Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đạo đức trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm trường đại học tây bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 64 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô trong khoa Lý Luận Chính
trị, phòng Công tác Chính trị và Quản lý người học đã tạo điều kiện động viên, giúp đỡ
em, cung cấp số liệu và những thông tin cần thiết về đề tài trong quá trình nghiên cứu.
Em gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô Lê Thị Vân Anh - Giảng viên hướng dẫn đề
tài, cô đã nhiệt tình giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để đề tài em hoàn thành đúng thời hạn.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các bạn sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc
đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài.
Đây là đề tài đầu tay của em, vì vậy chắc chắn còn nhiều thiếu sót, vậy kính
mong sự tham gia ý kiến của thầy cô và các bạn đóng góp đề tài cho em được hoàn
thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2016

Người thực hiện đề tài
Tòng Thị Tứm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ..................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài .................................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................................4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................................4
6. Đóng góp của đề tài .....................................................................................................4
7. Kết cấu của đề tài.........................................................................................................5
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO SINH VIÊN ................................................................................................ 6
1.1. Lý luận chung về đạo đức và giáo dục đạo đức .......................................................6


1.1.1. Khái niệm đạo đức .................................................................................................6
1.1.2. Giáo dục đạo đức ...................................................................................................7
1.2. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh .............................................................................10
1.2.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh .......................................10
1.2.2. Nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ........................................................... 13
1.2.3. Nội dung giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên sư phạm trường
Đại học Tây Bắc ............................................................................................................16
1.3. Tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh ...........................................................................................................20
1.3.1. Vị trí, vai trò của sinh viên hiện nay ...................................................................20
1.3.2. Sự cần thiết của công tác giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh
viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc ..........................................................................22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC THEO TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
.......................................................................................................................................24
2.1. Thực trạng giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc theo
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh .....................................................................................25
2.1.1 Vài nét về trường Đại học Tây Bắc và đặc điểm sinh viên Trường Đại học Tây
Bắc…………………………………………………………………………………….25
2.1.2. Thực trạng đạo đức sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc ......................28


2.1.3. Thực trạng giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc
theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh .............................................................................36
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức cho sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh............................................................................................................................... 43
2.2.1. Nâng cao vai trò bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh trong giáo dục đạo đức cho sinh
viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc………………………………………………. 43

2.2.2. Đổi mới hình thức và nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm trường
Đại học Tây Bắc………………………………………………………………………45
2.2.3. Phát huy vai trò của Đoàn thanh niên, Hội Sinh viên trong công tác giáo dục đạo
đức cho sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc……………………………………...46
2.2.4. Kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho
sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc………………………………………………..47

2.2.5 Tạo môi trường sống lành mạnh cho sinh viên sư phạm trường Đại học
Tây Bắc……………………………………………………………………….. 48
2.2.6. Sinh viên cần nâng cao hơn nữa tính chủ động, tích cực trong tự giáo dục đạo
đức………………………………………………………………………………….... 51
KẾT LUẬN ..................................................................................................................52
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 54


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 1: Nhận thức của sinh viên về sự cần thiết học môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh ..............................................................................................................................41
Biểu đồ 1: Tỉ lệ nhận thức của sinh viên về chuẩn mực đạo đức của người Việt
Nam hiện nay ...............................................................................................................30
Biểu đồ 2: Đánh giá của sinh viên về một số hiện tượng đang xảy ra nơi sinh
viên học ........................................................................................................................31
Biểu đồ 3: Nhận định của sinh viên về thực trạng đạo đức sinh viên hiện nay 32
Biểu đồ 4: Đánh giá của sinh viên về một số biểu hiện liên quan đến đạo đức
sinh viên hiện nay ........................................................................................................33
Biểu đồ 5: Các nguyên nhân dẫn đến sự xuống cấp đạo đức của sinh viên hiện
nay .................................................................................................................................35
Biểu đồ 6: Nhận định của sinh viên về chất lượng giáo dục đạo đức cho sinh
viên của trường Đại học Tây Bắc ..............................................................................39



