Đề bài: Hãy trình bày những quan điểm nhìn nhận về Vương triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam. Giải thích sự thất bại của nhà Nguyễn trong cuộc
kháng chiến chống Pháp (1858 – 1884).
MỞ ĐẦU
Như bao triều đại khác tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, vương triều
Nguyễn cũng đã được thành lập, phát triển và lụi tàn theo nhịp phế hưng của dòng
chảy lịch sử dân tộc. Với thời gian làm chủ đất nước dài ngắn khác nhau, triều đại
nào cũng có ưu nhược điểm, mặt tích cực và mặt tiêu cực, không nhiều thì ít. Tuy
nhiên, sự đánh giá về về những mặt này đối với vương triều Nguyễn có vẻ đặt biệt
hơn so với các triều đại khác trong lịch sử nước ta. Đặc biệt ở chỗ người đời chưa
có được sự nhất trí trong nhận thức và sự giống nhau trong quan điểm. Trong lịch
sử nghiên cứu về triều Nguyễn thì các ý kiến, các nhận thức về vương triều này còn
có sự thay đổi theo dòng chảy của thời gian. Các quan điểm đánh đuợc chia làm hai
giai đoạn và ba trường phái quan điểm chính là:
- Giai đoạn 1: Các quan điểm trước 1990: Đánh giá cao hoặc phê phán gay
gắt vương triều Nguyễn.
- Giai đoạn 2: Các quan điểm bắt đầu từ những năm 1990 trở lại đây: Trường
phái đánh giá cả “công” và “tội” của triều Nguyễn.
Một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất của vương triều Nguyễn
chính là sự thất bại của vương triều này trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược từ 1858 – 1884. Vì vậy, sau khi xem xét các quan điểm đánh giá về
nhà Nguyễn trong lịch sử, chúng ta sẽ đi xem xét, giải thích lý do sự thất bại trên
của nhà Nguyễn từ đó tiến tới đánh giá trách nhiệm của nhà Nguyễn đến đâu trong
việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp, bắt đầu hơn 80 năm nô lệ lầm than.
1. Các quan điểm đánh giá về Vương triều Nguyễn
1.1. Các quan điểm trước 1990: Đánh giá cao hoặc phê phán gay gắt vương
triều Nguyễn.
1.1.1. Trường phái quan điểm đánh giá cao vương triều Nguyễn
Trường phái quan điểm đầu tiên chúng ta nói đến là trường phái đánh giá rất
cao vuơng triều Nguyễn, đặc biệt là ca ngợi vua Gia Long, vị vua mở đầu vương
triều, là một minh quân, là người có công thống nhất đất nước. Đây là trường phái
quan điểm của các sử gia thời Sài Gòn.
Đại biểu cho trường phái quan điểm này là Trần Trọng Kim với tác phẩm
“Việt Nam sử luợc”. Khi viết về Thế Tổ Cao Hoàng Nguyễn Ánh, Trần Trọng Kim
đã viết: “Bởi vậy cho nên khi vua Thế Tổ Cao Hoàng Nguyễn Ánh cất công ra bắc,
lòng người theo phục, chỉ một tháng trời mà bình được đất Bắc Hà, đem giang sơn
thu về một mối, nam bắc một nhà, làm cho nước ta thành một nước lớn ở phuơng
Nam vậy”[3;405].
“Lúc ngài đánh xongTây Sơn thì chính trị trong nước đổ nát, phong tục huỷ
hoại, việc gì cũng phải sửa sang lại. Bởi vậy ở trong thì ngài chỉnh đốn pháp luật
và mọi việc cai trị cùng là sửa sang phong tục, cấm dân gian không cho lấy việc
thần phật mà bày trong rượu chè ăn uống, nghiêm dụ quan lại không cho sinh sự
nhiễu dân. Ở ngoài thì ngài lo sự giao hiếu với nước Tàu, nước Tiêm, nước Chân
Lạp, khiến cho nước Việt lúc bấy giờ trong ngoài đều được yên trị” [3; 410].
“Vua Thế Tổ là ông vua có tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống
nhau với Tây Sơn, trải qua bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ ngã
lòng, cứ là một niềm khôi phục. Ngài lại có đức tính rất tốt của những kẻ lập
nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn người mà dùng khiến cho những kẻ hào kiệt ai
cũng nức lòng mà theo giúp. Bởi vậy cho nên không những là ngài khôi phục được
nghiệp cũ mà lại thống nhất được sơn hà, và sửa sang được mọi việc, làm cho
nước ta lúc bấy giờ trở thành một nước cường đại từ xưa đến nay, chưa bao giờ
từng thấy” [3; 424].
Trên đây thật sự là những lời ca ngợi đầy hoa mỹ của Trần Trọng Kim dành
tặng để ca ngợi Gia Long Nguyễn Ánh, vị vua đầu tiên của vương triều phong kiến
cuối cùng của nước ta.
Đó là những lời nói về vua Thế Tổ, còn khi nhắc đến vua Thánh Tổ Minh
Mạng, ông viết: “Vua Thánh Tổ là một ông vua có tư chất minh mẫn, lại hiếu học,
và lại hay làm; phàm có việc gì, ngài cũng xem xét đến, và có châu phê rùi mới
được thi hành.
Ngài tinh thâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, cho nên không ưa đạo
mới, cho là một tả đạo lấy trời thánh ra mà mê hoặc lòng dân. Bởi vậy, ngài mới
nghiêm cấm và trừng trị những người theo đạo Giatô.
Về sau có nhiều nhà làm sử, vì ý riêng mà cho người là bạo quân, thì thiết
tưởng điều ấy không hợp với lẽ công bằng.
Phải biết rằng nước ta từ xưa đến nay, điều gì cũng theo Nho giáo, lấy tam
cương ngũ thường làm căn bản cho sự ăn ở. Vua tôi, cha con, vợ chồng, ấy là cái
khoá luân lý của xã hội mình. Ai tháo cái khoá ấy ra thì cho không phải laòi người
nữa. Vậy con phải theo cha, tôi phải theo vua, ai trái với cái đạo ấy là phải tội
nặng, đáng chém giết.
Lúc trong nước mình từ vua quan cho chí dân sự, ai ai cũng lấy cái lý tưởng
ấy làm lẽ phải, làm hay hơn cả, mà lại thấy có người bỏ đi theo đạo khác, nói
những chuyện lúc bấy giờ không mấy người hiểu rõ ra thế nào thì tất cho là theo tả
đạo, làm hư hỏng cái phong tục hay của mình. Bởi vậy cho nên nhà vua mới cẩm,
không cho người trong nước đi theo đạo mới.
Một ông vua nghiêm khắc như Thánh Tổ mà cấm không được, thì tất phải
giết. Khi cấm và giết như vậy, là vẫn tưởng mình làm việc bổn phận làm vua của
mình, chớ có biết đâu là mình làm sự thiệt hại cho dân cho nước.
Vả, bao giời cũng vậy, hễ người ta súng tín một tông giáo nào, thì tất cho
tông giáo của mình là hay hơn, và cho người theo tông giáo khác là thù địch với
mình, rồi hễ có quyền thế là làm thế nào cũng dùng cách mà hà hiếp người khác
đạo của mình. (...) Vẫn biết rằng sự giết đạo là sự không lành, nhưng phải hiểu cái
trí não của người Việt Nam ta lúc bấy giờ, không rõ cái tông chỉ đạo Thiên Chúa
ra thế nào, cho nên dẫu không phải vua Thánh Tổ đi nữa, thì ông vua khác cũng
không chắc đã tránh khỏi cái lỗi giết đạo ấy”[3;425].
(...)
Vua Thánh Tổ là một ông vua chuyên chế, tất thế nào cũng có nhiều điều sai
lầm và có nhiều điều tàn ác nhưng xét cho kỹ thì thật ngài cũng có lòng vì nước
lắm. Trong lo sửa sang mọi việc, làm thành ra nề nếp chỉnh tề, ngoài đánh Tiêm
dẹp Lào, làm cho nước không đến nỗi kém hèn”[3; 427].
Những lời trên đây của Trần Trọng Kim không chỉ là ca ngợi vua Thánh Tổ
Minh Mạng mà còn đang cố bao biện, giải thích một cách chủ quan để giảm tội cho
nhưng sai lầm của vua, đặc biệt là sai lầm nghiêm trọng trong chính sách “cấm đạo
giết đạo” được thực hiện gắt gao đến tàn khốc dưới thời vua Minh Mạng. Chính
sách này đã gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc ta, một trong những nguyên nhân
dẫn đến sự thất bại của triều Nguyễn trước thực dân Pháp sau này.
