sự hỗ trợ nhau,
nhịp nhàng, thật sự nhuần nhuyễn.
Trên bộ 12 trống, các đòn thế liên hoàn của võ thuật không được
hiển thị một cách rõ ràng, quyết liệt, mạnh mẽ bằng cách luyện võ trên
dàn võ trống, tuy nhiên, người xem vẫn cảm nhận được qua phong cách
diễn xuất đẹp mắt, điệu nghệ của nghệ sĩ “múa trống“, thoắt hiện lên
nhiều đòn, thế võ thuật hiểm hóc, siêu đẳng thời Tây Sơn, rõ nhất là, các
đòn thế trong bài võ “Yến phi quyền“ của Nguyễn Huệ, “Hùng kê
quyền“ của Nguyễn Lữ, “Song phượng kiếm“ của Bùi Thị Xuân và trong
một số bài "Hình ý quyền linh thú", mô phỏng các con thú như: Hổ
quyền, Miêu quyền, Xà quyền...
14
Tiểu kết chương 3
Trống trận Tây Sơn, thực chất là loại hình nghệ thuật hai trong một,
bao chứa hai thành tố: âm nhạc và võ thuật. Chất võ, đòn thế võ chỉ xuất
hiện trong nghệ thuật trình diễn của võ công – nghệ nhân, làm vang lên
tiếng trống (kích âm dàn trống) và múa trống (diễn xuất điệu bộ của hình
thể), đó chính là: võ âm thanh (tiếng trống) và võ hình (múa trống).
Dàn 12 trống thường được sắp xếp thành 3 hàng (Thiên – Địa –
Nhân). Trống lớn nhất có đường kính là 40 cm, trống nhỏ nhất có đường
kính là 20 cm, theo thứ tự từ nhỏ đến lớn, các trống có đường kính chênh
lệch nhau từ 1 đến 6 cm.
Âm vực của dàn trống là khoảng một quãng tám rưỡi (dung sai ½
cung). Điều này cho thấy trống trận Tây Sơn có âm vực gần giống âm
vực cùa giọng người. Bài bản âm nhạc trống là tác phẩm dân gian có
phong cách âm nhạc bác học.
Các đòn thế võ thuật siêu đẳng thời Tây Sơn, thoắt hiện nguyên hình
trong điệu nghệ múa trống (võ hình) của Võ Công – Nghệ nhân, rõ nhất
là trong các bài võ: Yến quyền của Nguyễn Huệ; Hùng kê quyền của
Nguyễn Lữ; và Song phượng kiếm của Bùi Thị Xuân. Ngoài ra, các đòn
thế võ còn được hiển thị qua nghệ điệu nghệ múa trống của Võ công –
Nghệ nhân trong một số bài võ Hình ý quyền linh thú.
Trống trận Tây Sơn – Nghệ thuật võ trong nhạc, đó cũng chính là bản
sắc độc đáo và giá trị lớn nhất trên nền cảnh văn hóa trống ở Bình Định.
15
Chương 4
GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRỐNG TRẬN TÂY SƠN – GẮN KẾT GIAO
THOA, CẢM HỨNG SÁNG TẠO VÀ SỨC SỐNG LAN TỎA
4.1. Giá trị văn hóa thể hiện qua gắn kết giao thoa trống trận Tây
Sơn với các loại hình nghệ thuật truyền thống, dân gian Bình Định
4.1.1. TTTS gắn kết giao thoa với tuồng
“Sắp” Tập hợp quân – Xuất quân có sử dụng khổ trống “Khách” –
một làn điệu tuồng truyền thống làm tiết tấu chính, có biến hóa tiết tấu
trong và ngoài khuông khổ. “Sắp” Xung trận – Phá thành sử dụng bài
trống “tẩu mã” là tiết tấu chính, có biến hóa tiết tấu trong và ngoài
khuông khổ, có sự thay đổi về tốc độ chậm, nhanh tùy theo tình cảm sắc
thái của bản nhạc. “Sắp“ khải hoàn ca mang âm hưởng của khổ trống bài
“Ba bảy“.
