Tiểu luận quản lý môi trường
TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
Đề tài: Đặc trưng và hiện trạng ô nhiễm môi trường làng nghề Việt Nam
DANH SÁCH NHÓM 11
1.
Chu Thị Lan Anh
2.
Nguyễn Thị Thùy Linh
3.
Đỗ Tường Minh
4.
Dương Đăng Quang
5.
Nguyễn Văn Quý
6.
Lê Minh Sơn
7.
Nguyễn Thị Thu Thảo
8.
Trần Xuân Trung
9.
Trần Thị Loan
10.
Vũ Kim Phượng
11.
Lê Thị Tươi
MỤC LỤC
Nhóm 11
Page 1
Tiểu luận quản lý môi trường
MỤC LỤC2
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VÀ BẢN ĐỒ
PHẦN 1: MỞ ĐẦU - Đặt vấn đề
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
I. TỔNG QUAN LÀNG NGHỀ VIỆT NAM
1. Khái niệm làng nghề
2. Vai trò của các làng nghề truyền thống
3. Đặc trưng của các làng nghề ở Việt Nam
3.1. Phân bố làng nghề trong cả nước.
3.2. Tình hình sản xuất của các làng nghề
3.3. Một số thách thức chủ yếu đối với các làng nghề hiện nay
II. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ
1. Nguyên nhân ô nhiễm môi trường làng nghề Việt Nam
2. Hiện trạng ô nhiễm môi trường làng nghề.
2.1. Hiện trạng môi trường nước
2.2. Hiện trạng ô nhiễm rác thải rắn.
2.3. Hiện trạng môi trường khí
3. Một số ví dụ các làng nghề tại Việt Nam bị ô nhiễm
4. Tác hại của ô nhiễm môi trường làng nghề đến sức khỏe cộng đồng, kinh tế
- xã hội.
III, Giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề.
1. Quản lý môi trường làng nghề còn nhiều bất cập
2. Giải pháp bảo vệ môi trường làng nghề
PHẦN 3: KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VÀ BẢN ĐỒ
Nhóm 11
Page 2
Tiểu luận quản lý môi trường
Các bảng biểu, hình và bản đồ
Bản đồ Hiện trạng phân bố các làng nghề nước ta
Bảng 1. Đặc trưng ô nhiễm sản xuất của 1 số loại hình làng nghề
Bảng 2. Thải lượng các chất ô nhiễm trong nước thải của một số làng nghề
chế biến lương thực, thực phẩm
Bảng 3. Hàm lượng Coliform trong nước thải ở 1 số làng nghề sản xuất
lương thực, thực phẩm (MPN-100ml)
Bảng 4. Nhu cầu nhiên liệu và tải lượng xỉ của 1 số làng nghề chế biến
lương thực, thực phẩm
Bảng 5. Thải lượng ô nhiễm do đốt than tại 1 số làng nghề
Bảng 6. Một số làng nghề tại Việt Nam bị ô nhiễm nghiêm trọng theo
quyết định 64/2003/QD-TTG
Bảng 7. Một số đề xuất xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ môi
trường làng nghề ở nước ta
Hình 8. Cơ cấu quản lý môi trường cấp xã
Bảng 9. Các giải pháp sản xuất sạch hơn cho làng nghề tái chế kim loại
Trang
7
11
12
13
14
16
16
23
25
29
PHẦN 1: MỞ ĐẦU – Đặt vấn đê
Làng nghề - một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam, đóng vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo
công ăn, việc làm cho lượng lớn lao động nông thôn. Đồng thời, nhờ có sự đầu tư, mở
rộng quy mô và nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật, các sản phẩm làng nghề không
những phục vụ cho nhu cầu trong nước mà còn cho xuất khẩu với giá trị lớn, đóng góp
cho GDP của đất nước.
Tuy nhiên, một trong những thách thức đang đặt ra đối với các làng nghề là vấn đề môi
trường và sức khỏe của người lao động, của cộng đồng dân cư đang bị ảnh hưởng nghiêm
trọng từ hoạt động sản xuất của các làng nghề.
Nhóm 11
Page 3
Tiểu luận quản lý môi trường
Từ đó, đặt ra một vấn đề lớn cho các nhà khoa học, các cơ quan quản lý, làm sao tìm ra
phương án tối ưu để quản lý và bảo vệ môi trường tại các làng nghề truyền thống của
Việt Nam.
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
I, TỔNG QUAN LÀNG NGHỀ VIỆT NAM
1. Khái niệm làng nghê
Làng nghề đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu về trước, cũng đã từng có rất nhiều khái
niệm khác nhau về làng nghề, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống
nhất mà được “chấp nhận” như một phạm trù trong văn hoá. Vậy “làng nghề” rốt cuộc
là gì?
_ Khái niệm “làng”: “làng” là một phạm trù lịch sử và văn hoá có sự thay đổi từ
thời đại này sang thời đại khác.
+ Chính quyền phong kiến trung ương, gọi là triều đình, chính quyền địa
phương có tỉnh (hoặc châu), dưới tỉnh có phủ và huyện, dưới huyện có các làng.
+ Từ năm 1945, khi nước ta giành độc lập, theo hiến pháp 1946, 1959, 1980
và đặc biệt là Hiến pháp 1992 đã qui định rõ hệ thống chính quyền 4 cấp: Trung ương,
tỉnh, huyện, xã. Dưới xã tổ chức thành các thôn/ xóm/ bản hoặc phường và “khái niệm”
làng để chỉ địa danh của một cụm dân cư gồm nhiều thôn/ xóm/ bản hợp thành.
_ Khái niệm “nghê”: “nghê” là quá trình chuyên môn hoá lâu đời và các sản phẩm
của địa phương đó không những bền đẹp mà có giá thành rẻ nên được xã hội chấp
nhận. Chẳng hạn quê lụa Hà Tây có làng lụa Vạn Phúc nổi tiếng cả trong và ngoài
nước, hoặc nghề rèn ở Đa Sỹ…và Hà Tây nơi có nhiều làng nghề nổi tiếng nên được
thiên hạ đặt tên là “đất của trăm nghề”. Theo quan điểm chung, các hoạt động sản xuất
tiểu thủ công nghiệp ở địa phương nào đó được gọi là “nghê” khi nào tạo ra được một
Nhóm 11
Page 4
Tiểu luận quản lý môi trường
khối lượng sản phẩm chiếm lĩnh thị trường thường xuyên và những người sản xuất,
hoặc hộ sản xuất đó lấy nghề đang hành làm nguồn thu chủ yếu.
_ Khái niệm “làng nghê”:
Một làng được gọi là làng nghề khi hội tụ 2 điều kiện
+ Có một số lượng tương đối các hộ cùng sản xuất một nghề;
+ Thu nhập do sản xuất nghề mang lại chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập
của làng.
Có thể hiểu làng nghề “là làng nông thôn Việt Nam có ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp, phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số lao động và thu nhập so với nghề
nông” [Đặng Kim Chi, 2005].