Cũng trong “Việt Nam sử lược” khi trình bày về các vua đầu triều Nguyễn
như Thế Tổ, Thánh Tổ, Hiển Tổ, Dực Tông, Trần Trọng Kim đều nêu nguyên nhân
mất nước là do chính sách bài ngoại, ngăn trở việc buôn bán, cấm đạo, không nhìn
thấy sự thay đỏi, tiến bộ của bên ngoài: “Khư khư giữ lấy thói cổ, hễ ai nói đến sự
gì mới một tý thì bác bỏ đi, như thế thì làm sao mà không hỏng việc”. Trần Trọng
Kim cho rằng: “Âu cũng vì thời đại biến đổi mà người mình không biến đổi, cho
nên nước mình mới thành ra sự suy đồi”, “đã hay rằng vua có trách nhiệm vua,
quan có trách nhiệm quan, vua Dực Tông không tránh khỏi cái lỗi với nước nhà,
nhưng mà xét cho xác lý thì cái lỗi của đình thần lúc bấy giờ cũng không nhỏ”.
Nhưng lời này của Trần Trọng Kim cho thấy rằng việc tìm ra nguyên nhân thực
dân Pháp xâm lược nước ta và việc mất nước không ngoài những lý do mà thực dân
Pháp đã viện cớ, nêu trách nhiệm của vua quan, Trần Trọng Kim vừa có tính lên
án, lại vừa biện hộ.
Trong Việt Sử tân biên, khi nói đến việc nước ta rơi vào tay thực dân Pháp,
Phạm Văn Sơn không quy kết trách nhiệm vua tôi nhà Nguyễn mà cho rằng Việt
Nam mất vào tay thực dân Pháp là một tất yếu lịch sử, hoặc ít ra cũng do trình độ
dân trí Việt Nam quá thấp kém so với người Pháp: “Nhà Nguyễn mất nước với Tây
phương chỉ là vì văn minh nông nghiệp của Á Đông hết sức lạc hậu, yếu hèn, mà
văn minh khoa học cùng cơ giới của phương Tây lại quá mạnh mà thôi”.
Tóm lại thông qua việc ca ngợi cũng như bênh vực cho các vua Nguyễn, việc
không xét đến trách nhiệm của nhà Nguyễn đối với việc để nước ta rơi vào tay thực
dân Pháp cuối thế kỷ XIX, tác giả Trần Trọng Kim và các sử gia Sài Gòn đã bộc lộ
quan điểm ca ngợi và ủng hộ vương Triều Nguyễn.
1.1.2. Trường phái quan điểm phê phán, coi Triều Nguyễn là một “nguỵ triều”,
một vương triều phản động, một vương triều có tội lớn với dân tộc.
Trường phái quan điểm thứ hai chúng ta tìm hiểu là trường phái phê phán
vương triều Nguyễn, cho rằng đây là một “nguỵ triều” trong lịch sử dân tộc, là một
vương triều phản động, có tội với dân tộc. Các nhà sử học miền Bắc đa số đều theo
trường phái quan điểm này. Thông qua các tác phẩm của mình, các tác giả bày tỏ
quan điểm chê trách nhà Nguyễn của mình trên các khía cạnh khác nhau như sự
thiết lập của vương triều, các chính sách đối nội, đối ngoại của vua quan nhà
Nguyên và đặc biệt các tác giả nhấn mạnh “tội” của nhà Nguyễn trong việc để nước
ta trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp.
Ngay từ năm 1961, ngay trước khi cho ấn hành tập đầu tiên của bộ Đại Nam
thực lục, Viện Sử học miền Bắc đã viết nhận định: "Những sự kiện lịch sử xảy ra
trong khoảng thời gian từ Nguyễn Hoàng đến Đồng Khánh [1558-1888], những
công việc mà các vua [chúa] nhà Nguyễn đã làm trong khoảng thời gian 330 năm
ấy, ... tự chúng tố cáo tội ác của nhà Nguyễn trước lịch sử của dân tộc chúng ta".
"Theo lệnh của các vua nhà Nguyễn, bọn sử thần của nhà Nguyễn làm công
việc biên soạn Đại Nam thực lục đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn cho triều
đại nhà Nguyễn ..." và "Nhưng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi các sự thật
của lịch sử. Dưới ngòi bút của họ, sự thật của lịch sử ... vẫn phơi bày cho mọi
người biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những chúng đã cõng rắn
cắn gà nhà, mà chúng còn cố tâm kìm hãm, đày đọa nhân dân Việt Nam trong một
đời sống tối tăm đầy áp bức".
Phê phán về sự thiết lập của vương triều Nguyễn, sách “Tiến trình lịch sử
Việt Nam” của Nguyễn Quang Ngọc (Cb) có đoạn viết: “Khi lên ngôi Nguyễn Ánh
đứng trước những khả năng to lớn để xây dựng đất nước. Sau hơn 200 năm đất
nước bị chia cắt trong cục diện “đàng trong đàng ngoài”, Việt Nam từ đầu thế kỷ
XIX thực sự là một quốc gia thống nhất với sự hoàn chỉnh cương vực quốc gia,
thống nhất thị trường tiền tệ có thể xây dựng kinh tế xã hội mạnh mẽ, mở rộng
những mối quan hệ giao thương quốc tế, canh tân đất nước, vượt qua sự can thiệp,
xâm lược của các thế lực thực dân phương Tây. Nhưng ngay từ đầu chế độ nhà
Nguyễn đã bộc lộ nhược điểm cơ bản về chính trị là: khác với các triều đại trước
thường được thiết lập trên cơ sở thẳng lợi của những cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc hoặc sau khi hoàn thành nhiệm vụ chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập củng
cố quốc gia...còn triều Nguyễn, vương triều cuối cùng lại được dựng lên bằng một
cuộc nội chiến mà kẻ thắng đã dựa vào thế lực ngoại bang và như vậy về khách
quan là đi ngược lại nguyện vọng và quyền lợi dân tộc” [7; 203].
Còn tác giả Trần Văn Giầu, trong cuốn “Sự khủng hoảng của chế độ phong
kiến nhà Nguyễn trước 1858”, lại trích lời một người Âu sang xứ nước ta sau khi
Nguyễn Ánh lên ngôi rằng: “Người ta rất có thể nghi ngờ lời nói của bọn người Âu
tán dương Gia Long, cho rằng dân chúng mong muốn thấy hoàng đế chính thức
được khôi phục. Triều Tây Sơn không phải đã mất lòng dân như vậy. Thực tế, tôi
đã được biết chắc chắn qua câu chuyện với các thương gia hoa kiều đã từng sống
trong xứ dưới quyền cả hai triều đại; rằng anh em Tây Sơn đã cai trị công bằng và
khoan hồng hơn vị vua hiện nay hay vua chúa trước kia”[2; 9].
Qua vài sự nhận xét trên ta thấy ở trường phái quan điểm phê phán này, sự ra
đời của triều Nguyễn không được chào đón mà sự ra đời đó lại được coi như một
sự phản động bởi nó đã lật đổ vương triều tiến bộ, vương triều Tây Sơn.
Khi phê phán về chính sách đối nội, đối ngoại nhà Nguyễn thì tác giả
Nguyễn Ngọc Cơ có viết : “Trong khi lục quân suy tàn, tài chính khô kiệt, lòng
dân oán thán thì triều đình, vua quan, sĩ phu đều khư khư ôm lấy tư tưởng bảo thủ,
cố chấp, không chịu duy tân. Trong khi kỹ thuật tư bản chủ nghĩa đang phát triển
mạnh mẽ, lan tràn ở nhiều nước xung quanh, thế mà vua tôi nhà Nguyễn vẫn vùi
đấu vào Tứ Thư, Ngũ Kinh, ai bàn đến canh cải thì cho là tà thuyết, xảo đoạt, tạo
hoá”[1; 23].
Trong lời mở đầu sách “Lịch sử Việt Nam từ 1858 - cuối XIX”, quyển 3, tập
1, của Hoàng Văn Lân và Ngô Thị Chính, có đoạn viết với nội dung phê phán nhà
Nguyễn tổng quát trên cả ba lĩnh vực sự thành lập, chính sách đối nội và chính sách
đối ngoại: “ Qua gần 40 thế kỷ dựng nước và giữ nước, từ thưở các vua Hùng đến
thời kỳ Tây Sơn, với một sức sống kỳ lạ, dân tộc Việt Nam đã hiên ngang cùng các
dân tộc khác luôn luôn có mặt trên vũ đài lịch sử.