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng
Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn đã đi xa, nhưng Người để lại
cho dân tộc ta một kho tàng di sản tinh thần to lớn mang giá trị nhân văn cao cả. Trong
đó, đặc biệt là tư tưởng đạo đức cách mạng. Cả cuộc đời, Người phấn đấu, hi sinh cho
cách mạng Việt Nam, những tư tưởng đạo đức cách mạng của Người là tấm gương
sáng ngời cho toàn Đảng, toàn dân và lớp lớp thế hệ trẻ nguyện phấn đấu suốt đời học
tập và noi theo.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình Chủ tịch Hồ Chí minh đặc biệt
quan tâm tới việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục con người coi đó là nhân tố
hàng đầu, quyết định cho mọi thành công, đặc biệt là các thế hệ thanh niên trong đó có
một bộ phận rất lớn là học sinh và sinh viên. Người cho rằng: “Thanh niên là chủ
tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh phần lớn do
các thanh niên” [14; 185]. Trước lúc đi xa Người không quên căn dặn Đảng ta: “Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết” [21; 510].
Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặt lên hàng đầu vấn đề bồi dưỡng lý tưởng và đạo đức cách mạng. Theo Người
để xứng đáng là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của các thế hệ cha anh thì phẩm
chất hàng đầu cần có ở các thế hệ sau là sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng, ý chí
kiên định đấu tranh cho thắng lợi của lý tưởng và đạo đức cách mạng để làm gương lôi
cuốn quần chúng..
Từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc
giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống cũng như việc xây dựng các giá trị
đạo đức mới ở nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Bên cạnh
những giá trị đạo đức mới tích cực đang dần được hình thành thì trong quá trình hội
nhập những cái tiêu cực đi ngược lại các giá trị đạo đức truyền thống cũng đang xâm
nhập vào đời sống các tầng lớp dân cư, đặc biệt là sinh viên những người được tiếp

cận sớm với hệ thống công nghệ thông tin. Điều này làm xuất hiện ngày một nhiều các
hiện tượng lệch chuẩn đạo đức tốt đẹp của dân tộc trong các thế hệ thanh niên, sinh
viên. Đó là các hiện tượng suy thoái đạo đức lối sống, chủ nghĩa cá nhân, thiếu lý
tưởng sống, sống thực dụng, cậy sức mạnh của đồng tiền hay sống gấp, kích động bạo

1


lực, sống thử trước hôn nhân, xem trọng các giá trị vật chất mà xem nhẹ các giá trị tinh
thần, quay lưng lại với các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc đang là một vấn đề
nổi cộm trong đời sống sinh viên hiện nay.
Thực trạng trên đã và đang diễn ra ngày càng phổ biến trong sinh viên trong đó có
sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo
đức, lối sống như: tình trạng gian lận trong thi cử, coi trọng thành tích mà không quan tâm
tới chất lượng, xem nhẹ việc tư dưỡng, rèn luyện đạo đức, gia tăng các tệ nạn xã hội, đua
đòi, ăn chơi, cờ bạc, rượu chè... mà ít đầu tư thời gian và công sức vào học tập.
Xuất phát từ thực trạng đáng lo ngại trên, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều
chính sách, biện pháp nhằm đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trên như đưa môn tư tưởng
Hồ Chí Minh vào giảng dạy trong các trường Đại học, Cao đẳng, phát động phong trào
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhằm giúp các thế hệ sinh viên
nhận thức được các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, từ đó có những
hành vi, thái độ đúng đắn trong đời sống hàng ngày phù hợp với các chuẩn mực đạo
đức của dân tộc theo đúng tinh thần Đại hội lần thứ IX của Đảng: “Đối với thế hệ trẻ,
chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng đạo
đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng
và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong xây dựng bảo vệ Tổ quốc” [6;126].
Đối với sinh viên Trường Đại học Tây Bắc, nhà trường đã tổ chức nhiều buổi
tuyên truyền về đạo đức, lối sống sinh viên, tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, thành
lập ra câu lạc bộ tuổi trẻ sống đẹp... nhằm nâng cao đạo đức cho sinh viên. Tuy nhiên,
kết quả mang lại chưa cao, chính vì vậy: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo

đức trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc”
là một nghiên cứu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là một vấn đề rất lớn đã được nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Điều đó cũng được thể hiện ở các
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiều nhà khoa học, nhiều luận án tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ nói về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với việc giáo dục đạo đức cho
học sinh, sinh viên, thế hệ tương lai của đất nước. Các công trình nghiên cứu đó đã đề cập
đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức ở nhiều gốc độ khác nhau. Tiêu biểu như:

2


Lê Thị Vân Anh (2014), Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường
đại học, cao đẳng vùng Tây Bắc trong dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh, Luận án tiến
sĩ giáo dục học.
Nguyễn Khánh Bật (1998), Những bài giảng về môn tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
Lê Qúy Đức (2007), Hồ Chí Minh nói về đạo đức cách mạng, Nxb LLC, Hà
Nội.
Hồ Chí Minh, Tấm gương sáng, Trung với nước, Hiếu với dân (2010), Nxb
CTQG, Hà Nội.
Vũ Thị Hồng Khanh, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lối sống cho thanh
niên và vận dụng vào việc giáo dục lối sống cho sinh viên trường Đại học Lâm Nghiệp
hiện nay Luận văn tốt nghiệp.
Vũ Đức Nên, Luận văn tốt nghiệp, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc giáo
dục đạo đức cho sinh viên sư phạm Hải Phòng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Đỗ Huyền Trang (2013), Luận văn thạc sĩ, Giáo dục đạo đức truyền thống cho
sinh viên trường Đại học Tây Bắc hiện nay.
Mai Đình Tuấn (2013), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo

dục đạo đức cho thanh niên huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định hiện nay, Luận văn tốt nghiệp
trường Đại học Tây Bắc.
Những công trình trên đã nói lên việc kế thừa và vận dụng đúng đắn tư
tương đạo đức Hồ Chí Minh vào việc giáo dục đạo đức cho sinh viên, những người giữ
vai trò quan trọng trong sự nghiệp trồng người trong tương lai. Cũng như đã luận giải
những vấn đề lý luận về vai trò của thanh niên và tầm quan trọng của công tác giáo dục
đạo đức cho thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta hiện nay theo
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đồng thời cũng phân tích rõ thực trạng đạo đức của thanh
niên hiện nay và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo
đức thanh niên và bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ tương lai của dân tộc.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về việc vân dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm trường
Đại học Tây Bắc, do vậy đề tài đề xuất nghiên cứu vấn đề này nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

3


3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, làm rõ thực trạng
giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức sinh viên sư phạm trường
Đại học Tây Bắc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích đã nêu trên, đề tài có những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, vai
trò của sinh viên và tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên sư
phạm hiện nay.
- Đánh giá được thực trạng đạo đức và thực trạng giáo dục đạo đức cho sinh

viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác giáo
dục đạo đức cho sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc theo tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong việc giáo dục đạo đức cho sinh
viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, nhóm nghiên cứu tập trung nghiên cứu những
nội dung cơ bản nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và vận dụng vào việc
giáo dục đạo đức sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc trong khoảng thời gian từ
tháng 9 năm 2015 đến tháng 5 năm 2016.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được triển khai trên nền tảng các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam về đạo đức và giáo dục đạo đức.
5.2. Phương pháp cụ thể
Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học.
6. Đóng góp của đề tài

4


- Góp phần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức cho
sinh viên.
- Nhận định đúng đắn, khách quan về đạo đức của sinh viên và công tác giáo dục đạo
đức cho sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đạo đức cho
sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay

7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo
đức cho sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