2. Vai trò của các làng nghê truyên thống
Làng nghề đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa và xóa
đói giảm nghèo ở nông thôn, giải quyết việc làm lúc nông nhàn, tăng thu nhập cho người
dân và phát triển du lịch. Các vai trò chính của làng nghề như sau:
- Làng nghề đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông
thôn: nhờ có sự phát triển mạnh mẽ của các làng nghề mà hạ tầng kỹ thuật như hệ thống
đường giao thông, đường điện, hệ thống thông tin liên lạc, nước sạch và các cơ sở hạ tầng
khác ở khu vực nông thôn được xây dựng và phát triển. Cở sở hạ tầng kỹ thuật phát triển
đã góp phần đổi mới bộ mặt nông thôn Việt nam, góp phần nâng cao cuộc sống người
dân, góp phần xóa đói giảm nghèo cho người dân. Nhìn chung ở các làng nghề thì cơ sở
hạ tầng kỹ thuật phát triển tương đối đầy đủ và đồng bộ.
- Làng nghề đóng vai trò quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn:
sự phát triển của các làng nghề đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông
thôn, giải quyết công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người dân trong khu vực làng
nghề.
Ở các làng nghề, người dân tham gia sản xuất nghề thủ công nhưng vẫn sản xuất nông
nghiệp ở một mức độ nhất định. Nhờ có sự phát triển của các làng nghề mà cơ cấu kinh tế
của nhiều địa phương đã có sự chuyển dich đáng kể, tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ
đạt từ 60 – 80% trong khi đó tỷ trọng nông nghiệp chỉ còn chiếm 20 – 40%.
Nhóm 11
Page 5
Tiểu luận quản lý môi trường
Các làng nghề cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo vì nó trực tiếp
giải quyết việc làm cho người lao động lúc nông nhàn, góp phần tăng thu nhập cho người
dân và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.
Các làng nghề tạo ra một khối lượng lớn công việc góp phần đáng kể trong việc giải
quyết công ăn việc làm cho người dân nông thôn. Theo Bộ Nông nghiệp & Phát triển
nông thôn, 2008 thì các làng nghề thu hút tới 11 triệu lao động, chiếm khoảng 30% lực
lượng lao động nông thôn. Tỷ lệ thời gian làm việc được sử dụng lao động trong tuổi của
khu vực nông thôn năm 2005 là 80%.
Mức thu nhập bình quân của người lao động ngành nghề cũng cao hơn từ 3 – 4 lần so với
thu nhập của người lao động thuần nông. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình trong số hộ sản xuất
thủ công nghiệp là 3,7% thấp hơn nhiều so với mức bình quân cả nước là 10,4% (Bộ
Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, 2004).
- Các làng nghề truyền thống tạo động lực thúc đẩy phát triển du lịch: ở nước ta có rất
nhiều các làng nghề truyền thống đã có từ lâu đời. Các làng nghề này không chỉ có thuận
lợi về cảnh quan thiên nhiên, vị trí địa lý mà nó còn có sức hút đặc biệt về bản sắc văn
hóa, lịch sử phát triển…vì vậy các làng nghề truyền thống có tiềm năng phát triển du lich
rất lớn.
Làng nghề truyền thống ở nước ta có thể được xem như một dạng tài nguyên du lich nhân
văn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi các sản phẩm du lịch làng nghề luôn bao hàm
trong nó cả những giá trị vật thể và phi vật thể. Việt Nam là nước có nhiều tiềm năng để
khai thác phát triển du lịch làng nghề, nếu được đầu tư đúng mức, khai thác hợp lý, đây
sẽ là phương tiện giao lưu, quảng bá đất nước, con người mạnh mẽ và sâu rộng nhất. Khi
văn hóa được giao thoa một cách tích cực thì giới hạn về không gian, địa lý sẽ không còn
ý nghĩa, lợi ích kinh tế, văn hóa, và vị thế của địa phương, quốc gia sẽ tăng lên gấp bội
(TS. Phạm Trung Lương, Viện nghiên cứu phát triển Du lịch).
3. Đặc trưng của các làng nghê ở Việt Nam
3.1. Phân bố làng nghê trong cả nước
Nhóm 11
Page 6
Tiểu luận quản lý môi trường
Hiện trạng phân bố các làng nghê nước ta
Nguồn: Tổng cục Môi trường, 2008
-Theo thống kê của Hiệp hội làng nghề hiện Việt Nam đang có khoảng 2.790 làng nghề,
thu hút 1,42 triệu hộ gia đình tham gia, với khoảng 1,35 triệu lao động chính và hàng
triệu lao động phụ trong lúc nông nhàn.
-Tại nhiều làng nghề, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đạt từ 60% - 80% và ngành
nông nghiệp chỉ đạt 20% - 40%, tập trung tại Đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ và
Đông Nam Bộ. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực làng nghề không ngừng tăng, từ 273,7
triệu USD (Năm 2000) lên 900 triệu USD (năm 2009).
Nhóm 11
Page 7
Tiểu luận quản lý môi trường
3.2 Tình hình sản xuất của các làng nghê
-Đại bộ phận nguyên vật liệu của các làng nghề thường là tại chỗ.hầu hết các làng nghề
truyền thống được hình thành xuất phát từ sự sẵn có của nguồn nguyên liệu sẵn có tại
chỗ, trên địa bàn địa phương. Tuy nhiên cũng có thể có một số nguyên liệu phải nhập từ
vùng khác hoặc từ nước ngoài như một số loại chỉ thêu, thuốc nhuộm... nhưng không
nhiều.
-Công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề
truyền thống thường rất thô sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu. Công cụ
lao động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ công, công nghệ sản xuất mang tính
đơn chiếc. Nhiều loại sản phẩm có công nghệ- kỹ thuật hoàn toàn phải dựa vào đôi bàn
tay khéo léo của người thợ mặc dù hiện nay đã có sự cơ khí hoá và điện khí hoá từng
bước trong sản xuất, song cũng chỉ có một số không nhiều nghề có khả năng cơ giới hoá
được một số công đoạn trong sản xuất sản phẩm.
-Hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ yếu là ở quy mô hộ gia đình, một số
đã có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân.
-Sản phẩm làng nghề, đặc biệt là làng nghề mang tính đơn chiếc, có tính mỹ thuật cao,
mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Các sản phẩm làng nghề truyền thống vừa có giá trị
sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ cao, vì nhiều loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu
dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền chùa, công sở nhà nước... các sản phẩm đều là sự
kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. cùng là đồ gốm
sứ, nhưng người ta vẫn có thể phân biệt được đâu là gốm sứ bát tràng (hà nội), thổ hà
(bắc ninh), đông triều (quảng ninh). Từ những con rồng chạm trổ ở các đình chùa, hoa
văn trên các trống đồng và các hoạ tiết trên đồ gốm sứ đến những nét chấm phá trên các
bức thêu... tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa đựng ảnh hưởng về văn
hoá tinh thần, quan niệm về nhân văn và tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc.
-Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề hầu hết mang tính địa phương, tại chỗ
và nhỏ hẹp. Bởi sự ra đời của các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống, là
xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng tại chỗ của các địa phương.ở mỗi
một làng nghề hoặc một cụm làng nghề đều có các chợ dùng làm nơi trao đổi, buôn bán,
tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề. Cho đến nay, thị trường làng nghề về cơ bản vẫn là
các thị trường địa phương, là tỉnh hay liên tỉnh và một phần cho xuất khẩu.
3.3 Một số thách thức chủ yếu đối với các làng nghê hiện nay
a. Nguyên nhân chủ quan
Nhóm 11
Page 8
Tiểu luận quản lý môi trường
• Các làng nghề còn phát triểu theo kiểu tự phát, mang tính phong trào, thiếu quy
hoạch, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ sản xuất lạc hậu, trang thiết bị máy móc
cũ kỹ, chắp vá không đảm bảo an tòan và các tiêu chuẩn về kỹ thuật, trình độ lao
động còn yếu kém chủ yếu là lao động thủ công .
• Sức cạnh tranh kém do không có sự đầu tư và chiến lược xây dựng và phát triển
thương hiệu cho mình, đồng thời do khâu sản xuất không đảm bảo các quy định về
an toàn, vệ sinh dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp . Đầu ra của sản phẩm phần lớn
là thị trường nhỏ hẹp , mang tính địa phương .
• Hầu hết các làng nghề Việt Nam hiện nay đã và đang bị ô nhiễm ở cả ba dạng: ô
nhiễm nước, ô nhiễm rác thải và khí thải. Một trong những nguyên nhân của tình
trạng trên là do cách thức tổ chức quản lý sản xuất của các slàng nghề hiện nay
chưa thật sự hiệu quả. Đa số làng nghề sản xuất với hình thức nhỏ lẻ, thiếu sự hỗ
trọ về vốn, công nghệ, cũng như thông tin thị trường… Nhằm giải quyết tình trạng
này thì việc quy hoạch không gian sản xuất gắn với bảo vệ môi trường là một
trong những giải pháp thu được hiệu quả đáng kể..Tuy nhiên, hiện nay việc quy
hoạch các làng nghề còn hạn chế về số lượng do thiếu sự đồng bộ, công tác quản
lý còn chồng chéo, phân định chưa rõ ràng giữa trách nhiệm của Bộ Công thương
và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
b. Nguyên nhân khách quan
• Nguồn nguyên liệu bị thiếu hụt cũng góp phần không nhỏ vào khó khăn trong phát
triển mở rộng quy mô sản xuất của làng nghề
• Cuối cùng, do tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới các làng
nghề lại càng phải chịu những ảnh hưởng nặng nề hơn do tình hình lạm phát tăng
cao, giá cả leo thang, sản xuất đình trệ, thị trường tiêu thụ bị bó hẹp lại, đời sống
của người lao động gặp nhiều khó khăn…
II. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ
1. Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường làng nghê ở Việt Nam
a. Ô nhiễm môi trường không khí
Ô nhiễm không khí tại các làng nghề chủ yếu là do đốt các nhiên liệu hóa thạch
và sự bay hơi các hóa chất trong dây chuyền sản xuất. Ô nhiễm không khí xảy ra
tại các làng nghề khác nhau theo từng nhóm ngành sản xuất.
• Ô nhiễm bụi: : diễn ra khá phổ biến tại các làng nghề gốm sứ, vật liệu xây
dựng, khai thác đá, đồ gỗ mỹ nghệ và các làng nghề tái chế. Đối với các
Nhóm 11
Page 9
Tiểu luận quản lý môi trường
làng nghề tái chế lượng bụi phát sinh có chứa hàm lượng lớn các kim loại
nặng và vật liệu độc hại.
• Ô nhiễm mùi: diễn ra tại làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn
nuôi và giết mổ, Mùi chủ yếu được phát sinh từ quá trình phân hủy các
chất thải hữu cơ bởi các loại vi sinh vật, tạo ra các loại khí gây mùi hôi
tanh, hôi thối như: SO2, NO2, NH3, H2S và CH4.
• Ngoài ra đối với các làng nghề ươm tơ, dệt lụa, thuộc da, các làng nghề
mây tre đan, thủ công mỹ nghệ thì ô nhiễm môi trường không khí chỉ diễn
ra cục bộ ở một số nơi.
b. Ô nhiễm nguồn nước mặt
Chủ yếu là do tác động của các loại nước thải làng nghề không được xử lý mà
thải bỏ trực tiếp ra môi trường. Ô nhiễm nước mặt làng nghề phụ thuộc vào đặc
điểm của nước thải từ các hoạt động sản xuất làng nghề.
• Ô nhiễm các chất hữu cơ: chủ yếu diễn ra tại các làng nghề chế biến lương
thực, thực phẩm, chăn nuôi, giết mổ. Nguyên nhân chính là do nước thải
của các làng nghề này có chứa hàm lượng các chất hữu cơ cao, nhất là tinh
bột từ sắn và dong giềng.
• Ô nhiễm các chất vô cơ: diễn ra tại các làng nghề dệt nhuộm, tái chế giấy
do tạo ra nước thải có chứa hàm lượng cặn lớn. Tại các làng nghề tái chế,
trong nước thải của khâu mạ và tái chế kim loại có chứa hàm lượng kim
loại năng độc hại vượt quá tiêu chuẩn cho phép hàng chục lần.
c. Ô nhiễm chất thải rắn
Hiện nay hầu hết các loại chất thải rắn tại các làng nghề vẫn chưa được thu
gom, xử lý mà xả thẳng vào môi trường.
• Đối với các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết
mổ: các loại chất thải rắn thường giàu chất hữu cơ dễ phân hủy sinh học
gây ra những mùi xu uế, khó chịu. Bên cạnh đó do nhóm làng nghề này có
nhu cầu sử dụng than lớn nên lượng xỉ than thải ra từ các làng nghề này
cũng rất lớn.
• Đối với các làng nghề tái chế phế liệu: chất thải rắn thường có thành phần
rất phức tạp và khó phân hủy. Ví dụ với các làng nghề tái chế kim loại thì
chất thải rắn bao gồm: bavia, bụi kim loại, phoi, rỉ sắt, lượng phát sinh
khoảng 1 – 7 tấn/năm.
• Các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ và thuộc da chất thải rắn thường là bụi
bông, bã kén từ ươm tơ, vải vụn, xỉ than, bao bì, thùng đựng hóa chất, da
vụn, da tự nhiên, cao su, chất dẻo... trong các loại chất thải rắn này thì có
rất nhiều loại có các thành phần rất khó phân hủy.
Nhóm 11
Page 10
Tiểu luận quản lý môi trường
Nhìn chung vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề là do các loại khí thải, nước
thải, chất thải rắn chưa được xử lý đã xả thẳng vào môi trường, gây ô nhiễm môi
trường không khí, đất, nước nghiêm trọng cho các địa phương.