Nhưng từ cuối thế kỷ XVIII, dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ thử thách
hơn trước đó chưa từng có. Ra đời sau mấy thế kỷ chiến tranh nông dân và là sản
phẩm cuối cùng của chiến tranh nông dân dai dẳng ấy, các triều vua, từ Gia Long
(1802 – 1820) đến Tự Đức (1847 – 1883) đã mang nặng ý thức phục thù không
những của chính bản thân tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn, mà còn là cúa tất cả
các tập đoàn phong kiến lâu đời khác đối với phong trào nông dân chống phong
kiến vốn dấy lên từ thế kỷ XVI. Vì thế, khác hẳn với sự xác lập của hầu hết các
triều ssại phong kiến trong lịch sử nước ta trước kia, việc Nguyễn Phúc Ánh hết
nhờ phong kiến Xiêm, lại dựa vào tư bản Pháp để hấp tấp đặt chiếc ngai vàng này
cho dòng họ phong kiến Nguyễn ở đất Phú Xuân năm 1802, hoàn toàn không phải
là kết quá trực tiếp hay gián tiếp của một sự hoà hoãn mâu thuẫn trong nội bộ dân
tộc ở một tình thế lịch sử mới: Chiến tranh vẫn cứ tiếp diễn liên tục và rộng khắp.
Triều đại Nguyễn Phúc đối lập với tất cả, nên sợ sệt tất cả và phải đối phó với tất
cả, do đó lại càng “ngu đần và ngoan cố” dẫm chân tại chỗ về đối nội và đối
ngoại. Đến khi Tự Đức lên ngôi thì nền thống trị của dòng họ Nguyễn Phúc đang
đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Giữa lúc đó, thì ngày 1/9/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà
Nẵng, chính thức nổ súng xâm lược nước ta.
Do xuất phát từ chỗ bảo vệ triệt để quyền thống trị bóc lột nhân dân của tập
đoàn phong kiến Nguyễn Phúc mà, một mặt thì triều đình Huế đứng đầu là Tự Đức
đã tự hãm vào cái thế “lỗi thời, bất lực, hèn yếu” vì không cùng đứng đuợc với
nhân dân chống giặc; nhưng mặt khác thì nó vẫn còn muốn cố giữ đến cùng sự
trọn vẹn và tuyệt đối quyền thống trị bóc lột nhân dân đó trước giặc ngoại xâm.
Tính chất hai mặt đó đã trực tiếp đẻ ra các chủ trương “lấy chủ đợi khách” và
chiến lược “thủ để hoà” của triều đình Huế, hoàn toàn xa lạ với truyền thống
chống giặc của dân tộc ta ở các triều đại trước. Kết cuộc, từ 1/9/1858 đến
5/6/1863, triều đình Huế nhanh chóng từ “thủ để hoà” – nghĩa là tự chọn thế thủ
để nhường thế công cho giặc - chuyển sang đi theo “lương tâm và hảo ý” của kẻ
xâm lược, cắt đất cho giặc thừa nhận chính quyền của giặc ở Sài Gòn và ra lệnh
giải tán phong trào chống giặc của nhân dân Lục tỉnh. Với điều ước 5/6/1862 tập
đoàn phong kiến thống trị Nguyễn Phúc đã không dám đương đầu quyết liệt với
giặc và đầu hàng chúng quá sớm. Sở dĩ thế là vì chính tự nó đã tạo ra cái thế bị cô
lập, tự nó đã phá hoại sự thóng nhất và đoàn kết dân tộc. Từ đầu, dòng họ Nguyễn
Phúc đã phá hoại sức mạnh ấy với hàng loạt chính sách cực kỳ phản động về mọi
mặt, trong điều kiện lịch sử chống ngoại xâm của nước ta lúc bấy giờ là nông
dân”.
Sách Lịch sử Việt Nam do Viện Khoa học Xã hội của Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, bản năm 1971 cũng cho rằng "triều Nguyễn phải chịu trách nhiệm hoàn
toàn về tội ác trời không dung, đất không tha, để cho tên tuổi đất nước một lần nữa,
sau hàng ngàn năm độc lập, bị quân cướp nước xóa khỏi bản đồ Thế giới".
"Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc
chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của người nước ngoài. Gia Long
lên làm vua lập ra triều Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của
nông dân ... Triều Nguyễn là vương triều tối phản động ... Bản chất cực kỳ phản
động của chế độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố,
trả thù vô cùng đê hèn của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những
người thuộc phái Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em ..."
"Chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ
đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không
có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia
Long (1802-1819) đến Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức
(1847-1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính
vì kiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở
Thăng Long, phải dời vào Huế".
Ngoài ra còn các nhận định trong các tiểu mục khác như "Tăng cường bộ
máy đàn áp", "Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát", "Chế độ áp bức bóc lột nặng nề",
"Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động", "Chính sách đối ngoại mù quáng", v.v...
và trong tập II của bộ Lịch sử Việt Nam xuất bản vào năm 1985, các tác giả thuộc
Uỷ ban Khoa học Xã hội còn dùng những từ ngữ như: "triều đình nhà Nguyễn thối
nát và hèn mạt", "Vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn", "cực kỳ ngu xuẩn",
"tên chúa phong kiến bán nước số 1 là Nguyễn Ánh... Nguyễn Ánh cầu cứu các thế
lực ngoại bang giúp hắn thỏa mãn sự phục thù giai cấp",…
Đặc biệt khi nói đến trách nhiệm của nhà Nguyễn đối với việc mất nước, nếu
các sử gia Sài Gòn không nhắc đến, không đánh giá, tránh không nói tới trách
nhiệm củ nhà Nguyễn hoặc đổi cho đó là điều tất yếu, nhà Nguyễn không cần phải
chịu trách nhiệm gì, thì ngược lại, các nhà sử học miền Bắc Việt Nam trong giai
đoạn 1954-1975 có xu hướng quy trách nhiệm hoàn toàn cho các vua Nguyễn đối
với việc mất nước rằng Nguyễn Ánh đã "cõng rắn cắn gà nhà", “rước voi về dày mả
tổ” và Tự Đức "bán rẻ đất nước" cho thực dân. Đó là những phê phán rất gay gắt.
Minh chứng cho sự quy kết trách nhiệm nặng nề này là:
Trong tác phẩm “Việt Nam vong quốc sử”, Phan Bội Châu hết lời ca ngợi
những người yêu nước, đồng thời phê phán gay gắt kẻ phản bội, bán nước đầu
hàng. Ông phân tích, vào đầu thời Gia Long vua tôi còn hòa thuận với chính giáo,
không thiếu xót nên thực dân Pháp không thể xâm lược. Sang đầu thời Tự Đức,
Việt Nam là nước yếu hèn, thực dân Pháp có thời cơ xâm lược. Ông chỉ rõ, những
chính sách liên kết với Pháp gây lực lượng để độc quyền chính trị dẫn đến họa mất
nước sau này. Từ việc vạch trần ý đồ của Nguyễn Ánh dựa vào ngoại lang đánh
Tây Sơn rồi phụ thuộc và Pháp, Phan Bội Châu kết luận mất nước thuộc về trách
nhiệm và bản chất của vua tôi nhà Nguyễn gây ra. Ông vạch tội nhà Nguyễn theo 4
tội lớn: 1- Ngoại giao hẹp hòi; 2- Nội trị lưu lạc; 3- Dân trí bế tắc; 4- Vua tôi trên
dưới đều tự tư, tự lợi.
PGS. TS Nguyễn Ngọc Cơ thỉ viết: “Giữa thế kỷ XIX nước ta nổi bật là sự
khủng hoảng trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, đối nội, đối ngoại. Nhà nước
phong kiến Nguyễn đứng trước một thử thách to lớn: một là phải cải tổ để đáp ứng
yêu cầu của lịch sử, tốt nhất là thay thế bằng một triều đại khác tiến bộ hơn, có khả
năng duy tân đất nước và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Hai là nước Việt Nam bị xâm
lược và bị biến thành một nước thuộc địa phương Tây. Trên thực tế lịch sử cho
thấy khả năng thứ nhất không xảy ra. Còn khả năng thứ hai thì đã liền kề. Việc mất
nước Việt Nam lúc đầu không tất yếu, nhưng do phong kiến Nguyễn tiếp tục lối
mòn, cự tuyệt mọi đề nghị cải cách, dẫm chân tại chỗ và tụt hậu, cuối cùng đã trở
thành tất yếu”[1; 25].
