CHÀO MỪNG CÔ VÀ CÁC
BẠN ĐẾN VỚI BÀI THUYẾT
TRÌNH CỦA NHÓM
ĐỀ TÀI: CHƯƠNG VII: Chủ Thể Của
Tội Phạm
Tên thành viên:
1. Phạm Thị Mỹ Ánh.
2. Hồ Trọng Hoài Nam.
3. Lê Quang Thứ.
4. Hà Ngọc Dưỡng.
5. Trần Ngọc Tiến.
6. Võ Thành Dương.
Nội Dung:
I.
Khái niệm.
II. Các dấu hiệu của chủ thể của tội phạm.
2.1. Năng lực trách nhiệm hình sự.
2.1.1. Định nghĩa.
2.1.2. Tình trạng không có năng lực TNHS.
2.1.3. Năng lực TNHS đối với người say do dùng rượu hoặc dùng chất
kích thích mạnh khác.
2.2. Tuổi chịu TNHS.
I. Khái Niệm:
- Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ
tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Ví dụ: Ông A là chủ tịch của 1 tập đoàn. Vì muốn tăng thêm lợi nhuận
cho công ty, ông đã cho xã thải, chất thải chưa qua xử lí ra sông nhằm
hạn chế chi phí xả thải. Theo bạn tình huống trên có truy cứu trách
nhiệm hình sự hay không và nếu có thì sẻ truy cứu đối với công ti của
ông A hay chỉ truy cứu trách nhiệm đối với ông A?
1.1.Chủ thể của tội phạm:
1.1.1. khái niệm:
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể, đã thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật hình sự.
+ Pháp nhân là một tổ chức, hoặt động của pháp nhân được thực hiện
thông qua hành vi của những người đại diện, tự bản thân pháp nhân
không thể thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, không có khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi nên không có lỗi. Vì vậy những
người nhân danh pháp nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự
thì họ phải chịu TNHS về chính hành vi của mình.
1.1.Chủ thể của tội phạm:
+ Theo Bộ luật hình sự 1999 ( sđ, bs 2009) thì pháp nhân không phải là chủ thể của tội phạm. Điều này bắt nguồn từ
mục đích của hình phạt trong luật hình sự được quy định tại điều 27: “ Hình phạt không chỉ nhằm mục đích trừng trị
người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội…”.
Pháp nhân là một tổ chức nên không có khả năng tiếp nhận sự giáo dục của nhà nước, của xã hội, việc áp dụng
hình phạt đối với pháp nhân không đạt được mục đích cải tạo, giáo dục của hình phạt… nên pháp nhân không thể
trở thành chủ thể của tội phạm.
Pháp nhân không phải là chủ thể của tội phạm.
⇒Vậy vấn đề đặt ra là có những pháp nhân có hành vi vi phạm nhưng lại không bị xử lí hình sự mà chỉ bị xem xét
xử phạt vi phạm hành chính hoặc chỉ nhắc nhở yêu cầu sửa chữa, khắc phục hậu quả. Chính điều này đã tạo cơ hội
cho các pháp nhân vi phạm với mức độ ngày càng phức tạp và thường để lại hậu quả lớn cho xã hội và đang có
chiều hướng gia tăng, tính chất hành vi ngày càng nguy hiểm.
Ví dụ: công ti bột ngọt veđan xã thải chưa qua xử lí ra sông Thị Vải hơn 14 năm, đã giết chết dòng sông, để lại thiệt
hại vô cùng to lớn đến đời sống và sức khỏe của người dân nhiều tỉnh thành lân cận. Thế nhưng vẫn không truy cứu
trách nhiệm hình sự mà phạt hành chính với số tiền 127 tỷ 300 triệu đồng.
1.1.Chủ thể của tội phạm:
Xuất phát từ thực tiễn đó mà các nhà làm luật đã cân nhắc và bổ sung vào cơ sở để các chủ thể
phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 2 BLHS 2015 quy định:
1. Chỉ người nào phạm một tội đã được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm
hình sự.
2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại điều 76 của bộ luật này
mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Quy định này đã khắc phục được những hạn chế trên thực tiễn hiện nay khi nhiều doanh nghiệp
đã có rất nhiều hành vi vi phạm như: Sản xuất hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng; Xả
thải gây ô nhiễm môi trường, trốn thuế, kinh doanh nghành nghề bị pháp luật cấm,…
=> Như vậy, bên cạnh chủ thể là cá nhân thì hiện nay pháp nhân thương mại cũng trở thành chủ
thể của tội phạm và sẻ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
II. Các dấu hiệu của chủ thể của tội phạm:
2.1. Năng lực trách nhiệm hình sự:
2.1.1. Định nghĩa: Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng của một
người tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức
được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện và điều
khiển được hành vi đó.
2.1.2. Tình trạng không có năng lực TNHS:
Điều 13 BLHS quy định: “ Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu
TNHS; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”.