2. Hiện trạng ô nhiễm môi trường làng nghê
Bảng 1. Đặc trưng ô nhiễm sản xuất của 1 số loại hình làng nghê
2.1. Hiện trạng môi trường nước
Khối lượng và đặc trưng nước thải sản xuất ở các làng nghề phụ thuộc chủ yếu vào
công nghệ và nguyên liệu dùng trong sản xuất. Chế biến lương thực, thực phẩm, chăn
nuôi, giết mổ gia cầm, gia súc, dệt, nhuộm,… là những ngành sản xuất có nhu cầu nước
rất lớn và cũng xả ra khối lượng lớn nước thải.
Bảng2. Thải lượng các chất ô nhiễm trong nước thải của một số làng nghê chế biến
lương thực, thực phẩm
Nguồn: Viện KH&CNMT, Đại học Bách Khoa Hà Nội, 2005
Nhóm 11
Page 11
Tiểu luận quản lý môi trường
Sản phẩm
COD
BOD5
SS
(Tấn/năm)
(Tấn/năm)
(Tấn /năm)
(Tấn/năm)
Bún Phú Đô
10.200
76,90
53,14
9,38
Bún Vũ Hội
3.100
22,62
15,3
2,76
Bún bánh Ninh Hồng
4.380
15,08
10,42
1,84
Rượu Tân Độ
450.000 lít
2.250
13,01
11,55
Tinh bột Dương Liễu
52.000
13.050
934,4
2.133
Làng nghê
Nước thải làng nghề dệt nhuộm
Nước thải làng nghề mạ kim loại
Điển hình là “Thành Phố Hà Nội, sau khi mở rộng có 255 làng nghề, với 6 loại hình sản
xuất khác nhau. Trong đó có 59 làng nghề dệt, nhuộm đồ da chiếm 23%, 43 làng nghề
chế biến lương thực, thực phẩm chiếm 16,9%, 135 làng nghề thủ công mỹ nghệ chiếm
53%... Hàng ngày nước thải hoàn toàn chưa được xử lý đã góp phần làm môi trường
nước mặt song Nhuệ, sông Đáy trở nên ô nhiễm nghiêm trọng hơn.” [Sở Công Thương
TP. Hà Nội, tháng 9/2008]
_ Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ: Khối lượng nước
thải sản xuất lớn với thải lượng các chất ô nhiễm hữu cơ cao và đặc biệt là lượng
Coliform trong nước rất cao ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
Nhóm 11
Page 12
Tiểu luận quản lý môi trường
Bảng 3. Hàm lượng Coliform trong nước thải ở 1 số làng nghê sản xuất lương thực,
thực phẩm (MPN-100ml)
_ Các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: nước thải sản xuất có độ màu cao, chứa
nhiều hóa chất. Dệt nhuộm là ngành nghề có nhu cầu hóa chất rất lớn (Thuốc nhuộm các
loại, xút, axit). Khoảng 85-90% lượng hóa chất này hòa tan trong nước thải. Do đó, nước
thải dệt nhuộm chứa nhiều hóa chất, có độ màu rất cao và hầu hết không được xử lý trước
khi xả thải vào môi trường.
_ Các làng nghề tái chế phế liệu: nước thải sản xuất chứa nhiều hóa chất độc hại.
+Tái chế kim loại: tạo ra lượng lớn các kim loại nặng, dầu mỡ công nghiệp, quá trình
mạ bạc thì tạo ra các muối Hg, Xianua… rất độc hại
+Tái chế giấy: Nước thải công đoạn ngâm, tẩy, nghiền trong tái chế giấy chiếm
khoảng 50% tổng lượng thải và chứa nhiều hóa chất độc hại khác như xút, axit,…
2.2. Hiện trạng rác thải rắn
Chất thải rắn ở hầu hết các làng nghề chưa được thu gom và xử lý triệt để, nhiều làng
nghề xả thải bừa bãi gây ô nhiễm môi trường.
Nhóm 11
Page 13
Tiểu luận quản lý môi trường
Nước và rác thải từ sản xuất tại các làng nghê xâm lấn cả khu dân cư
“Khối lượng chất thải rắn của 255 làng nghề thuộc TP. Hà Nội lên tới 207,3/ngày chưa
tính chất thải rắn chăn nuôi gia súc, gia cầm” [Sở Công Thương TP. Hà Nội,2008]
_ Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi: chất thải rắn giàu chất hữu
cơ dễ bị phân hủy sinh học gây ra những mùi hôi thối, khó chịu.
Bảng 4. Nhu cầu nhiên liệu và tải lượng xỉ của 1 số làng nghê chế biến lương thực,
thực phẩm
Đơn vị: tấn/năm
Ngoài ra các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm còn tạo ra 1 lượng thải bã lớn,
không qua xử lý ra môi trường. Điển hình là làng nghề Dương Liễu với lượng thải bã
Nhóm 11
Page 14
Tiểu luận quản lý môi trường
hàng năm lên tới 105.768 tấn bã thải, gây tắc nghẽn hệ thống thu gom và ô nhiễm nguồn
nước tại đó.
_ Các làng nghề tái chế phế liệu: Các thành phần chất thải rắn chủ yếu là tái chế kim loại
(bavia, rỉ sắt,..), tái chế giấy (nhãn mác, bột giấy,..) đặc biệt là chúng có thành phần phức
tạp và không dễ bị phân hủy.
_ Các làng nghề dệt, nhuộm: Các chất thải rắn của các làng nghề này có thành phần khó
phân hủy và không thể chon lấp :vải vụn, da vụn… với lượng thải 2-5 tấn/ngày gây mất
mỹ quan và ô nhiễm môi trường.
2.3. Hiện trạng môi trường khí
Đối với không khí tại các làng nghề, nguồn gây ô nhiễm điển hình nhất là từ các chất
hữu cơ dạng rắn và chất hữu cơ tồn đọng trong nước thải bị phân hủy yếm khí tạo ra các mùi
hôi nồng nặc, khó chịu. Các chất khí ô nhiễm chủ yếu gồm: H2S, CH4, NH3... Ngoài ra, các
làng nghề này cũng sử dụng một lượng không nhỏ các nhiên liệu chất đốt (chủ yếu là than,
củi) cho các công đoạn đun, nấu các sản phẩm (mạch nha, tráng miến, bún…) thải vào không
khí các chất như CO, CO2, SO2, NO2… Do khí thải được phát tán nên hầu hết các chỉ tiêu
này tại các làng nghề đều thấp hơn tiêu chuẩn cho phép, song vẫn có ảnh hưởng tới sức khỏe
của người dân trong khu vực và các vùng lân cận.