Hoặc: “Hồi tưởng các cuộc chiến đấu anh dũng vô song của dân tộc Việt
Nam ta ở Nam Bộ lúc bấy giờ, ruột gan chúng ta đau như cắt xé.Giá như triều đình
lúc bầy giờ không phải ở trong tay bọn vua chúa nàh Nguyễn phản bội và đầu
hàng, mà ở trong tay những người kế tục sự nghiệp của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn,
kế tục sự nghiệp yêu nước và anh dũng của Nguyễn Huệ thì phong trào kháng
Pháp lúc bấy giờ ở Nam Bộ chắc chắn còn mạnh mẽ hơn nhiều, nhất là đã được
lãnh đạo thống nhất và kiên trì đấu tranh cho đến thắng lợi, đồng thời phong trào
ấy chắc được ủng hộ kiên quyết của nhà nước, như vậy, đất Đồng Nai anh dũng đó
đã trở nên bức thành đồng ngăn chặn bọn cướp nước phương Tây xâm phạm đất
nước chúng ta, và do đó đã bảo vệ vẹn tròn độc lập và thống nhất của tổ quốc[dẫn
theo1; 91]
Hoặc là: “Với chính sách phản động, nước Việt Nam đã suy yếu về mọi mặt
và trở thành miếng mồi ngon đổi với các tư bản phương Tây. Đặc biệt đối với tư
bản Pháp từ lâu đã có cơ sở bên trong nước ta nhờ sự hoạt động ngấm ngầm và
liên tục của bọn gián điệp đội lốt con buôn và giáo sĩ. Lịch sử lúc này đã đi tới một
bước ngoặt. Một là triều Nguyễn bị đánh đổ và thế vào là một triều đại khác tiến
theo hướng mới của tư bản chủ nghĩa và có khả năng duy tân đất nước và bảo vệ
nền độc lập dân tộc. Hai là nước Việt Nam bị mất vào tay tư bản Pháp để trở thành
một xứ thuộc địa. Thực tế lịch sử chứng minh rằng khi tiếng súng xâm lược của tư
bản Pháp bùng nổ, giai cấp phong kiến Việt Nam đã phân hoá ra hai phái chủ hoà
và chủ chiến, phái chủ hoà bao gồm phần đông bọn đại phong kiến và quan lại
lớn với Tự Đức sẽ nhanh chóng câu kết với bọn cướp nước để làm tay sai cho
chúng đàn áp và bóc lột nhân dân cả nước. Đó là tội lớn của phong kiến nhà
Nguyễn trước dân tộc, trước lịch sử”[4; 16].
Giáo sư Nguyễn Phan Quang có ý kiến như sau: Mất nước không phải là tất
yếu... Triều Nguyễn thua Pháp vì lúng túng về đường lối chính trị dẫn đến lúng
túng vềquân sự, tuy quân lực không yếu mà tự phải thua. Sự lúng túng còn thể hiện
trong nỗi lo sợ trước luồng tư tưởng mới đang tràn vào. Lo sợ, nhưng không có
giải pháp hữu hiệu, đành thu mình đóng kín. Càng lúng túng hơn khi nhà Nguyễn
đồng thời phải đối phó với những mâu thuẫn nội bộ rất nghiêm trọng, mà những
mâu thuẫn này lại bị sự chi phối rất mạnh của các áp lực từ bên ngoài. Riêng đối
với đạo Gia-tô thì triều Nguyễn đã từ lúng túng đi đến bế tắc, không đủ sức chuyển
đổi tư duy để có biện pháp thích hợp.
Giáo sư sử học Nguyễn Khắc Thuần khẳng định trách nhiệm của nhà
Nguyễn đối với việc mất nước, bất luận nhìn từ góc độ nào: “Việc Pháp đánh Việt
Nam là một tất yếu khách quan; việc nhà Nguyễn để mất nước có phải là tất yếu
khách quan hay không, đó là một dấu hỏi lớn, là chủ đề của nhiều hội thảo khoa
học của nhiều thế hệ nhà sử học. Thực tế cho thấy không phải nhà Nguyễn buông
súng từ đầu và không phải các hoàng đế nhà Nguyễn đều bạc nhược. Chúng ta có
quyền nhìn nhận việc mất nước từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng nhìn từ góc độ
nào thì nhà Nguyễn cũng phải chịu trách nhiệm về thảm họa mất nước".
Về phía Pháp, sử gia Gosselin nói rằng các hoàng đế An Nam phải chịu trách
nhiệm về sự đổ vỡ và xuống dốc của đất nước họ. Dân xứ này, quan lại, binh lính
xứng đáng có được những người cầm đầu có giá trị hơn thế. Chính quyền họ đã mù
quáng vì không dự liệu, không chuẩn bị gì hết.
Vậy là ở trường phái quan điểm thứ hai này nhà Nguyễn đã phải gánh chịu
búa rìu dư luận, những lời phê phán hết sức gay gắt về “tội” của mình, những công
lao của vương triều dường như bị phủ định sạch trơn. Lý giải về thái độ đánh giá
trên, giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cho rằng:
“Nguyên do sâu xa của vấn đề này là do bối cảnh chính trị của đất nước (Việt
Nam) thời bấy giờ và cách vận dụng phương pháp luận sử học của các nhà nghiên
cứu”… “Khuynh hướng này phát triển ở miền Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)
trong thời gian từ 1954 phản ánh trên một số luận văn trên tạp chí Văn sử địa, Đại
học sư phạm, Nghiên cứu lịch sửvà biểu thị tập trong những bộ lịch sử, lịch sử văn
học, lịch sử tư tưởng Việt Nam…”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cũng có ý kiến tương tự, cho rằng do
chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam mà các nhà biên soạn sách đã có
thái độ khắt khe với nhà Nguyễn. Theo Nguyễn Đình Đầu, việc dùng những khái
niệm như đấu tranh giai cấp, giai cấp địa chủ, giai cấp nông dân, giai cấp phong
kiến, tập đoàn thống trị, chiến tranh Cách mạng, tước đoạt tư liệu sản xuất, bóc lột
sức lao động… lên xã hội nông nghiệp phương Đông trong sách Lịch sử Việt Nam
do Viện Khoa học Xã hội của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà biên soạn là gượng ép.
Nhà sử học Dương Trung Quốc thì tin là bởi “Bối cảnh chính trị của cuộc
cách mạng “phản đế- phản phong” cùng lập trường đấu tranh giai cấp và cải tạo xã
hội chủ nghĩa đã kéo dài sự đánh giá một sắc màu tiêu cực về nhà Nguyễn…”. Ông
cũng cho rằng ”Sử học là một khoa học, nhưng nó cũng không thể không mang
màu sắc chính trị.”và ”Trong nhận thức ấy, xin đừng trách nền sử học một thời đã
từng lên án nhà Nguyễn với những đánh giá mà ngày nay ta thấy thiếu sự công
bằng.”
1.2. Các quan điểm bắt đầu từ những năm 1990 trở lại đây: Trường
phái đánh giá cả “công” và “tội” của triều Nguyễn.
Các quan điểm nói trên, dù khen hay chê, dù cho rằng triều Nguyễn có tội
hay có công đều mang những tính hạn chế nhất định vì chỉ nhìn nhận vấn đề theo
một mặt. Trường phái quan điểm mới mà chúng ta sắp tìm hiểu là trường phái
nghiên cứu gần đây. Nó thể hiện những quan điểm đánh giá khách quan hơn, toàn
diện hơn về triều Nguyễn trên tất cả các phương diện sự ra đời, chính sách đối nội,
đối ngoại và trách nhiệm để mất nước vào tay thực dân Pháp. Trường phái quan
điểm này được bắt đầu từ hội thảo năm 1992, 1996 bàn về kinh tế - xã hội thời
Nguyễn. Tuy nhiên hai hội thảo này còn nhiều hạn chế vì không tìm hiểu cặn kẽ về
vương triều Nguyễn. Nhưng đến Hội thảo tháng 10/2008 về chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn thì những quan điểm mới khách quan này đã được thể hiện rõ ràng và
hoàn thiện hơn. Những quan điểm mới này được tập hợp trong cuốn “Lịch sử nhà
Nguyễn - Một cách tiếp cận mới”. Trong cuốn sách, Giáo sư Nguyễn Ngọc Cơ đã
trình bày quan điểm mới của mình về từng phương diện như sau:
“1. Về sự tái lập vương triều Nguyễn:
Trong phần nhiều tác phẩm sử học viết về triều Nguyễn kể cả các tác phẩm
được công bố trước năm 1945 đều cho rằng vương triều Nguyễn là vương triều
phản động vì hành động chống Tây Sơn và những chính sách nội trị ngoại giao sai
lầm tiếp đó của triều đại này.