5


CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
1.1. Lý luận chung về đạo đức và giáo dục đạo đức
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Danh từ đạo đức được bắt nguồn từ tiếng Latinh “mos”, nghĩa là lề thói, sau đó
xuất hiện từ mới là “moralis”, có nội dung liên quan đến lề thói, đạo nghĩa. Còn một
danh từ thường được xem như đồng nghĩa với đạo đức là lý luận học, có nguồn gốc từ
chữ Hi Lạp là “Ethicos”, nghĩa là lề thói, tập tục. Như vậy khi ta nói tới lề thói là nói
đến những lề thói, tập tục, biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong giao tiếp
với nhau hàng ngày.
Các nhà triết học duy tâm khách quan mà tiêu biểu là Hêghen cho rằng: Cội
nguồn và cơ sở của tất cả những hiện tượng tự nhiên và xã hội là bản nguyên tinh thần,
lý tính được ông gọi là ý niệm tuyệt đối. Ý niệm này tự vận động, phát triển và thể
hiện ra thành toàn bộ những hiện tượng tự nhiên và xã hội. Tuân thủ lôgic đó, G.
Hêghen cho rằng, đạo đức bắt nguồn từ ý niệm pháp lý, còn ý niệm pháp lý là một
hình thái biểu hiện của ý niệm tuyệt đối. Bậc tiếp theo trong sự phát triển ý niệm pháp
lý là pháp luật chủ quan, được G. Hêghen gọi là luân lý. Sự thống nhất giữa pháp luật
khách quan và pháp luật chủ quan, sự thể hiện cụ thể của sự thống nhất này trong một
gia đình, xã hội và quốc gia chính là bậc phát triển của ý niệm pháp lý, được G. Hêghen
gọi là đạo đức.
Các nhà triết học duy tâm chủ quan nhìn nhận đạo đức như những năng lực

bẩm sinh của con người. Nhất quán với hệ thống duy tâm tiên nghiệm của mình, I.
Cantơ cho rằng, lý tính là nguồn gốc sinh ra các nguyên lý, chuẩn mực đạo đức.
Các nhà triết học duy vật trước Mác tiêu biểu là L. Phoiobac cho rằng, đạo đức
chỉ tồn tại ở đâu có mối quan hệ giữa người với người, hay nói như cách nói của ông,
ở đâu có mối quan hệ giữa “tôi và anh”.
Như vậy, cho dù có những khác biệt về lập trường và cách thức lý giải, tất cả
những quan niệm trước Mác và ngoài Mácxít đều nhìn nhận đạo đức như một sức
mạnh có trước, tồn tại ở bên ngoài các quan hệ xã hội của con người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đạo đức được hình thành từ
trong lao động và là sản phẩm có ý thức của con người. Hình thái ý thức đạo đức là
hình thái ý thức xã hội đặc biệt, nó hình thành và phát triển cùng với các hình thái ý

6


thức xã hội khác, tác động đến tồn tại xã hội và có ảnh hưởng qua lại với các hình thái
khác.
Theo góc độ đạo đức học, đã có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề đạo đức
nhưng ở mức độ khái quát nhất chúng ta có thể hiểu đạo đức là một hình thái hình thái
xã hội bao gồm một hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi
đánh giá cách ứng xử con người trong quan hệ với nhau và quan hệ xã hội, chúng được
thực hiện bởi niềm tin cá nhân, truyền thống dân tộc, sức mạnh của dư luận xã hội.
Mỗi cá nhân là một thành viên của xã hội và bao giờ cũng tồn tại trong một xã hội nhất
định. Mọi hoạt động sống của cá nhân luôn diễn ra mối quan hệ hai chiều với các cá
nhân khác và với cả xã hội. Trong quá trình quan hệ qua lại với nhau các cá nhân
thường đưa ra những yêu cầu, nguyên tắc, đòi hỏi cho mình, cho người khác và cho xã
hội nhằm làm cho các mối quan hệ qua lại với nhau diễn ra và đảm bảo lợi ích của cá
nhân tham gia vào mối quan hệ đó. Những yêu cầu, nguyên tắc, đòi hỏi... mà con
người tự giác đưa ra và tự giác tuân thủ đó còn được gọi là các chuẩn mực đạo đức.
Những chuẩn mực đạo đức sẽ chi phối những chuẩn mực và quyết định hành vi, cử chỉ