Nhóm 11
Page 15
Tiểu luận quản lý môi trường
Bảng 5. Thải lượng ô nhiễm do đốt than tại 1 số làng nghê
Đơn vị: tấn/năm
Nguồn: Bộ Công Thương, 2008
3. Một số ví dụ các làng nghê tại Việt Nam bị ô nhiễm nghiêm trọng theo quyết định
64/2003/QD-TTG
Bảng 6. Một số làng nghê tại Việt Nam bị ô nhiễm nghiêm trọng theo quyết định
64/2003/QD-TTG
TT Làng nghề
Đỉa điểm
Thời hạn
hoàn thành
2003-2004
1
Làng nghề sản xuất Bao Vinh, T.p Huế và xã
vôi hàu
Lộc Hải, huyện Phú Lộc,
tỉnh Thừa Thiên Huế
2
Làng nghề Nha Xá
Duy Tiên- Hà Nam
2003-2006
3
Khu vực làng nghề
xã Đông Tân-
Đông Sơn- Thanh Hóa
2003-2006
Nhóm 11
Page 16
Biện pháp khắc phục
Di chuyển địa điểm và
kết hợp xây dựng hệ
thống xử lý khí độc, hoàn
thiện quy trình công nghệ
Thu gom, xử lý nước thải,
quy hoạch sản xuất, đổi
mới công nghệ
Quy hoạch và cải tiến tổ
chức, công nghệ sản xuất
Tiểu luận quản lý môi trường
4
5
6
7
8
9
10
11
Đông Hưng
Làng nghề nấu
rượu truyền thống
Làng Vân
Làng nghề tái chế
đồng, chì kẽm
Làng nghề tái chế
nhựa Minh Khai
Làng nghề thuộc
da Liêu Xá
Làng nghề sản xuất
bột dong giềng
Làng nghề giết mổ
gia súc, gia cầm
Các làng nghề (dệt,
tơ tằm và trạm bạc)
Các làng nghề tinh
lọc bột sắn
12
Làng nghề đúc
đồng
13
Làng nghề mổ trâu
Phúc Lâm
Vân Hà- Việt Yên-Bắc
Giang
2003-2006
Xã Chỉ Đạo, huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên
Xã Minh Khai, huyện
Văn Lâm, tỉnh Hưng
Yên
Liêu Xá-Hưng Yên
2003-2006
Xây dựng hệ thống nước
sạch tập trung, xử lý nước
thải, chất thải rắn
Xử lý rác thải, khí thải
2003-2006
Xử lý rác thải, khí thải
2003-2006
Xử lý nước thải
Tứ Dân- Khoái ChâuHưng Yên
Cẩm Giàng-Hải Dương
2003-2006
Xử lý nước thải
2003-2006
Thái Bình
2003-2006
Xử lý nước thải, chất thải
rắn
Xử lý nước thải
Dương Thủy-Hương
2003-2006
Thủy và Lộc Bổn-Phú
Lộc tỉnh Thừa Thiên Huế
Phường Đúc- Thừa
2003-2006
Thiên Huế
Phúc Lâm-Bắc Giang
2003-2006
Xây dựng hệ thống xử lý
nước thải, bã thải và hoàn
thiện quy trình công nghệ
Xây dựng hệ thống xử lý
chất thải và hiện đại hóa
công nghệ sản xuất
Xây dựng hệ thống nước
sạch tập trung, xử lý nước
thải, chất thải rắn
4. Tác hại của ô nhiễm môi trường làng nghê đến sức khỏe con người, kinh tế - xã
hội
Theo thống kê của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, nước ta có khoảng 2.800 làng nghề
trong đó có 240 làng nghề truyền thống, giải quyết việc làm cho hơn 11 triệu lao động.
Có đến 90% trong tổng số các làng nghề vi phạm pháp luật về môi trường. Dường như,
giữa phát triển và vấn đề môi trường vẫn đang là một nghịch lý.
Do sự gia tăng ô nhiễm tại các làng nghề đã dẫn đến tỷ lệ người mắc bệnh tại khu vực
này đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tuổi thọ của
người dân tại các làng nghề ngày càng giảm đi, thấp hơn 10 năm so với tuổi thọ trung
bình của cả nước. Theo báo cáo môi trường quốc gia năm cũng cho thấy, tại các làng
nghề sản xuất kim loại, tỷ lệ người mắc các bệnh liên quan đến thần kinh, hô hấp, điếc,
Nhóm 11
Page 17
Tiểu luận quản lý môi trường
ung thư... Trong khi đó, đối với các làng nghề tái chế giấy có từ 16% đến 53,7% dân số bị
mắc bệnh phổi, thần kinh do chịu sức ép từ khói bụi, tiếng ồn, ô nhiễm không khí, hóa
chất và các khí độc như Cl 2, H2S... Tại các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, tỷ
lệ người mắc các bệnh về đường ruột tới 58,8% dân số, đường hô hấp là 44%. Các hoạt
động sản xuất tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn nông thôn, một mặt đã mang lại những
giá trị to lớn về kinh tế và xã hội, nhưng mặt khác đã và đang gây ra những hậu quả
nghiêm trọng cho môi trường, người dân địa phương hiện đang phải sống ngập chìm
trong bụi từ các hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng, trong mùi hôi nồng nặc do phân
hủy chất hữu cơ từ chất thải, hay ù tai vì hàng trăm máy dệt đồng loạt hoạt động cả đêm
lẫn ngày… Các tác nhân ô nhiễm không những đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe
người lao động, đến dân cư sống tại các làng nghề, đặc biệt là nhóm đối tượng nhạy cảm
là trẻ em và người già; mà còn lan truyền tới các khu vực lân cận.
Ô nhiễm môi trường còn đang tác động xấu đến những mô hình phát triển kinh tế khác
tại các địa phương, kìm hãm sự phát triển du lịch làng nghề… Cùng với vấn đề ô nhiễm,
hạ tầng cơ sở như đường sá chật hẹp, kém chất lượng khiến cảnh quan du lịch làng nghề
trở nên thiếu thông thoáng. Bên cạnh đó, hoạt động của các làng nghề lại gây ô nhiễm,
làm suy thoái môi trường. Ở những địa phương có nghề chế biến nông sản, chăn nuôi giết
mổ gia súc, gia cầm, dệt nhuộm, hay những làng nghề tái chế giấy, môi trường càng bị ô
nhiễm nặng hơn.
Điển hình như Hà Tây (cũ) là một vùng đất có tới 100 làng nghề truyền thống có từ lâu
đời với nhiều nghề cổ truyền độc đáo mang bản sắc văn hóa tiêu biểu. Mặc dù, du lịch
làng nghề truyền thống của vùng này luôn nhiệt tình mở cửa, vậy mà du khách vẫn
ngoảnh mặt làm ngơ. Có nhiều lý do, nhưng trong đó, vấn đề ô nhiễm môi trường được
xem là “chiếc gậy ngáng chân” du khách lớn nhất. Môi trường đất, nước, không khí ở hầu
hết các làng nghề đều ô nhiễm ở mức báo động. Ngay cả những làng nghề mới, có trưng
biển “du lịch làng nghề” như làng may Thượng Hiệp (Phúc Thọ) thì chất thải từ sản xuất
cũng làm cho nguồn nước và không khí bị ô nhiễm.