Chúng tôi cho rằng nhận định đó không sai, song cần làm rõ ở một số điểm.
(...)
Nền thống trị của nhà Nguyễn được xác lập từ năm 1802 đứng trước một
loạt thách thức, có thể xem là điều bất thường của lịch sử Việt Nam. Sự thắng thế
của Nguyễn Ánh trước Tây Sơn có thể coi là sự thắng thế của những nhân tố bảo
thủ lạc hậu đối với nữhng yếu tố tiến bộ. Một trở lực lớn đã chưa được dẹp bỏ
trước yêu cầu phát triển của một lực lượng sản xuất mới đang manh nha. Nói cách
khác, sự phát triển của kinh tế xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đã chưa thể tạo
ra được một lực lượng xã hội mới, lớn mạnh, đủ sức gạt bỏ những chướng ngại
trên con đường phát triển của nó. Phải chăng những hạn chế lịch sử này chính là
nguồn gốc dẫn đến sự suy yếu của triều đại Tây Sơn và cắt nghĩa sự thắng thế của
tập đoàn phong kiến họ Nguyễn do Nguyễn Ánh cầm đầu trong những năm đầu thế
kỷ XIX?
Đến lượt nhà Nguyễn, phải chăng cũng chính những hạn chế lịch sử đó lại
quy định và làm nảy sinh những mầm mống của sự suy sụp trong những năm tiếp
sau?
2. Về thể chế chính trị và các chính sách đối nội của các vua triều Nguyễn
Sau thời gian dài chiến tranh liên miên, nền kinh tế đất nước trở nên tiêu
điều, chính trị rối loạn, công việc cần làm trước mắt của Gia Long và các vua đầu
triều Nguyễn là bắt ta xây dựng và củng cố nền thống trị trên nền tảng của ý thức
hệ Nho giáo, một ý thức hệ tuy đã lỗi thời ở phương Đông nói chung, ở Việt Nam
nói riêng nhưng vẫn chưa có một cơ sở kinh tế và xã hội đủ mạnh để có thể thoát
ra khỏi vòng ảnh hưởng và chi phối của nó. Có điều cần nói ở đây là do quá chú
tâm đến việc vun vén quyền lực của giai cấp và dòng họ nên các ông vua nhà
Nguyễn đã cho thi hành nhiều chính sách thiển cận, ngăn chặn và làm thui chột
những yếu tố tiến bộ của nền sản xuất hàng hoá, manh nha xuất hiện từ thế kỷ
XVIII. Cũng do quá nhiều công việc đối nội, đối ngoại bề bộn cần giải quyết, cuốn
hút tâm lực và do đầu óc thủ cựu, tư tưởng tự cao tự đại với mớ thuuyết Khổng,
Mạnh lỗi thời chi phối nên các vua triều Nguyễn đã không bắt kịp xu thế của thời
đại, không đưa ra được những đối sách phù hợp để tự cứu mình, cứu dân tộc trong
bối cảnh chủ nghĩa tư bản châu Âu đang ráo riết bành trướng sang phương Đông.
Ở đây cần thấy rằng sự thiếu thức thời, sự mê muội và lệ thuộc thái quá vào những
bài học Trung Hoa đã dẫn các vua triều Nguyễn đi từ sai lầm này đến sai lầm
khác, trước hêế là ở việc củng cố chế độ quân chủ quan liêu chuyên chế ở việc tập
trung quyền lực tuyệt đối trong tay nhà vua, việc mô phỏng bộ luật nhà Thanh để
làm ra Hoàng triều luật lệ với những quy định hà khắc, chủ yếu là trừng trị và đối
phó với những cuộc nổi dậy của nhân dân. Chính sự lệ thuộc quá đáng vào các bài
học Trung Hoa mà triều đình Nguyễn kiên quyết “bế quan toả cảng”, khước từ
giao thiệp với các nước phương Tây, không cho phép người Âu lập phố xá, mở cửa
hàng đi cùng với chính sách cấm đạo, giết đạo khốc liệt. Tư tưởng Tống nho sáo
rỗng ăn sâu vào các tầng lớp vua quan phong kiến thời Nguyễn đã cản trở trào lưu
duy tân đổi mới khiến cho thế nước càng ngày càng suy vi, tinh thần bạc nhược đối
lập với các trào lưu tiến hoá.
Nền kinh tế bị phá hoại nghiêm trọng trong những năm nội chiến đã không
thể hồi phục vì nhà nước không chăm lo đúng mức đến phát triển kinh tế nông
nghiệp. Nạn kiêm tinh ruộng đất gia tăng khiến phẩn lớn nông dân mất đất. Nạn
đói thường xuyên xảy ra, thiên tai ôn dịch hoành hành làm hàng ngàn nông dân
phiêu tán... Trong khi đó thì công thương nghiệp lạc hậu không thể giúp gì trong
việc cải thiện tình hình. Chế độ công thương cũ kỹ, thuế khoá hà khắc, chính sách
bế quan toả cảng hạn chế công thương nghiệp trong khuôn khổ kinh tế phong kiêế,
chống lại ảnh hưởng của kinh tế tư bản chủ nghĩa Tây phương... Thái độ cầu an
của giai cấp thống trị kìm hãm đã khiến cho các lực lượng sản xuất mới không nảy
nở được...
Tất cả những điều đã nói ở trên hợp thành nguyên nhân suy yếu của phong
kiến Việt Nam thế kỷ XIX. Tuy nhiên, xã hội thời Nguyễn cũng có những bước tiến
nhất định. Cho nên bức tranh toàn cảnh về kinh tế, chính trị, xã hội phức tạp, đôi
khi tự mâu thuẫn và đan xen giữa cái tiến bộ và bảo thủ, mạnh và yếu, tích cực và
tiêu cực…
Vì lẽ đó mà khi nghiên cứu lịch sử triều Nguyễn, người ta đưa ra nhiều phiên
bản khác nhau. Bên cạnh những ý kiến phê phán, thậm chí lên án gay gắt, thì cũng
lại có những ý kiến ca ngợi, biểu dương, nhất là khi nói về những “điếm sáng”
trong lịch sử thời Nguyễn.
Đó là khi đề cập đến các hiện tượng kinh tế Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, về
chính sách khai hoang, thuỷ lợi, về các biện pháp cải cách hành chính, tư pháp,
phương thức quản lý ruộng đất, về một số thành tựu văn học, sử học, y học, kiến
trúc thậm chỉ cả một phần trong các chính sách đối nội, đối ngoại của các đời vua.
Về văn hoá thì cho dù phê phán nhà Nguyễn trong quá trình củng cố quyền
lực của mình đã tìm mọi cách phục hồi Nho giáo vốn đã suy đồi trong những thế kỷ
trước, biến Nho giáo thành bệ đỡ tư tưởng cho chính quyền chuyên chế...vẫn có
những ý kiến cho rằng dưới triều Nguyễn, giáo dục khoa cử Việt Nam đã có bước
phát triển mới, tuyển chọn được nhiều người tài... Còn trong khi thi hành chính
sách độc tôn Nho giá, hạn chế Phật giáo, cầm đoán đạo Thiên chú thì đạo Phật
nước ta vẫn có điều kiện phát triển ở các vùng nông thôn, bên cạnh là sự thăng
hoa của các tín ngưỡng dân gian.
Cũng về vấn đề tôn giáo, một số tác giả cho rằng, việc cấm đạo thời Nguyễn,
chẳng qua chỉ là sự kế tục các chónh sách truyền thống phương Đông, học kinh
nghiệm Trung Hoa, Nhật Bản. Từ thời Minh Mạng, việc cấm đạo trở nên gay gắt,
nhưng “đó là một chính sách có hạt nhân hợp lý và có ý nghĩa bảo vệ an ninh quốc
gia, chỉ có điều “lợi bất cập hại” mà thôi.