Nghệ thuật “Múa trống” của Võ công – Nghệ nhân giao thoa với
múa tuồng. người nghệ sĩ đều phải cùng một lúc làm hai việc; Đối với
nghệ sĩ diễn tấu trống, kích âm tạo ra võ thanh, múa trống tạo ra võ hình
được thể hiện theo nội dung và chủ đề tư tưởng của tác phẩm, phụ. Cũng
như vậy, ở nghệ thuật múa tuồng, người nghệ sĩ cũng phải cùng một lúc
làm 2 việc: hát và múa. Múa tuồng phải thể hiện được nội dung kịch bản
trong lời hát,
4.1.2. TTTS gắn kết giao thoa với bài chòi
Trống trận Tây Sơn có quan hệ cận huyết và giao thoa với bài chòi,
cùng chịu ảnh hưởng làn điệu tuồng và biên chế dàn nhạc. Các nhạc cụ
trong dàn TTTT và bài chòi đều có mặt trong dàn nhạc tuồng, chỉ khác,
cồng, trong bài chòi, trống , còn có nhị, nguyệt, song loan, sáo, bầu.
4.1.3. TTTS gắn kết giao thoa với võ thuật
TTTS lồng ghép với võ thuật còn gọi là “hai trong một“ hoặc “võ
trong nhạc“. Ngoài ra, TTTS còn còn cộng hưởng với võ thuât qua chưc năng
làm nhạc nền cho biểu diễn võ thuật.
16
4.2. Giá trị văn hóa thể hiện qua cảm hứng sáng tạo âm hưởng nhạc
điệu trống trận Tây Sơn trong các thể loại tác phẩm âm nhạc đương đại
4.2.1. Cảm hứng sáng tạo âm hưởng nhạc điệu trống trận Tây Sơn
trong các thể loại tác phẩm thanh nhạc
Đối với hợp xướng có các tác phẩm: Thăng Long mùa Xuân Đại Thắng
của Nguyễn Văn Hiên và Hùng thiêng Bình Định của Nguyễn Bạch Mai.
Trong hùng thiêng Bình Định, tác giả đã sử dụng các chất liệu bài chòi, âm
hưởng dân gian của bài bản âm nhạc trống trận Quang Trung để làm chủ đề
phát triển các đoạn phức trong hợp xướng.
Đối với ca khúc, hầu hết các tác phẩm đều diễn tả khí phách hào
hùng của Quang Trung – Nguyễn Huệ đồng thời ca ngợi quê hương giàu
đẹp. Tiêu biểu có các ca khúc: “Quang Trung – Hành binh thần tốc”
(Vĩnh An); “Tiếng trống Quang Trung” (Dương Viết Hòa); “Âm vang
trống trận Quang trung” (Khắc Hùng); “Mùa Xuân âm vang thần tốc”
(Đào Minh Tâm); “Hát mãi bản hùng ca” (Đặng Kim Hưng – Kon tum);
“Đất ấm tình người” (Nguyễn Bạch Mai phỏng thơ Văn Trọng Hùng)…
4.2.2. Cảm hứng sáng tạo âm hưởng nhạc điệu trống trận Tây Sơn
trong các thể loại tác phẩm khí nhạc
Đối với âm nhạc tuồng, Tiên phong thể loại này phải kể đến nhạc sĩ
Đào Duy Kiền, đã viết nhạc cho hơn 30 vở tuồng trong đó có 9 vở viết
về Quang Trung – Nguyễn Huệ. Tiêu biểu là nhạc mở màn với tiêu đề
“Xuất trận cho vở “Quang Trung đại phá quân Thanh”(tác giả kịch bản –
Trúc Đường, đạo diễn – Hoàng Chương). Ngoài ra, còn một số nhạc sĩ
khác cũng viết nhạc tuồng như: Lê Yên, Phan Quý...
Đối với nhạc giao hưởng, hợp xướng có các nhạc sĩ: Khắc Hùng,
Thế Tuyên, Phan Ngọc, Nguyễn Văn Hiên, Nguyễn Bạch Mai. Tiêu biểu
là hợp xướng: Hùng thiêng Bình Định và giao hưởng thơ: Cuộc hành
quân thần tốc, tác giả cũng dựa vào mô típ cấu trúc, âm hưởng đề làm
chủ đề phát triển các phần trong bản giao hưởng để diễn tả đoàn quân
Tây Sơn tiến quân ra Bắc giải phóng thành Thăng Long.