Ngoài ra, ô nhiễm làng nghề làm cho tài nguyên đất bị ô nhiễm nghiêm trọng, làm ảnh
hưởng đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp → kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước…
Nhóm 11
Page 18
Tiểu luận quản lý môi trường
III, Giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghê
1. Quản lý môi trường làng nghê còn nhiêu bất cập
* Văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề còn thiếu và chưa đầy đủ:
- Thiếu văn bản hướng dẫn thi hành luật Bảo vệ môi trường cho các làng nghề: Hiện nay
Luật Bảo vệ môi trường, 2005 là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường ở nước ta, trong đó có một điều khoản riêng (điều 38) về bảo vệ môi
trường làng nghề và một số điều khoản khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy
nhiên, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có một văn bản cụ thể nào hướng dẫn thực hiện
Luật Bảo vệ môi trường, 2005 đối với khu vực làng nghề, điều này đã gây khó khăn cho
việc thi hành các nội dung của Luật bảo vệ môi trường đối với các hoạt động của làng
nghề.
- Thiếu các văn bản quy phạm pháp luật cho các loại hình làng nghề cụ thể: làng nghề ở
nước ta rất phong phú và đa dạng về các loại hình sản xuất và quy mô phát triển. Mỗi một
loại hình, quy mô sản xuất khác nhau sẽ tác động và ảnh hưởng đến môi trường một cách
khác nhau do đó đòi hỏi phải có những biện pháp quản lý phù hợp đối với mỗi loại hình
làng nghề cụ thể. Tuy nhiên, tất cả các văn bản hướng dẫn hiện hành của ta đều áp dụng
chung cho tất cả các ngành nghề, hoàn toàn chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy
định riêng đối với vấn đề bảo vệ môi trường làng nghề theo các đặc thù riêng của mỗi
loại hình sản xuất làng nghề.
- Thiếu hệ thống QCMT riêng cho các làng nghề: Theo Luật Bảo vệ môi trường, 2005
quy định tất cả các cơ sở sản xuất đều phải xử lý các loại chất thải đạt tiêu chuẩn cho
phép trước khi thải ra ngoài môi trường. Tuy nhiên hiện nay hệ thống Quy chuẩn môi
trường ở nước ta được xây dựng để áp dụng với các cơ sở sản xuất công nghiệp do đó khi
áp dụng với các hộ sản xuất trong các làng nghề gặp nhiều khó khăn do điều kiện, quy
mô sản xuất của các làng nghề là tương đối khác biệt so với các cơ sở sản xuất công
nghiệp
* Chức năng, nhiệm vụ bảo vệ môi trường làng nghề của các cấp quản lý chưa rõ ràng:
- Phân công trách nhiệm quản lý còn chồng chéo và không rõ ràng: hiện nay việc quản lý
các làng nghề ở nước ta được giao cho ba Bộ là: Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn,
Bộ Công thương và Bộ Tài nguyên & Môi trường cụ thể như sau: Theo Nghị định số
66/2006/NĐ – CP quy đinh: Bộ NN & PTNT xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển
ngành nghề nông thôn toàn quốc từ nay đến năm 2020; Nghị định số 189/2007/NĐ – CP
ngày 27/12/2007 quy định: Bộ Công thương quản lý các cụm, điểm công nghiệp ở cấp
huyện và các doanh nghiệp công nghiệp ở địa phương; Còn theo Quyết định số
Nhóm 11
Page 19
Tiểu luận quản lý môi trường
132/2008/QĐ – TTg ngày 30/9/2008 quy định nhiệm vụ của Tổng cục Môi trường (thuộc
Bộ TN&MT) về kiểm soát ô nhiễm “kiểm soát chất lượng môi trường tại các đô thị, nông
thôn, miền núi, lưu vực sông và vùng ven biển, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, khu kinh tế, cụm công nghiệp, làng nghề…theo quy định của pháp luật. Như
vậy chúng ta có thể thấy mặc dù đã phân công trách nhiệm cho các bộ nhưng vẫn còn sự
chồng chéo, không rõ ràng về vai trò và trách nhiệm của các bộ trong việc bảo vệ môi
trường làng nghề giữa các bộ/ngành và giữa bộ ngành với địa phương. Điều này có thể
dẫn tới việc đùn đẩy trách nhiệm khi có vấn đề nghiêm trọng sảy ra, hơn nữa thực tế cho
thấy khả năng phối hợp liên bộ trong công tác bảo vệ môi trường làng nghề còn nhiều
hạn chế.
- Vai trò của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý môi trường làng nghề hiện
nay còn rất mờ nhạt. Theo quy định của Pháp luật thì trách nhiệm bảo vệ môi trường tại
các làng nghề chủ yếu thuộc về UBND các cấp. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các văn bản
quy phạm pháp luật mới dừng lại ở mức quy định trách nhiệm cho UBND cấp tỉnh, trong
khi đó trách nhiệm của UBND cấp huyện, cấp xã lại không hề được đề cập.
- Sự kết hợp giữa cơ quan quản lý môi trường các cấp còn nhiều hạn chế: sự phối hợp
giữa các cấp từ trung ương đến địa phương chưa chặt chẽ dẫn đến việc phổ biến luật, các
văn bản, chính sách của nhà nước trong việc bảo vệ môi trường làng nghề chưa được
thông suốt. Nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành ở các cấp nhưng lại không được
phổ biến và thực hiện tại các làng nghề. Ví dụ việc thu phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải, chất thải rắn hay việc xử phạt các cơ sở gây ô nhiễm môi trường ở làng nghề,
lý do là nhiều văn bản chưa tính đến đặc thù của các làng nghề. Mặt khác thì do cấp cơ sở
không kịp thời phản hồi các khó khăn, vướng mắc của địa phương cho các cấp trên nên
các chính sách, quy định của cấp trên không được bổ sung, sửa chữa cho phù hợp và sát
với thực tế.
* Công tác quy hoạch các Khu/Cụm công nghiệp tập trung cho các làng nghề còn
nhiều bất cập.
Để hạn chế ô nhiễm môi trường, nhiều tỉnh, thành phố đã có chủ chương quy hoạch xây
dựng các cụm công nghiệp làng nghề hoặc khu sản xuất tập trung. Tuy nhiên quá trình
quy hoạch này đã gặp phải những hạn chế sau:
- Các quy hoạch này chủ yếu do chính quyền cấp huyện, xã làm chủ đầu tư do trong quá
trình triển khai gặp nhiều khó khăn trong quy hoạch và phát triển. Cơ sở hạ tầng của các
cụm công nghiệp làng nghề mới chỉ dừng lại ở việc cấp điện, hệ thống đường giao thông
nội bộ đơn giản, một số ít có hệ thống cấp nước, thu gom rác thải về bãi rác của thôn, xã.
Còn lại hầu hết các hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường như hệ thống thu gom xử lý nước
thải tập trung đều không được xây dựng.
Nhóm 11
Page 20
Tiểu luận quản lý môi trường
- Tại một số khu quy hoạch sản xuất tập trung, các hộ sản xuất không chỉ di chuyển bộ
phận sản xuất mà còn di chuyển cả gia đình. Điều này khiến cho khu quy hoạch vô tình
trở thành khu giãn dân và mục đích bảo vệ môi trường không được bảo đảm mà chỉ mang
ý nghĩa di chuyển ô nhiễm từ nơi này sang nơi khác.
* Tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề còn yếu và chưa phát huy hiệu
quả:
- Hiệu lực thực thi pháp luật bảo vệ môi trường ở các làng nghề còn nhiều yếu kém cụ
thể là còn chậm trong việc quán triệt và triển khai các văn bản quy phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường làng nghề các cấp. Ví dụ UBND tỉnh Hà Tây (cũ) đã ban hành “Một số
văn bản pháp quy về bảo vệ môi trường” từ tháng 10/2002 nhưng phải 2 năm sau nhiều
xã mới biết tới tài liệu này, còn cấp thôn hầu như không biết; công tác thanh tra, kiểm tra
việc thi hành luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề chưa thường xuyên và triệt để, xử
phạt hành chính các hành vi gây ô nhiễm môi trường tại làng nghề còn chưa nghiêm.
- Các công cụ kinh tế chưa được triển khai tại các làng nghề: Nghị định 67/2003 /NĐ –
CP ngày 13/6/2003 của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải đã được
triển khai thực hiện hiệu quả tại các KCN, tuy nhiên ở các làng nghề thì việc thu phí nước
thải hầu như chưa được triển khai. Nguyên nhân chính là do tại các làng nghề hoạt động
sản xuất đan xen với hoạt động sinh hoạt, do đó không tách biệt được nước thải sản xuất
để tính toán mức phí cần thu, hơn nữa đời sống của người còn nghèo, nguồn nước sử
dụng chủ yếu là nước giếng và giếng khoan nên việc thu phí rất khó thực hiện. Bên cạnh
phí nước thải thì phí rác thải cũng được Nhà nước ta quy định theo Nghị định số
174/2007/NĐ – CP nhưng tình hình thực hiện đối với các làng nghề cũng không khác gì
so với nước thải.
- Việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường cho cộng đồng làng nghề
chưa được chú trọng và quan tâm đúng mức.
* Nhân lực tài chính và công nghệ cho bảo vệ môi trường làng nghề không đáp ứng được
yêu cầu:
- Nhân lực mỏng, trình độ chuyên môn, quản lý của cán bộ còn hạn chế: Hiện nay thì cán
bộ quản lý môi trường từ Trung ương, đến cấp tỉnh, huyện còn thiếu, ở cấp xã và thôn
chưa có cán bộ chuyên trách về môi trường. Lực lượng cán bộ quản lý môi trường ở các
cấp hầu hết chưa được đào tạo bài bản trình độ chuyên môn còn hạn chế; cán bộ môi
trường ở cấp huyện trở xuống đều không có chuyên môn về môi trường, lại hầu như
không được tập huấn nâng cao trình độ nên năng lực quản lý yếu. Trên thực tế thì hiện
nay có hơn 95% cán bộ quản lý môi trường cấp huyện không có bằng cấp chuyên môn về
môi trường; Ý thức cán bộ quản lý môi trường ở cấp huyện xã còn mang nặng tính địa
phương, thiếu tính khoa học và quan niệm chưa đúng về việc bảo vệ môi trường. Do đó
Nhóm 11
Page 21
Tiểu luận quản lý môi trường
các vấn đề môi trường ở các làng xã thường không được chú trọng, một số các làng nghề
có tổ chức chuyên trách về môi trường nhưng mới chỉ tập trung vào vấn đề thu gom rác
thải.
- Kinh phí dành cho các hoạt động bảo vệ môi trường của các địa phương còn thiếu:
Hiện nay các cấp quản lý ở các làng nghề đều thiếu kinh phí hoạt động, nguồn kinh phí
của họ do xã tự trang trải thông qua nguồn thu chủ yếu là từ việc đóng thuế của các cơ sở
sản xuất. Tuy nhiên xã cũng chỉ nhận được 10% của nguồn thuế này do huyện mới là đơn
vị trực tiếp đứng ra thu thuế.
- Việc ứng dụng công nghệ môi trường tại các làng nghề còn chưa được chú trọng đúng
mức: các loại công nghệ sạch, quy trình sản xuất sạch hơn được áp dụng rất hạn chế tại
các làng nghề, chủ yếu là ở các làng nghề gốm sứ sử dụng lò nung bằng khí gas thay cho
lò nung than và ở một số làng nghề làm nông sản kết hợp chăn nuôi với xây dựng hầm
biogas. Còn các làng nghề khác hầu như các công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường chưa
được áp dụng
* Chưa huy động được đầy đủ các nguồn lực xã hội trong việc bảo vệ môi trường làng
nghề:
- Tiềm năng của các cộng đồng trong bảo vệ môi trường vẫn chưa được phát huy đầy đủ:
Chưa đưa được nội dung bảo vệ môi trường vào trong các tập quán, phong tục, những
quy ước, hương ước của làng xã. Do đặc điểm người dân nông thôn thường sống theo các
quy định, điều lệ của thôn xóm, vai trò của hương ước, tập tục rất có giá trị trong các làng
xã vì vậy việc đưa nội dung quản lý môi trường vào trong hương ước, tập quán của làng
xã, phong tục sống của người dân là vô cùng cần thiết.
- Trách nhiệm của doanh nghiệp, đặc biệt là các hộ sản xuất tại chính làng nghề đối với
việc tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường chưa cao. Nguyên nhân chính của tình trạng
này là do nhận thức của chủ sản xuất còn hạn chế (khoảng 83,5% lao động nông thôn
không qua đào tạo, 85% mới học hết cấp 2), họ chỉ quan tâm tới lợi ích kinh tế là chính
mà không quan tâm tới lợi ích môi trường. Mặt khác sự thiếu thốn về nguồn vốn đầu tư
khiến năng lực tài chính của các hộ gia đình ở làng nghề còn nhiều hạn chế, điều này có
ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất cũng như việc bảo vệ môi trường của các làng nghề.
Do họ không có đủ khả năng để đầu tư cho xây dựng nhà xưởng, mở rộng mặt bằng sản
xuất, đổi mới công nghệ, xây dựng các công trình xử lý và thiết bị giảm thiểu tác hại môi
trường.
- Trình độ dân trí và tính cộng đồng của làng nghề cũng ảnh hưởng rất nhiều đến công
tác bảo vệ môi trường. Chính trình độ dân trí thấp, nhận thức về các vấn đề môi trường
của người dân còn hạn chế là rào cản lớn khiến cho người dân không tham gia tích cực
Nhóm 11
Page 22
Tiểu luận quản lý môi trường
vào công tác bảo vệ môi trường, từ đó khiến cho công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề
gặp nhiều khó khăn và thiếu hiệu quả.
2. Các giải pháp bảo vệ môi trường làng nghê
* Hoàn thiện thể chế , tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường
làng nghề
- Cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường làng nghề. Để thực hiện tốt công việc này cần chú ý một số nội dung sau:
+ Chú trọng đến các chính sách phát triển bền vững làng nghề: gắn liền việc phát triển
các làng nghề với công tác bảo vệ môi trường, tuyệt đối không vì lợi ích kinh tế trước
mắt mà hi sinh lợi ích về môi trường, các lợi ích kinh doanh thu được từ hoạt động làng
nghề cần phải chia sẻ và đóng góp vào công tác bảo vệ môi trường.