Về khoa học, nhất là khoa học xã hội, có nhiều thành tựu độc đáo, phát huy
được truyền thống văn hiến Việt Nam...
Như vậy, để đi đến ý kiến thống nhất hoàn toàn về các vấn đề lịch sử riêng lẻ
thời Nguyễn, nhất là những vấn đề nhạy cảm là một công việc khó khăn, thậm chí
là không thế, còn trên phương diện đại thì hoàn toàn là có thể, bởi toàn thể các
nhà nghiên cứu đều thừa nhận nguyên lý vè sự hiện diện của “những mặt đối lập”
trong một chỉnh thể thống nhất. Nói cách khác, trong khi thừa nhận có một bức
tranh nền sẫm của lịch sử thời Nguyễn thì người ta vẫn có quyền quan sát những
điểm sảng trong bức tranh đó với cách thức riêng và với những cám xúc riêng của
mình.
Có lẽ chỉ như thế chúng ta mới có thể xem xét lịch sử một cách khách quan,
công bằng, mới tránh được nhận thức chủ quan trong nghiên cứu và giảng dạy,
mới có thể mở ra phương hướng để giải quyết nhiều vấn đề của lịch sử đã qua và
đương đại, mới có thể đúc kết được bài học bổ ích từ quá khứ, vận dụng cho hiện
tại và tương lai.
3. Về chính sách ngoại giao thời Nguyễn
Như ta đã biết, nhà Nguyễn được tái lập trong một hoàn cảnh khá đặc biệt
của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và phải đương đâầ với hàng
loạt thách thức.
Khác với một số nhận định coi là “khắt khe”, cho chính sách ngoại giao thời
Nguyễn, chúng ta cần phải đặt nó trong bối cảnh lịch sử cụ thể, ví dụ như nói Việt
Nam thần phục Mãn Thanh thì cần xem xét truyền thống quan hệ ngoại giao Trung
- Việt trong lịch sử (quan hệ láng giềng hoà hiếu, thân thiện). Khi nói tới nước Đại
Nam hùng mạnh thời Minh Mạng đem quân sang Ai Lao và Cao Miên các năm
1827, 1835 thì phải tìm hiểu căn nguyên của vấn đề, nói rõ bản chất của sự việc,
trong đó có cả việc xung đột nội bộ của các nước nói trên, hay âm mưu lợi dụng
sức mạnh của Đại Nam để thoán đoạt quyền lực... Còn khi nghiên cứu chính sách
đóng cửa của nhà Nguyễn thì cần phải xem xét tới âm mưu bành trướng của chủ
nghĩa tư bản phương Tây, tới hành vi mờ ám của các giáo sĩ đạo cơ đốc và sau đó
là sự ngăn trở của thực dân Pháp trong quan hệ trềi đình Nguyễn với nước ngoài
(như với Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Trung Quốc, Nhật Bản...).
Ngoài ra, lại phải xem thái độ của nhà Nguyễn trong chính sách đối ngoại: cũng
có lúc mềm dẻo, khôn khéo. Nhờ đó đã giữ được quan hệ cơ bản là tốt với Trung
Quốc, với các nước trong khu vực và cả với cả phương Tây trong một thời gian
dài.
Cuối cùng, về kết cục của nền ngoại giao thời Nguyễn thì nên xem xét ở hai
phía: sai lầm của vua quan ta và âm mưu lang sói của kẻ thù...
Tóm lại về chính sách ngoại giao của các vua thời Nguyễn nên được nhìn ở
hai khía cạnh: tích cực và hạn chế, ở phần hạn chế có thể khẳng định: chính sách
bài phương Tây thái quá dẫn đến việc cấm đạo hà khắc; thái độ mềm yếu trong đối
phó với cuộc xâm lược vũ trang của bọn thực dân; thiếu quyết tâm chống giặc và
thắng giặc; hành động ngăn trở cuộc kháng chiến của nhân dân, chỉ trông mong
vào lương tâm và hảo ý của kẻ địhc, trông chờ vào sự cứu giúp từ bên ngoài,...
cuối cùng phải ký kết các hiệp ước đầu hàng. Đó là phần bi đát nhất trong tramh
sử ngoại giao thời Nguyễn.
Tựu trung lại, chính sách ngoại giao của các triều vua Nguyễn tuy không
hoàn toàn là sai lầm, có lúc còn có thể coi là khôn khéo nhưng đứng trước kẻ thù
nham hiểm và khát vọng xâm lược của chúng, một số mặt hạn chế củ đường lối đó
đã bị khai thác triệt để và nó đã không thể cứu được đất nước khỏi hoạ xâm lăng”.
[6; 10 – 19]
Cuốn sách cũng ghi lại lại ý kiến đánh giá của Giáo sư Văn Tạo về cả mặt
mạnh và yếu của nhà Nguyễn như sau:
“Vậy cái mạnh của triều Nguyễn 1802 – 1884 ở những chỗ nào?
Mặt mạnh hay những thành đạt của đất nước trong thời kỳ này ngoài hệ
thống hành chính được củng cố qua cải cách của Minh Mệnh còn có:
- Phát triển kinh tế xã hội trong chừng mực nhất định, nhất là về nông
nghiệp: trị thuỷ đắp đê phòng lụt, đào kênh khai ngòi, dẫn thuỷ nhập điền, khẩn
hoang ở Bắc, khai thác đát đai màu mỡ ở Nam, khiến của cải xã hội gia tăng, dân
số phát triển, góp phần thúc đẩy công, thương nghiệp phát triển hơn trước.
- Phát triển giáo dục: tăng cường khoa cử, đào tạo và tuyển chọn nhân tài
(những tài năng văn hoá, nghệ thuật ngày một nhiều như Nguyễn Công Trứ, Đào
Tấn, những nhà thơ xuất sắc như Thần Siêu, Thánh Quát đều xuất hiện trong giai
đoạn này).
- Phát triển văn hoá, khoa học, nhất là về lịch sử (Đại Nam Hội Điển sự lệ,
Việt Sử Thông giám Cương mục, Lịch triều Hiến chương Loại chí), địa lý (Đại
Nam nhất thống chí, Đại Nam nhất thống toàn đồ...) đều đạt nhiều thành tựu, nhằm
phát huy nền văn minh, văn hiến Việt Nam.
Và mặt yếu hay những tư tưởng, phong cách, hành động bảo thủ, trì trệ, lạc
hậu của nhà Nguyễn được thể hiện ra sao?
Đáng kể như:
- Về kinh tế thì tô thuế nặng nề, bế quan toả cảng, sản xuất chậm phát triển,
đời sống nhân dân ít được cải thiện, đói kém xảy ra triền miên, những đề nghị cải
cách của Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ không lọt được vào tai.
- Về chính trị, với cơ chế quản lý theo Tống Nho, sao chép Mãn Thanh cổ
hủ, lạc hậu khiến mâu thuẫn xã hội giữa nhân dân với triều đình, giữa giàu và
nghèo ngày càng tăng, mâu thuânc đối kháng có lúc có nơi diễn ra kịch liệt biểu
hiện ra ở hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân, tiêu biểu như Nguyễn Hữu Cầu,
Phan Bá Vành...
- Về quân sự: thiếu tinh thần tự lực tự cường, thiếu đoàn kết “vua tôi đồng
lòng anh em hoà mục” như thời Trần chống Nguyên, thiếu tinh thần chí cốt giữa
quân và tướng (phụ tử chi vinh) như của Trần – Lê. Khi thực dân đến xâm lăng thì
chủ hoà, đầu hàng luôn vượt trội chủ chiến. Trong nội tộc thì “Hàm Nghi Duy
Tân” những viên ngọc quý không nhiều, còn những “Tự Đức” nhu nhược, “”Dồng
Khánh, Khải Định, Bảo Đại...” tự ngyện làm tay sai cho để quốc lại nhiều hơn.
Theo những mặt mạnh mặt yếu kể trên thì vua chúa nhà Nguyễn vừa là tác
nhân, vừa là một trong những sản phẩm của xã hội Việt Nam - một xã hội đầu thế
kỷ XIX chưa thoát ra khỏi được tầm vóc kinh tế, chính trị, xã hội trung cổ mà chính
họ cũng phải chịu trách nhiệm. Trong 143 năm tồn tại của nhà Nguyễn “công và
tội đều có”.