17
3. Gía trị văn hóa thể hiện qua sức sống lan tỏa trống trận Tây
Sơn trong lễ hội và trong tâm thức người Bình Định
4.3.1. Sức sống lan tỏa trống trận Tây Sơn trong lễ hội
Tại Hà Nội, cứ vào ngày mồng 5 Tết nhân dân thủ đô thường tổ chức lễ
hội Đống Đa để ôn lại những sự kiện lịch sử đã diễn ra tại nơi đây, đặc biệt
có tục rước rồng lửa đã thành lễ hội truyền thống của người Hà Nội. Sau
đám rước rồng lửa là Lễ dâng hương, lễ đọc văn, cuộc tế diễn ra ở đình
Khương Thượng, lễ cầu siêu ở chùa Đồng Quang.
Lễ hội chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa được tổ chức quy mô hoành
tráng trang trọng tại quê hương người anh hùng áo vải ở khu vực Bảo
tàng Quang Trung, cầu Kiên Mĩ và sân vận động Phú Phong huyện Tây
Sơn Bình Định.
Lễ hội festival quốc tế võ thuật cổ truyền Quốc tế được tổ chức tại
Bình Định, 2 năm một lần nhằm tạo cơ hội cho sự phát triển nền võ thuật
cổ truyền của đất nước, đồng thời quảng bá, giao lưu học hỏi kinh nghiệm
võ thuật của các nước trên thế giới. Qua 5 lần tổ chức, từ năm 2006 2014, Liên hoan quốc tế võ thuật cổ truyền đã góp phần tích cực trong
việc chấn hưng và phát triển nền võ học nước nhà cũng như giới thiệu võ
thuật cổ truyền Việt Nam đến với thế giới.
Lễ hội trống và nhạc cụ gõ Quốc tế - Cố đô Huế, 5 năm một lần
nhằm tôn vinh và bảo tồn các giá trị văn hóa, đồng thời khơi dậy hào khí
Việt Nam trong cộng đồng.
Lễ hội có 2 phần: phần lễ và phần hội. Trong hầu hết các lễ hội văn
hóa truyền thống tại Bình Định, TTTS đều có mặt, đóng vai trò quan
trọng trong cả phần lễ và phần hội và được trình diễn trong không khí
trang trọng, hoành tráng.
Đối với lễ hội chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, Trống trận Tây
Sơn là cái “Đinh“, “Chủ đạo“, được trình diễn mở đầu, sau đó tham gia
làm nhạc nền gần như liên tục trong hầu hết các tiết mục kế tiếp của
chương trình và khi kết thúc, màn trống trận Tây Sơn lại được tái hiện.
18
Trong lễ hội trống và các nhạc cụ gõ Quốc tế tại Cố Đô Huế, TTTS
cũng được biên chế trong dàn hòa tấu cùng với nhiều dàn trống khác và
được trình tấu độc lập nổi bật trong trong các dàn trống tham dự lễ hội.
TTTS có thể được trình diễn độc lập trong tất cả các lễ hội. TTTS
luôn có mặt, thậm chí luôn làm tiết mục mở đầu cho tất cả các phần lễ
cũng như phần hội của các lễ hội chiến thắng Đống Đa, lễ hội võ thuật
cổ truyền Quốc tế tại Bình Định và lễ hội trống và các nhạc cụ gõ Quốc
tế Cố đô Huế. Khi trình diễn độc lập, bài bản thường dùng là nhạc phẩm:
“Trống trận Quang Trung“.
TTTS có thể được trình tấu kép. Vào những năm kỷ niệm chẵn và lễ
hội võ cổ truyền Quốc tế tại Bình Định, cùng một lúc, 2 dàn TTTS được trình
diễn. Cả 2 dàn trống có thể trình tấu song hành nghiêm khắc bài bản gốc
TTTS hoặc có lúc, một dàn tấu giai điệu chính, dàn còn lại có thể phóng tác
với chức năng làm hòa thanh.
TTTS có thể được mô phỏng bằng dàn trống chầu (Cổ trung). Trong
Lễ hội kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa tại gò Đống Đa Hà nội,
lâu nay chưa có dàn trống trận Tây Sơn như ở Bình Định. Tuy vậy, các
nhà tổ chức dùng một số lượng lớn (có thể 2 dàn 12 trống chầu lớn diễn
tấu cùng một lúc) các trống chầu diễn tấu theo âm hưởng bài bản TTTS
của Bình Định.