của cá nhân khi họ tham gia vào các quan hệ xã hội. Những chuẩn mực đạo đức chính
là những chỉ bảo, gợi ý cho con người nên làm gì, không nên làm gì, nên tỏ thái độ
như thế nào… Các chuẩn mực đạo đức bao giờ cũng thể hiện quan niệm về cái thiện,
cái ác, lòng nhân ái, nghĩa vụ, lương tâm. Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu
hiện thái độ đánh giá quan hệ giữa lợi ích của bản thân với lợi ích của người khác và
của cả xã hội.
Như vậy đạo đức là một lĩnh vực của ý thức xã hội, là một mặt của hoạt động
xã hội, là một hình thái chuyên biệt của quan hệ xã hội, thực hiện chức năng xã hội hết
sức quan trọng là điều chỉnh hành vi con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Đạo đức ra đời do nhu cầu của xã hội để điều hoà và thống nhất giữa lợi ích
chung của xã hội với lợi ích riêng của cá nhân, nhằm đảo bảo trật tự xã hội và khả
năng phát triển của xã hội và cá nhân, là một trong những hình thái ý thức xã hội.
Đạo đức là một hiện tượng xã hội.
1.1.2. Giáo dục đạo đức
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, đó là hiện tượng mà người giáo dục
truyền đạt những kinh nghiệm lịch sử xã hội cho người được giáo dục, người được

7


giáo dục lĩnh hội những kinh nghiệm đó để tham gia vào đời sống, tham gia vào lao
động sản xuất.
Giáo dục được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng: giáo dục được hiểu là quá trình hình thành nhân cách dưới sự
tác động có mục đích, có kế hoạch thông qua hoạt động của người giáo dục và người
được giáo dục nhằm truyền đạt kinh nghiệm lịch sử của loài người. Khái niệm giáo
dục theo nghĩa rộng bao gồm cả quá trình dạy học và quá trình giáo dục theo nghĩa
hẹp. Giáo dục theo nghĩa rộng bao gồm cả việc học và dạy cùng các tác động sư phạm
khác nhau trong nhà trường, trong gia đình và ngoài xã hội.
Theo nghĩa hẹp: giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch nhằm

hình thành ở đối tượng giáo dục về mặt tư tưởng, chính trị, đạo đức, xây dựng thái độ
hành vi thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội. Giáo dục theo nghĩa hẹp xây dựng
những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội, giáo dục tình cảm, niềm tin, xây dựng ý
thức hành vi đúng đắn.
Giáo dục đạo đức là quá trình biến hệ thống các chuẩn mực đạo đức, những
đòi hỏi của bên ngoài xã hội tạo thành những đòi hỏi bên trong cá nhân, thành niềm
tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục. Giáo dục đạo đức cho người được
giáo dục là phát triển nhân cách toàn vẹn của họ về mặt đạo đức xã hội chủ nghĩa, xây
dựng cho họ có đầy đủ phẩm chất đạo đức xã hội chủ nghĩa cơ bản, hình thành cho họ
có ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức và thói quen đạo đức theo những nguyên tắc đạo
đức xã hội chủ nghĩa.
Ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức:
Việc giáo dục đạo đức có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với mỗi con người và toàn
thể xã hội.
Giáo dục đạo đức với sự phát triển nhân cách con người: giáo dục đạo đức
luôn hướng con người tới chân, thiện, mỹ luôn mơ ước và vươn tới tương lai. Những
mong muốn đó là một định hướng trong hành động của mỗi cá nhân và cộng đồng xã
hội. Giáo dục đạo đức góp phần định hướng hoạt động nhận thức, giá trị sống, giá trị
đạo đức, giúp cho mỗi con người có chuẩn mực để lựa chọn thiện - ác, tốt - xấu...Việc
giáo dục các giá trị đạo đức cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ là trách nhiệm của
toàn xã hội, của mọi cộng đồng mà trước hết thuộc về nhà trường, gia đình, của các tổ
chức đoàn thể trong xã hội. Bởi giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội là giúp cho thế