+ Để nâng cao tính hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường làng
nghề cần phải xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật riêng cho vấn đề
bảo vệ môi trường tại các làng nghề. Bảng chỉ ra một số đề xuất liên quan đến xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề ở nước ta.
Bảng 7. Một số đê xuất xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường làng
nghê ở nước ta
T
Nội dung
T
Ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết việc thực hiện Luật bảo vệ môi trường
1
đối với làng nghề.
Cụ thể hóa và ban hành văn bản chính sách hướng dẫn thi hành quyết định
2 132/2000/QĐ – TTg, Nghị định số 66/2006/NĐ – CP và Nghị định số 01/2008/NĐ
– CP
Nghiên cứu ban hành một số hình thức cam kết bảo vệ môi trường với một nội
3 dung đơn giản, gọn nhẹ quy định riêng cho các hộ sản xuất ở làng nghề là sản xuất
kinh doanh có điều kiện.
Xây dựng quy định phân cấp trách nhiệm cho các tổ chức, cá nhân liên quan
4
đến bảo vệ môi trường làng nghề
Xây dựng hướng dẫn về cách tính thải lượng ô nhiễm/tấn sản phẩm dựa vào
cân bằng vật liệu để xác định tải lượng ô nhiễm làm cơ sở tính phí bảo vệ môi
5
trường đối với nước thải, chất thải rắn, khí thải của các cơ sở sản xuất ở làng
nghề
Xây dựng hướng dẫn các thông số môi trường cần quan trắc đối với loại hình
6
sản xuất của các làng nghề và các quy chuẩn môi trường cần đáp ứng
Nhóm 11
Page 23
Tiểu luận quản lý môi trường
7
8
9
10
11
Xây dựng các chế tài cụ thể để xử phạt đối với các hành vi vi phạm luật bảo vệ môi
trường ở các làng nghề
Đưa tiêu chí phải thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường như phải có hệ thống
thu gom và thoát nước thải, có hệ thống thu gom vận chuyển chất thải rắn, có
áp dụng các giải pháp giảm thải lượng chất thải thoát ra môi trường vào điều
khoản công nhận làng nghề
Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích (khen thưởng, ưu đãi cho vay vốn,
ưu đãi về các loại phí…)đối với các cơ sở ở làng nghề tuân thủ tốt các quy định về bảo
vệ môi trường làng nghề
Ban hành văn bản cấm sử dụng công nghệ, phương pháp thủ công lạc hậu gây
ô nhiễm môi trường như tái chế chì, sản xuất vật liệu xây dựng
Xây dựng chính sách huy động sự tham gia của cộng đồng trong việc bảo vệ môi
trường làng nghề
+ Các làng nghề cần phải xây dựng các quy định vệ sinh môi trường nội bộ: các quy định
này do chính các làng nghề căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh của địa phương mà đề ra
cho phù hợp. Đây thực chất là việc đưa các quy định về bảo vệ môi trường vào các luật
tục, hương ước của các thôn, xã.
+ Xây dựng các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải, nước thải phù hợp đặc điểm và
tình hình sản xuất của các cơ sở trong làng nghề. Do các làng nghề thường có quy mô sản
xuất nhỏ, trang thiết bị lạc hậu, vốn kinh doanh ít nên không thể đáp ứng các yêu cầu
khắt khe của các quy chuẩn quốc gia về khí thải, nước thải công nghiệp đã được ban
hành. Vì vậy cần có các quy chuẩn riêng cho các làng nghề được lới lỏng hơn và phù hợp
với tiến trình xây dựng, phát triển các làng nghề.
+ Xây dựng tiêu chí “Làng nghề xanh” và các chính sách liên quan, mục tiêu chính là
khuyến khích các làng nghề thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường. Các tiêu chí
“Làng nghề xanh” có thể được sử dụng để xếp loại các làng nghề theo hướng bảo vệ môi
trường, phát triển bền vững; làm căn cứ để dán nhãn xanh cho các sản phẩm của làng
nghề hoặc căn cứ để tạo chính sách ưu tiên trong việc cấp vốn và lưu thông hàng hóa.
Phổ biến rộng rãi thông tin về việc xếp loại “Làng nghề xanh” cho người dân để tạo ưu
thế về hình ảnh, uy tín, nâng cao khả năng cạnh tranh cho các làng nghề xanh và các sản
phẩm được dán nhãn sinh thái.
- Cần nhanh chóng hoàn thiện bộ máy quản lý môi trường cấp phường, xã, thị trấn: trên
thực tế các cơ quan, chính quyền địa phương (xã, phường, thị trấn gọi tắt là cấp xã) có vai
trò rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường ở địa phương, đặc biệt là các địa phương
có hoạt động làng nghề. Do đó cần phải lấy quản lý cấp xã là nòng cốt trong bảo vệ môi
Nhóm 11
Page 24
Tiểu luận quản lý môi trường
trường các làng nghề, có như vậy mới có thể đi sâu, đi sát hoạt động sản xuất của từng hộ
gia đình từ thực hiện tốt các giải pháp quản lý. Mô hình hệ thống quản lý môi trường cấp
xã được thể hiện qua hình sau:
Hình 8. Cơ cấu quản lý môi trường cấp xã
Với cách tiếp cận này thì cần thiết phải xây dựng, bổ xung và giao trách nhiệm cao hơn
cho các tổ chức, bộ phận chuyên môn có liên quan tại cấp xã, thôn. Trong đó quy định rõ
trách nhiệm cho từng tổ chức cá nhân trong cơ cấu quản lý môi trường cấp xã như sau:
+ UBND xã: chỉ đạo việc thực hiện các quy định của Nhà nước, của UBND các cấp tỉnh,
huyện, xã về công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn xã; Chỉ đạo việc lựa chọn, bố trí
khu tập kết rác thải của xã; đưa ra các biện pháp xử phạt hành chính cụ thể đối với những
hành vi đổ rác bừa bãi ra môi trường trên cơ sở thực hiện Nghị định của Chính phủ về xử
phạt hành chính.
+ Bộ phận chuyên trách về TNMT xã: có vai trò tham mưu xây dựng các văn bản, kế
hoạch bảo vệ môi trường của xã; kết hợp với bộ phận chuyên trách khác trong xã xây
dựng kế hoạch hàng năm về bảo vệ môi trường xã, trình UBND xã phê duyệt và giám sát
việc thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong xã; phối hợp với cán bộ VSMT cấp thôn
trong việc hướng dẫn thực hiện, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện Luật bảo vệ môi trường
và các quy định của UBND cấp tỉnh, huyện, xã về bảo vệ môi trường; phối hợp với cán
bộ VSMT thôn trong việc tổ chức thực hiện công tác truyền thông, giáo dục nâng cao
nhận thức về bảo vệ môi trường cho các tổ chức, đoàn thể và nhân dân trong xã.
+ Trưởng thôn, cán bộ phụ trách VSMT thôn: có trách nhiệm xây dựng, cụ thể hóa các
quy định về bảo vệ môi trường trên địa bàn thôn dưới dạng các Hương ước, Quy ước,
Nhóm 11
Page 25