TTTS có thể phối hợp với dàn trống chầu (trống đại), với các nhạc
cụ gõ khác tạo thành giao hưởng trống. Lễ hội 220 năm chiến thắng Ngọc
Hồi – Đống Đa được coi như một giao hưởng trống. Ban tổ chức lễ hội đã
quyết định sử dụng một dàn trống hoành tráng gồm 100 chiếc trống đại và
9 chiếc trống cực lớn cộng với dàn 12 trống (TTTS) tạo nên một bản giao
hưởng trầm hùng, âm vang mạnh mẽ đầy uy lực.
4.3.2. Sức sống lan tỏa trống trận Tây Sơn trong tâm thức người
Bình Định
Trống trận Tây Sơn ngày nay đã mang trong mình một “bộ gien” quý,
ẩn chứa, “trừu xuất” nhiều giá trị truyền thống ở các phương diện:
19
- Truyền thống yêu nước, anh dũng quật cường chống ngoại xâm của
cha ông, chưa hề khuất phục trước một thế lực hung hãn nào trên thế giới.
- Truyền thống võ – Tây Sơn thượng đạo, ngày nay, một số môn võ
trường phái Tây Sơn được các liên hoan võ Quốc tế (festival võ thuật cổ
truyền Quốc tế tại Bình Định) làm bộ môn quy định bắt buộc trong các
đấu trường. Võ thuật Tây Sơn, một mặt để nâng cao thể lực cộng đồng,
mặt khác, là một biện pháp chống đỡ mọi hiểm họa khôn lường có thể
xảy ra bất cứ lúc nào.
- Truyền thống văn hóa nghệ thuật dân gian Bình Định được thể
hiện qua quan hệ tương tác giao thoa với: tuồng, võ thuật, bài chòi, ảnh
hưởng đến hoạt động sáng tạo nghệ thuật âm nhạc đương đại và lan tỏa
rộng khắp trong các lễ hội truyền thống.
Trong tâm thức người Bình Định, TTTS đang được coi là biểu
tượng văn hóa vùng đất võ.
Tiểu kết chương 4
Trống trận Tây Sơn có quan hệ mật thiết với nghệ tuồng, võ thuật, gần
gũi với bài còi và có ảnh hưởng lớn đến trào lưu hoạt động sáng tạo các
tác phẩm âm nhạc trong thời đại ngày nay.
Trong các hồi (sắp) của nhạc phẩm Trống trận Quang Trung, theo thứ
tự, các âm hình chủ đạo có bị ảnh hưởng từ một số làn điệu cổ của tuồng
gồm: tẩu mã, trống khách, bài ba bảy.
Nghệ thuật diễn xuất của trống trận Tây Sơn và nghệ thuật hát tuồng
cũng có nhiều nét tương đồng và trong diễn xuất của chúng đều hàm chứa,
ảnh hưởng các động tác trình diễn của võ thuật.
Những âm hưởng dân gian của trống trận Tây Sơn còn ảnh hưởng
mạnh mẽ đến phong cách sáng tạo của các nhạc sĩ đương đại khi sáng
tác âm nhạc cho tuồng, ca ngời Quang Trung, ca ngợi quê hương, con
người Bình Định xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và ảnh hưởng đến nhiều
thể loại âm nhạc khác như: giao hưởng, hợp xướng, ca khúc, múa, âm
nhạc lễ hội v.v...
20
Ngày nay, trống trận Tây Sơn được dùng với tần xuất cao trong hầu hết
các lễ hội truyền thống của Bình Định, đặc biệt là trong lễ hội chiến thắng
Ngọc Hồi – Đống Đa vào ngày mùng 5 tết tại Tây Sơn, Bình Định và Đống
Đa, Hà Nội. Ngoài ra, theo chu kỳ 2 đến 5 năm, trống trận Tây Sơn còn
được tham gia vào lễ hội võ thuật cổ truyền Quốc tế tại Bình Định và lễ hội
trống và các nhạc cụ gõ tại Cố Đô Huế.