2.1.2. Tình trạng không có năng lực TNHS
Dấu hiệu y học
Bị bệnh tâm thần
Kinh niên
Rối loạn tâm thần
tạm thời
Bị bệnh khác
Ý thức
Mất khả năng nhận
thức mặt thực tế
của hành vi
Ý chí
Mất khả năng nhận
thức ý nghĩa xã hội
của hành vi
Dấu hiệu tâm lí
2.1.3. Năng lực TNHS của người say do dùng rượu hoặc dùng
chất kích thích mạnh khác.
Ví dụ: A và B có xích mích với nhau, sẵn buồn bực trong lòng nên A
mượn rượu giải sầu, nhưng càng uống nỗi bực tức trong A càng lớn
không kiềm chế được bản thân, A đã chạy về nhà xách dao chạy sang
nhà B chém B. Hành vi của A xảy ra lúc A đang say.
2.1.3. Năng lực TNHS của người say do dùng
rượu hoặc dùng chất kích thích mạnh khác.
- Có 2 quan điểm:
+ Quan điểm thứ nhất:
người say nêu trên vẫn có năng lực TNHS bởi vì khi đặt mình vào tình trạng say:
Họ là người có năng lực TNHS.
Họ tự tước bỏ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình, tự đặt mình vào tình trạng
trên.
⇒Người đó có lỗi.
Theo điều 13 BLHS, để coi là không có năng lực TNHS, bắt buộc chủ thể phải bị mắc bệnh tâm thần
hoặc một bệnh khác dẫn đến tình trạng không có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình.
=> Người say do dung rượu hoặc chất kích thích mạnh khác không thỏa mãn điều kiện bệnh lí này nên
không được coi là không có năng lực TNHS.
2.1.3. Năng lực TNHS của người say do dùng rượu hoặc dùng
chất kích thích mạnh khác.
+ Quan điểm thứ 2:
Người say nêu trên không có năng lực TNHS vì:
Người có năng lực TNHS là người có khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi của mình tại thời điểm thực hiện hành vi gây nguy hiểm
cho xã hội.
=> Vì vậy, người say do dung rượu hoặc chất kích thích mạnh khác đến
mức không còn khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình thì không đủ điều kiện để được coi là có năng lực TNHS.
2.1.3. Năng lực TNHS của người say do dùng rượu hoặc dùng chất kích
thích mạnh khác.
- Trong pháp luật Việt Nam hiện nay, người phạm tội trong tình trạng
say do dung rượu hoặc dùng chất kích mạnh khác không được loại trừ
trách nhiệm hình sự. Trong một số trường hợp, nhà làm luật còn quy
định đây là tình tiết định khung tăng nặng TNHS.
Ví dụ: Tại điều 202: “ Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ”.
• Nếu A vượt đèn đỏ gây tại nạn cho B thì sẽ xử lí theo khoản 1 của
điều 202, nhưng nếu A trong tình trạng say dẫn đến gây tai nạn cho B,
thì sẽ bị xử lí theo điểm b, khoản2, điều 202. Đây là 1 tình tiết định
khung tăng nặng.
2.1.3. Năng lực TNHS của người say do dùng rượu hoặc dùng chất kích thích
mạnh khác.
- Tuy nhiên, người say rượu bệnh lý hoặc người không có lỗi với tình
trạng say rượu của mình ( Họ không tự đưa mình vào tình trạng say mà
do bị ép buộc bị lừa dối) nếu đến mức không còn khả năng nhận thức
hoặc điều khiển hành vi của mình thì được coi là không có năng lực
TNHS.
2.2 Tuổi chịu TNHS
a).Cơ sở xác định tuổi chịu trách nhiêm hình sự là dựa trên sự phát triển tâm - sinh lý của con người, xuất
phát từ đặc điểm tâm- sinh lý của con người Việt Nam, nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và tham
khảo kinh nhiệm một số nước trên thế giới, điều 12 của bộ luật HSVN quy định:
1. người từ đủ 16t trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14t trở lên nhưng chưa đủ 16t phải chịu trách nhiêm hình sự với tội phạm rất nghiêm trọng
do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
•.Đối với người chưa thành niên phạm tội thì không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình.
+ Đối với người từ đủ 16t đến dưới 18t hình phạt cao nhất áp dụng không quá 18 năm tù.
+ Đối với người từ đủ 14t đến dưới 16t hình phạt cao nhất áp dụng không quá 12 năm tù.
2.2 Tuổi chịu TNHS
Theo quy định tại điều 12 BLHS 2015, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
1. người từ đủ 16t trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà luật này có quy định
khác.