[6; 29 – 31]
Với bài “Triều Nguyễn – sau 200 năm nhìn lại”, cũng được tập hợp trong
cuốn “Lịch sử nhà Nguyền – một cách tiếp cận mới” này, PGS. TS Đỗ Bang đã
nêu lên các ý kiến đánh giá trước đó và thông qua đó trình bày ý kiến của mình về
một số vấn đề cơ bản của nhà Nguyễn. Theo ông, hơn 10 năm qua (kể từ những
năm 1990), đánh dấu một thành tựu quan trọng việc nghiên cứu về triều Nguyễn.
Triều Nguyễn được nhìn nhận đúng đắn hơn, khách quan hơn. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, thảo luận:
“1. Vấn đề thống nhất đất nước
Các ý kiến cho rằng: Công lao thống nhất đất nước là do một mình Nguyễn
Huệ và Nguyễn Anh đều không đúng. Công cuộc thống nhất đất nước là của cả dân
tộc và diễn ra trong một quá trinh đấu tranh lâu dài và gian khổ không kém gì sự
nghiệp đấu tranh và giải phóng dân tộc. Sau hơn hai thế kỷ nội chiến và chia cắt,
công cuộc thống nhất đất nước vào thế kỷ XVIII trở thành một xu thế của lịch sử.
Sự kiện quan trọng nhất trong trong công cuộc thống nhất đất nước vào thế kỷ
XVIII là sự kiện Nguyễn Huệ cũng nghĩa quân Tây Sơn dau khi đánh thắng quân
Xiêm, loại bỏ thế lực chúa Nguyễn vào năm 1785 ở chiến trường miền Nam, mùa
hè 1786 ra Phú Xuân lật đổ Chúa Trịnh, đại phá quân Thanh, xóa bỏ Đàng Trong
– Đàng Ngoài, thực hiện được khát vọng của nhân dân. Nguyễn Huệ lại tiếp tục
củng cố nền thống nhất đất nước nhưng vẫn không vượt qua được hạn chế của lịch
sử. Đó là việc tồn tại hai niên hiệu, hai chính quyền Tây Sơn của Thái Đức và
Quang Trung ở hai vùng kiểm soát khác nhau. Năm 1792, vua Quang Trung chuẩn
bị kế hoạch hợp nhất lực lượng với vua anh là Thái Đức để đánh quân Nguyễn ở
Gia Định, hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước, thì nhà vua đột ngột qua
đời, để lại một sự nghiệp thống nhất dở dang. Nguyễn Ánh sau khi chiếm được Phú
Xuân, năm 1802 lên ngôi ở Huế và cho quân ra Bắc đánh bại vương triều Tây Sơn,
mới hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước.
2. Vấn đề độc lập dân tộc
Một số ý kiến muốn đặt lại vấn đề Nguyễn Ánh “cõng rắn cắn gà nhà” hay
“rước voi dày mà tổ” trong bối cảnh chế độ quân chủ chuyên chế để có cách nhìn
thỏa đáng hơn. Nhưng nhìn chung hành động cứu viện của Nguyễn Ánh để 5 vạn
quân Xiêm sang xâm lược nước ta vào năm 1784 – 1785 với những hậu quả của nó
là không thể chạy tội trước lịch sử. Hiệp ước Versailles đã được ký kết giữa Pháp
và Bá Đa Lộc người đại diện Nguyễn Ánh đi sang Pháp để xin cầu viện tuy không
được thực thi, nhưng Nguyễn Ánh đã nhờ quân đội, phương tiện và chiến phí
phương Tây, do Bá Đa Lộc vận động đóng góp, chiến thắng quân Tây Sơn. Đây
cũng là lý do để xem xét động cơ và duyên cớ sau này mà thực dân Pháp xâm lược
nước ta.
Sau khi lên ngôi Hoàng Đế, Gia Long có thái độ thận trọng hơn đối với các
nước phương Tây; vì tiếp xúc nhiều nên nhà vua thừa hiểu bản chất và dã tâm của
họ. Từ việc hạn chế giao thiệp với phương Tây của Gia Long đến thái độ cứng rắn
và thù địch của vua Minh Mệnh và Thiệu trị; các vua Nguyễn tưởng đó là lập
trường kiên định và biện pháp đúng đắn để bảo vệ chủ quyền. Nhưng không ngờ nó
trở thành duyên cớ để thực dân Pháp dùng vũ lực can thiệp và xâm lược nước ta
dưới thời Tự Đức. Khi nổ súng xâm lược nước ta, chúng đã hoàn toàn thất bại
trong chiến cuộc Đà Nẵng năm 1858, mặc dù đã huy động lực lượng tối đa. Vua tự
Đức đã không phát huy tinh thần chiến đấu dũng cảm và sự đoàn kết chống giặc
ngoại xâm nền cuộc chiến đấu của triều đình Huế và các cuộc khởi nghĩa của nhân
dân về sau đều thất bại. Triều Nguyễn liên tiếp ký với Pháp nhiều hàng ước, lãnh
thổ và chủ quyền đất nước cũng từ đó rơi dần vào tay thực dân Pháp. Với tư tưởng
chủ hòa này, triều Nguyễn đưa đất nước đến vực thẳm nô lệ. Không nền nặng nề
với lời quy kết bán nước như trước đây, nhưng triều Nguyễn phải hoàn toàn chịu
trách nhiệm trước lịch sử vì để mất nước, dân tộc ta phải chịu cảnh nô lệ dưới ách
thống trị thực dân Pháp vào nửa sau thế kỷ XX. KHông nên gọi các vua triều
Nguyễn là “bán nước”. Từ Gia Long cho đến Tự Đức, các nhà vua đó đều yêu
nước, đều có ý thức bảo vệ chủ quyền và nền độc lập. Sai lầm của các vua là do
biện pháp bảo vệ chủ quyền không thích hợp, thiếu sáng suốt, lại đặt quyền lợi
vương quyền lên trên chủ quyền đất nước và lợi ích của dân tộc nên dẫn đến sự
thất bại. Khi chủ quyền và nền độc lập không còn thì vương triều cũng bị lệ thuộc
hoặc tước bỏ. Các ông vua tiếp nhận hậu quả đau thương này đã làm hoen ố triều
Nguyễn và cả dòng chảy yêu nước là Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại. Nhưng
triều Nguyễn cũng có những nhà vua yêu nước, biết đặt lợi ích của dân tộc lên trên
ngôi báu, vương quyền, hướng theo ngọn cờ yêu nước chống Pháp được nhân dân
ngưỡng mộ, như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Các ông làm rạng rỡ truyền
thống chống ngoại xâm và bất khuất của dân tộc mà không phải thời nào cũng có
và nước nào cũng có những nhà vua yêu nước không chịu quỳ gối làm tay sai cho
giặc, từ bỏ ngai vàng đi theo kháng chiến, chấp nhận tù đày như các vị vua triều
Nguyễn ở Việt Nam.
Một số ý kiến cho rằng triều Nguyễn là phản động vì đánh bại vương triều
Tây Sơn, một triều đại có những cống hiến to lớn trong lịch sử chống ngoại xâm
của dân tộc , lật đổ được chế độ phong kiến và cát cứ Đàng Trong – Đàng Ngoài
cũng đúng. Vì những yếu tố tích cực, tiến bộ của phong trào Tây Sơn mà nhân dân
ta đã giành được dưới thời Nguyễn Huệ đã không còn phát huy sau ngày vua
Quang Trung mất (1792). Triều đại Tây Sơn dưới thời vua Cảnh Thịnh đã thoái
hóa biến chất, suy đồi dẫn đến mâu thuẫn nội bộ và mâu thuẫn xã hội vô cùng gay
gắt, là nguyên nhân dẫn đến thất bại trước áp lực quân sự của Nguyễn Ánh. Vương
triều Tây Sơn đã làm mất lòng dân, không được nhân dân đồng tình ủng hộ nên
quân Nguyễn thắng Tây Sơn thường tình và dễ hiểu.
3. Về ngoại giao và ngoại thương
Các ý kiến cho rằng triều Nguyễn có chính sách ngoại giao và ngoại thương
mù quán, bất bình đẳng và thiển cận. Đó là việc phục tùng và triều cống nhà
Thanh (Trung Quốc), bành trướng và xâm lược Cao Miên và Ai Lao. Bế quan và
thù địch với các nước phương tây. Những nhận trên tuy không sai những có phần
khắt khe. Vì bối cảnh quan hệ quốc tế vào thế kỷ XIX không giống như ngày nay.