Như vậy, quá trình tương tác và lan tỏa của trống trận Tây Sơn với
các loại hình nghệ thuật được coi là cái nôi của Bình Định: Tuồng, võ
thuật đã nâng vị thế của trống trận Tây Sơn lên một tầm cao mới, có giá
trị văn hóa hết sức lớn lao trong đời sống cộng đồng. Trống trận Tây Sơn
ẩn chứa hầu hết các truyền thống Bình Định như: truyền thống đấu tranh
chống ngoại xâm, giữ nước, xây dựng quê hương đất nước, truyền thống
võ thuật Tây Sơn Thượng đạo, truyền thống văn hóa nghệ thuật đặc sắc
được coi là cái nôi, tuồng, võ Tây Sơn, Bình Định, bài chòi và âm hưởng
của trống trận Tây Sơn đang còn vang vọng trong đời sống đương đại.
Đặc biệt đối với người dân Bình Định, trống trận Tây Sơn đang được coi
là biểu tượng văn hóa miền đất võ. Đó chính là giá trị tinh hoa văn hóa
của trống trận Tây Sơn.
21
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Với tiêu đề luận án “Bản sắc và giá trị văn hóa trống – trống trận Tây
Sơn“, đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu, đó là, đi tìm và phát hiện thêm các đặc
trưng, bản sắc và giá trị văn hóa của trống trận Tây Sơn trên nền cảnh văn
hóa trống Việt, có kiến trúc hình lăng tháp mà đỉnh cao của nó là trống trận
Tây Sơn.
Một số kết quả đã đạt được như sau:
Thứ nhất, đề xuất thống nhất việc gọi tên dàn trống:
Nên gọi tên của bộ trống 12 chiếc trống chiến được biên chế với 01
trống chầu, kèn xô na, nhị, chũm chọe, mõ ở Bình Định trong các tên gọi lâu
nay của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa như: trống võ Tây Sơn, nhạc võ Tây
Sơn, trống trận Quang Trung là “ trống trận Tây Sơn“.
Thứ hai, xây dựng, hình thành khái niệm mới:
“Văn hóa trống là tổng thể những giá trị, chức năng, đặc trưng nghệ
thuật của trống; là cách ứng xử của con người đối với trống từ khi được
chế tác, đến sức lan tỏa, tương tác trong môi trường diễn xướng, đáp ứng
được nhu cầu, mục đích khác nhau của đời sống cộng đồng”.
Thứ ba, bản sắc văn hóa của trống trận Tây Sơn:
Trống trận Tây Sơn là nhạc khí độc đáo, hiện đang chỉ có ở Bình
Định, có âm vực khoảng gần một quãng tám rưỡi, khoảng một quãng tám
rưỡi (thấp nhất là nốt F thăng – quãng tám nhỏ, cao nhất là nốt H – quãng
tám nhứ nhất trên đàn piano), Theo thứ tự, trống có kích thước nhỏ nhất
(đường kính 20 cm) đến lớn nhất (40 cm), chênh lệch nhau từ nửa cung
đến một cung rưỡi. Sự chênh lệch cao độ như trên, tạo nên giai điệu bộ
trống, có thể trình tấu các bản nhạc ở bất kỳ điệu thức 5 âm nào, có chênh
một vài cô ma lại càng hay.
Phát hiện, lý giải trống trận Tây Sơn là bộ môn võ nghệ thuật “hai
trong một” – “Võ trong nhạc”: “Trong nhạc có võ” và “Võ phải có
22
nhạc”. Chất võ, đòn thế võ thuật siêu đẳng của một số tướng lĩnh triều
đại Tây Sơn sáng tạo ra được hiển thính và hiển thị trong võ thamh và võ
hình qua nghệ thuật diễn tấu điệu nghệ của võ công – nghệ nhân.
Trong âm nhạc trống trận Tây Sơn, chất võ, đòn thế võ chỉ xuất
hiện, nghe, thấy qua nghệ thuật trình diễn của võ công – nghệ nhân khi
cùng một lúc phải kích âm dàn trống làm vang lên “tiếng trống“ theo tình
cảm sắc thái, giai điệu tiết tấu của bài bản nhạc trống, đồng thời, phải
“múa trống“ bằng những điệu bộ hình thể theo ngôn ngữ của võ thuật, lúc đó,
thoắt hiện lên nhiều đòn, thế võ, võ trận hiểm hóc, khắc nghiệt và siêu đẳng
thời Tây Sơn.