Người từ đủ 14t trở lên, nhưng chưa đủ 16t chỉ phải chịu TNHS về tội giết người, tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16t, tội cưỡng dâm
người từ đủ 13t đến dưới 16t, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; Về tội phạm rất nghiêm
trong, tội phạm đặt biệt nghiêm trong quy định tại 1 trong các điều sau đây:
a) Điều 143 ( tội cưỡng dâm); điều 150 ( tội mua bán người); điều 151( tội mua bán người dưới 16t).
b) Điều 170 ( tội cưỡng đoạt tài sản); điều 171 ( tội cướp giật tài sản); điều 173 ( tội trộm cắp tài sản); điều
178 ( tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản)
2.2 Tuổi chịu TNHS
c) Điều 284 ( tội sản xuất trái phép chất ma túy); điều 219 ( tội tàng trữ trái phép chất ma
túy); điều 250 ( tội vận chuyển trái phép chất ma túy); điều 251 ( tội mua bán trái phép chất
ma túy); điều 252 ( tội chiếm đoạt chất ma túy).
d) Điều 265 ( tội tổ chức đua xe trái phép); điều 266 ( tội đua xe trái phép).
đ) Điều 285 ( tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử
dụng vào mục đích trái pháp luật); điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho
hoặt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); điều 289 ( tội xâm
nhập trái phép về mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương điện tử của người khác),
điều 290 ( tọi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành
vi chiếm đoạt tài sản).
2.2 Tuổi chịu TNHS
e) Điều 299 ( tội khủng bố); điều 303 ( tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan
trọng về an ninh quốc gia), điều 304 ( tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quan dụng, phương tiện kĩ thuật quan sự).
Như vậy:
- Đối với người phạm tội từ 16t đủ trở lên, BLHS 1999 chỉ quy định người từ đủ 16t trở
lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm mà không có quy định loại trừ một số tội phạm
mà đối tượng này không phải chịu TNHS, đó là một sai sót giữa quy định của phần
chung và phần tội phạm của bộ luật hình sự. Phần các tội phạm của BLHS có một số tội
mà người chưa thành niên( dưới 18t) phải chịu TNHS.
2.2 Tuổi chịu TNHS
Ví dụ: Tội giao cấu với người chưa thành niên; tội dâm ô với người
chưa thành niên; tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành
niên phạm pháp là tội mà người chưa thành niên không phải chịu
TNHS.
=>Để khắc phục sai sót này, khoảng 1, điều 12, BLHS 2015 đã bổ sung
“trừ những tội phạm mà bộ luật này có quy định khác”. Việc quy định
bổ sung nêu trên là phù hợp theo tinh thần của pháp luật.
2.2 Tuổi chịu TNHS
- Đối với người từ đủ 14t trở lên nhưng chưa đủ 16t chỉ phải chịu TNHS
về các tội phạm nghiêm trọng, tội phạm đặt biệt nghiêm trọng quy định
cụ thể tại các điểm từ điểm a đến e, khoản 2, điều 12 BLHS. Tuy nhiên,
họ lại phải chịu TNHS về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm
người dưới 16t, tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cho dù
đó là tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Quy định này lại mở rộng
phạm vi xử lí đối với người từ đủ 14t trở lên đến dưới 16t tuổi theo quy
định tại BLHS năm 1999.
2.2 Tuổi chịu TNHS
b). Cách tính tội của người phạm tội
Ví dụ: A sinh ngày 31-10-1993. ngày 15-10-2007, A cầm dao đâm chết B, vậy A đã đủ
14t chưa?
- việc xác định ngày sinh để làm căn cứ tính tuổi của người phạm tội dựa trên các giấy tờ
có giá trị pháp lý như: giấy khai sinh, giấy chứng sinh, giấy chứng minh nhân dân, sổ
đăng ký hộ khẩu…
- Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp chúng ta không có đủ căn cứ để xác đinh
chính xác ngày tháng năm sinh của người phạm tội nên rất khó khăn trong việc xác
định độ tuổi của họ.
* việc xác định tuổi của người phạm tội rất quan trọng, vì muốn xác định năng lực TNHS
của một người trước hết chúng ta cần xác định họ đủ tuổi chịu TNHS hay chưa.
2.2 Tuổi chịu TNHS
Ví dụ: trường hợp của Lê Văn Luyện...v.v.
Cách xác định tuổi:
• Trường hợp xác định được tháng sinh cụ thể nhưng không xác đinh được
ngày thì trong tháng đó ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bi
can, bị cáo.
Ví dụ: A sinh vào tháng 10-1994, đến ngày 15-10-2008 A cầm dao đâm chết
B, thì theo quy định A vẫn chưa đủ tuổi chịu TNHS vì lấy ngày cuối cùng của
tháng đó, tức là 31-10-1994.
• Trường hợp xác đinh được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được
ngày tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối cùng trong tháng cuối cùng
trong quý đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo.
2.2 Tuổi chịu TNHS
• Trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nữa cuối năm,
nhưng không xác định được ngày tháng nào trong nữa đầu năm hoặc
nữa cuối năm đó thì lấy 30-6 hoặc 31-12 tương ứng của năm đó làm
ngày sinh của bị can, bị cáo.
• Trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định
ngày tháng sinh của bị can, bị cáo thì lấy ngày 31-12 làm ngày sinh
của bị can, bị cáo.
• Trường họp không xác định được năm sinh của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên thì phải tiến hành giám định để xác đinh tuổi của họ