Thế giới chia làm nhiều khu vực đứng đầu là một nước lớn (Thiên Triều) với các
nước chư hầu, phụ thuộc. Khi trật tự này chưa bị thay đổi thì việc triều Nguyễn
phục tùng triều Thanh là mối quan hệ vốn có trong truyền thống ngoại giao hòa
hiếu lâu đời của các vua chúa Việt Nam, kể cả những vương triề được thành lập
sau khi đã chiến thắng họ - kẻ thù xâm lược – như Lê Lợi, Quang Trung.
Với tư tưởng “bình thiên hạ” để khẳng định vị thế bang giao của các vua
chúa ngày xưa, nước Đại Nam hung mạnh dưới triều Minh Mệnh đã xâm lấn Cao
Miên và Ai Lao cũng không là ngoại lệ, khi trước đó các triều đại Lý, Trần, Hồ,
Lê…đều có một mục tiêu là bành trướng, mở đất về phía Nam. Có người phê phán
triều Nguyễn “bế quan tỏa cảng” cũng không hoàn toàn đúng. Trong thực tế triều
Nguyễn đã mở các cánh cửa cho thuyền buôn Trung Quốc và các nước trong khu
vực thông thương, triều Nguyễn cũng mở một cửa Đà Nẵng cho thuyền buôn
phương Tây đến buôn bán. Triều Nguyễn cũng là triều đại đầu tiên có đội thuyền
viễn dương được triều đình cử đi đến các nước Đông Nam Á và châu Á để buôn
bán và đặt quan hệ ngoại giao. Do nhìn nhận thành kiến đối với các nước thực dân
phương Tây nên triều Nguyễn từ thờ ơ, lạnh nhạt đến khước từ việc đặt quan hệ
ngoại giao đối với các nước Pháp, Anh, Mỹ…từ nửa đầu thế kỷ XIX. Đó là một lối
thoát sai lầm của triều Nguyễn trước họng súng tầm xa của chế độ thực dân.
Triều Nguyễn có nhiều cố gắng trong chính sách ngoại giao và ngoại
thương nhưng vẫn không cải thiện tốt hơn trong quan hệ với các nước. Không tìm
ra được một phương án phù hợp và tối ưu, triều Nguyễn lại gặp nhiều khó khăn,
luẩn quẩn do các quan hệ phức tạp tiếp tục nảy sinh. Cuối cũng, triều nguyễn bị
thất bại trong mục tiêu xâm lược Cao Miên, Ai Lao và bị thất bại trước mục tiêu
chống xâm lược do thực dân Pháp gây ra.
4. Vấn đề canh tân đất nước
Vấn đề canh tân đất nước dưới triều Nguyễn được nhiều tác giả quan tâm
đặt ra từ nửa sau thế kỷ XIX, khi xuất hiện các trào lưu cải cách của một số trí
thực tân học tiến bộ như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch…Nhưng có lẽ vấn
đề này nên đặt từ đầu thế kỷ XIX.
Trong số các vua chúa ở phương Đông cùng thời, Gi Long là một người am
hiểu nhiều về thế giới phương tây từ nhận thức chính trị, tư tưởng, văn hóa, khoa
học, quân sự… Những người thân cận xung quanh nhà vua cũng có sự nhận thức
như vậy. Lúc còn làm chúa ở miền Nam, Nguyễn Ánh đã chỉ huy công nghệ đóng
thuyền theo kiểu phương Tây, trang bị cho mình một phương tiện chiến tranh hiện
đại theo lối Âu hóa để đánh với quân Tây Sơn. Trong thời gian này, Nguyễn Ánh
cũng đã tiếp thu kỹ thuật xây thành kiểu Vauban để xây thành Mỹ Tho, Gia Định,
tiêu biểu là kinh thành Huế sau khi lên ngôi vua. Tư tưởng dân chủ phương Tây
cũng tư tưởng Minh Nho thực tiễn và khoáng đạt một thời giúp Nguyễn Ánh quy
phục được lòng dân, thực hiện nhiều cải cách trong bộ máy cai trị góp phần làm
nên thắng lợi trong thập niên cuối cùng để đánh bại vương triều Tây Sơn.
Như vậy, sau những cải cách kinh tế của các chúa Nguyễn ở Đáng Trong từ
thời chúa Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên đầu thế kỷ XVII đã thành công đến
những cái cách của vua Quang Trung, của Nguyễn Ánh từ cuối thế kỷ XVIII, rõ
ràng là đất nước ta vào đầu thế kỷ XIX đang đặt ra một yêu cầu cải cách. Nhưng
các vua Gia Long, Minh Mệnh chỉ chú ý đến việc cải cách thành luỹu, đóng thuyền,
khẩn hoang,… Sau khi xưng đế, vua Gia Long bắt chước kỷ cương của nhà Thanh,
giáo điều theo tư tưởng Tống Nho sao rỗng, từ chương, xa rời thực tế là triều
Nguyễn ngày càng trở nên nặng nề, bảo thủ, lạc hậu là nguyên nhân sâu xa làm
thế nước về sau suy yếu, tinh thần bạc nhược, đối lập với các trào lưu tiến hóa. Khi
sóng gió thực dân ập đến, triều đình Tự Đức như một cơ thể tiều tụy chứa quá
nhiều bệnh tật nên bị đánh đổ.
Không canh tân đất nước mạnh giàu là một lỗi lầm của triều Nguyễn, chính
lỗi lầm này đã dẫn đến sai lầm trong biện pháp chống ngoại xâm làm triều Nguyễn
bị ngã quỵ trước một nền văn minh vật chất của thế giới phương Tây là bài học
thấm thía cho nước Đại Nam tự mãn của triều Nguyễn. Cùng với trách nhiệm để
mất nước, triều Nguyễn còn chịu trách nhiệm trước lịch sử về một cơ hội canh tân,
làm đát đất nước kéo dài trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu cuối cùng bị rơi
xuống hố thẳm nô lệ của ngoại bang.
Vào nửa sau thế kỷ XIX, khi vấn đề canh tân đất nước được đặt ra một cách
khẩn thiết, cấp bách thì triều đình Tự Đức tỏ ra thờ ơ, bất hợp tác quả thật đó là
một lỗi lầm khó tha thứ.
5. Về tổ chức bộ máy nhà nước và pháp luật
Triều Nguyễn xây dựng một bộ máy nhà nước và pháp luật hoàn chính, chặt
chẽ và mạnh mẽ nhất trong các triều đại quân chủ Việt Nam. Công cụ cai trị đó đã
đắc lực giúp triều nguyễn thực thi các chính sách khẩn hoang, thủy lợi, xây dựng
kinh đô, đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nông dân, quản lý đươc biên giới và hải
đảo, mở rộng uy lực ra các nước xung quanh, chống tham nhũng, buôn lậu, giữ
được kỷ cương phép nước. Nhưng khi bộ máy cai trị đó đã lỗi thời, lạc hậu, trở nên
bảo thủ nặng nề thành lực cản ngăn chặn mọi xu thế tiến bộ tích cực trở thành tai
họa của đất nước và nhân dân…
[6; 49 -56]
Với một bài viết khá dài như trên, PGS. TS Đỗ Bang không chỉ xem xét mà
còn đánh giá và bổ sung cho các ý kiến của các học giả theo cả hai trường phái chê
hoặc khen nhà Nguyễn cùng với các vua Nguyễn. Có những ý kiến ông thừa nhận
nhưng cũng có những ý kiến ông phủ nhận và đánh giá lại. Trong bài viết của
mình, ông đã thể hiện quan điểm tiến bộ khi đánh giá cả những mặt được, mặt chưa
được, mặt tích cực, mặt chưa tích cực, những việc làm đúng đắn, những việc làm
sai lầm của nhà Nguyễn hoặc các vua Nguyễn.
Ngoài những ý kiến đánh giá về nhà Nguyễn theo quan điểm mới được tập
hợp trong cuốn sách “Lịch sử nhà Nguyễn – Một cách tiếp cận mới” ra, còn có một
số ý kiến cá nhân khác về những vấn đề riêng lẻ của vương triều Nguyễn như:
Tác giả Nguyễn Quang Trung Tiến khi đánh giá về chính sách cấm đạo của
nhà Nguyễn đã cho rằng: "Những chính sách cực đoan của nhà Nguyễn với Thiên