Thứ tư, giá trị văn hóa của trống trận Tây Sơn:
Đối với các lễ hội văn hóa dân gian, truyền thống, trống trận Tây Sơn
luôn có mặt, là linh hồn, thống lĩnh xuyên suốt các chương trình lễ, hội,
không những có thể trình tấu độc lập mà còn làm nhạc nền cho các màn
trình diễn võ thuật, đồng diễn trong các sử thi tái hiện chiến thắng Ngọc
Hồi – Đống Đa thường niên vào 5 tết.
Hiện nay, trống trận Tây Sơn đang được trình diễn hàng ngày tại
Bảo tàng Quang Trung, Tây Sơn, Bình Định phục vụ du khách trong
nước và khách Quốc tế từ 5 châu đến tham quan, du lịch.
Âm hưởng nhạc điệu dân gian của trống trận Tây Sơn còn ảnh
hưởng đến phong cách và thủ pháp của nhiều nhạc sĩ trên cả nước qua
hàng trăm tác phẩm âm nhạc ở nhiều thể loại âm nhạc ...Trống trận Tây
Sơn đang được coi như biểu tượng văn hóa Bình Định.
2. Kiến nghị
Thứ nhất, với những nghệ nhân “nối nghiệp” chế tác trống trận
Tây Sơn
Các nghệ nhân cần phải nghiên cứu quy luật âm thanh cơ bản của bộ
12 trống, để cân chỉnh mặt trống tạo tần số âm thanh phù hợp hơn với
bài bản TTTS“.
23
Thứ hai, với nghệ sĩ diễn tấu trống trận Tây Sơn
Về số lượng người diễn tấu được trống trận Tây Sơn ở Bình Định quá
ít. Hiện nay ở Bảo tàng Quang Trung Bình Định chỉ có 2 nghệ sĩ, nhà hát
tuồng Đào Tấn có 2 nghệ sĩ đang được đảm trách biểu diễn TTTS.
- Về trình độ đào tạo, hai nghệ sĩ biểu diễn trống trận Tây Sơn của
bảo tàng Quang Trung đều không biết nhạc lí cơ bản, nếu muốn chơi một
bài mới phải nhờ người hướng dẫn theo kiểu “chuyền tay”
Thứ ba, bài bản trống trận Tây Sơn
- Bản nhạc trống trận Tây Sơn cần phải được khắc phục một số vấn
đề về hình thức cấu trúc. Đây là một bản khí nhạc có thể phân thành từng
phần (hoặc chương). Nếu theo hình thức cấu trúc, hiện tại, bản nhạc đã
được cấu trúc thành 3 sắp, nhưng mỗi sắp, theo chúng tôi vẫn chưa đủ độ
hoành tráng của nó. Việc sáp nhập bài tập hợp quân và xuất quân thành
“Sắp” Tập hợp quân – Xuất quân có thể được nhưng nên cấu trúc lại thành
3 đoạn nhạc.
- Nghiên cứu trên tổng phổ của bản trống trận Tây Sơn còn cho cho
thấy các “Sắp” không cân nhau, các tác giả thấy đoạn tập hợp quân và
xuất quân ngắn quá đã sáp nhập vào với nhau tạo nên “Sắp” một mang
tên: Tập hợp quân – Xuất quân. việc lắp ghép này tạo nên sự không lô
gíc trong thủ pháp phát triển âm nhạc.
- “Sắp” thứ hai: Xung Trận – Phá thành thì quá ngắn, về cấu trúc
chưa đạt tiêu chuẩn của một phần (đoạn phức), âm nhạc diễn tả cảnh phá
thành còn nghèo, trong khi đó những âm hình tiết tấu lạ, phù hợp hơn có
thể khai thác được còn rất tiềm ẩn.
- Về thời lượng của một bản nhạc (có thể được coi ở dạng tiểu phẩm)
diễn tả một cuộc hành quân của một đạo quân oai phong như vậy là chưa
hợp lí – bản nhạc chỉ có độ dài thời gian là 4 phút 55 giây.