8


hệ trẻ có cơ sở lựa chọn các giá trị đạo đức. Giúp họ nhận thức đầy đủ trách nhiệm
từng cá nhận trong xã hội hiện đại, quyền lợi của cá nhân, của tập thể nhỏ gắn liền với
dân tộc, nhân loại. Vì vậy, phải lấy các chuẩn mực đạo đức chung của dân tộc và nhân
loại làm định hướng chi phối hoạt động nhận thức, định hướng cho hoạt động giao lưu,

học tập, lao động và hoạt động xã hội của mỗi cá nhân.
Giáo dục đạo đức góp phần điều chỉnh hành động của con người: trong cuộc
sống không phải lúc nào con người cũng dễ dàng thống nhất giữa nhận thức và hành
động, giữa nói và làm. Nhìn chung những chuẩn mực đạo đức xã hội luôn là tiêu chí
để mọi người so sánh kết quả hành động, hành vi của mình để sửa chữa.
Giáo dục đạo đức với sự phát triển của xã hội: hệ thống giá trị đạo đức phản
ánh toàn bộ quan hệ của con người trong cuộc sống, giao lưu, ứng xử, trong sản xuất,
trong giáo dục, văn hoá, chính trị, xã hội. Việc giáo dục đạo đức chính là việc điều
chỉnh hệ thống chuẩn mực đạo đức của một cộng đồng hay một dân tộc đều được thể
hiện qua 5 mối quan hệ của con người với tư cách là chủ thể của quan hệ đạo đức, đó
là:
+ Giáo dục trong quan hệ với bản thân: đó là những giá trị để hoàn thiện bản
thân con người.
+ Trong quan hệ với mọi người: thể hiện trong đời sống hằng ngày của con
người, la mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp trong cộng đồng.
+ Trong quan hệ với công việc: việc thực hiện bổn phận trách nhiệm trong
công việc khi được giao phó.
+ Trong quan hệ với môi trường: bao gồm việc giữ gìn và bảo vệ môi trường
sống của con người, là môi trường tự nhiên và môi trường văn hoá xã hội.
+ Quan hệ với lý tưởng sống của dân tộc: đó là sự thể hiện ý thức, đạo đức, lý
tưởng của mỗi cá nhân không thể tách khỏi lý tưởng của dân tộc.
Hơn nữa, giáo dục đạo đức còn góp phần giữ vững, ổn định chính trị, xã hội
qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng xã hội dân giàu nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh. Sự giáo dục đạo đức sẽ tạo ra sự thống nhất giữa đạo
đức với chính trị, pháp luật, tạo ra sức mạnh của dư luận xã hội và các thiết chế xã
hội... Từ đó vai trò của giáo dục đạo đức trong sự phát triển nhân cách, phát triển xã
hội ngày càng có ý nghĩa to lớn.

9



Về thực chất, giáo dục đạo đức là khả năng tự giáo dục, tự kiểm tra, đánh giá,
thẩm định hành vi của mình để đánh thức lương tâm trong mỗi con người để mỗi chủ
thể đạo đức có được những nhận thức đầy đủ sâu sắc hơn những nguyên tắc, những
phạm trù, những chuẩn mực đạo đức. Vì vậy, giáo dục đạo đức là chức năng hết sức
cơ bản mà bất cứ một hệ thống đạo đức nào cũng phải thực hiện, đây là hiện tượng
thường xuyên, cần thiết của xã hội.
1.2. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
1.2.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Quá trình đó dân tộc ta đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền
vững với những truyền thống tốt đẹp và cao quý. Trong những truyền thống đó, truyền
thống đạo đức là nổi trội hơn cả.
Trước hết, đó là truyền thống yêu nước. Từ văn hóa dân gian đến văn hóa bác
học, từ những nhân vật trong truyền thuyết đến các tên tuổi sáng ngời trong lịch sử như:
Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi... đều đã phản ánh chân lý đó là
một cách hùng hồn. Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch
sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hóa - tinh thần Việt Nam.
Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài khi du nhập vào Việt Nam đều được
người Việt Nam tiếp nhận qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó.
Truyền thống nhân nghĩa đoàn kết, tương thân, tương ái, “lá lành đùm lá rách”
trong những hoạn nạn, khó khăn. Truyền thống này cũng hình thành cùng một lúc với
sự hình thành dân tộc, xuất phát từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên
nhiên và với giặc ngoại xâm. Người Việt Nam quen sống với nhau trong tình làng
nghĩa xóm, tắt lửa tối đèn có nhau. Bước sang thế kỉ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã
có sự phân hóa về giai cấp, truyền thống này vẫn còn rất bền vững. Hồ Chí Minh đã
chú ý kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, Người nhấn mạnh bốn
chữ “đồng”: đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh.
Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến

đấu là cơ sở tạo nên một dân tộc ham học hỏi, không ngừng mở rộng cửa đón nhận
tinh hoa văn hóa của nhân loại, từ Nho, Phật, Lão của phương Đông đến tư tưởng văn
hóa hiện đại phương Tây. Nhờ vị trí địa lý thuận lợi, ở giữa đầu mối của sự giao lưu

10


văn hóa Bắc - Nam và Đông - Tây, người Việt Nam từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp
hòi, thủ cựu, thói bài ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân
dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người
thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn
của truyền thống đó.
Truyền thống tôn sư trọng đạo. Truyền thống này đã thấm vào nhận thức, tình
cảm, trở thành triết lý sống từ đó định hướng cho những hành vi cụ thể của người Việt
Nam qua các thế hệ. Tôn vinh người thầy giáo, nhân dân ta nhận thức một cách sâu sắc
rằng để trở thành những người có ích, đóng góp cho quê hương đất nước thì phải được
dạy dỗ học hành. Lịch sử Việt Nam còn mãi mãi ghi ơn những người thầy đã có công
đào tạo cho đất nước nhiều trí thức. Người thầy được xã hội tôn vinh ở hàng quan
trọng thứ nhì trong xã hội, trước hết là vua, rồi đến thầy giáo, sau mới đến cha mẹ.
Truyền thống lạc quan, yêu đời trong muôn nguy, ngàn khó, người lao động vẫn
động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Tinh thần lạc quan đó có cơ sở từ
niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính
nghĩa, dù trước mặt còn đầy gian truân, khổ ải phải chịu đựng, vượt qua.
Đạo đức Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những
tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây. Xuất thân
trong gia đình khoa bảng, ngay từ nhỏ Hồ Chí Minh đã được tiếp thu một nền Hán học
khá vững vàng. Khi ra nước ngoài, Người đã không ngừng làm giàu trí tuệ mình bằng
ý chí vượt lên trên mọi khó khăn để tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Vì vậy,
trong lúc đấu tranh Hồ Chí Minh vẫn có thể viết văn bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, sắc
sảo như một nhà báo phương Tây thực thụ, nhưng khi có nhu cầu “tự bạch” thì Người

lại làm thơ bằng chữ Hán. Chính điều đó làm nên nét đặc sắc của Hồ Chí Minh, con
người tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa của văn hóa, đạo đức Đông - Tây.
Khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyên Tất Thành đã được dân tộc, quê hương và gia
đình trang bị cho một vốn học vấn chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo, giúp Người
phân tích, tổng kết các phong trào yêu nước chống Pháp từ cuối thế kỷ XIX sang đầu
thế kỷ XX ở Việt Nam một cách khoa học. Có thể mục đích, tôn chỉ, hình thức, biện
pháp của các phong trào ấy khác nhau nhưng cũng vẫn chỉ xoay quanh hai đường lối:
quân chủ hay dân chủ, hai phương pháp: cách mạng hay cải lương. Cả hai đường lối
và phương pháp này đều không thoả mãn được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều

11


kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới. Trong bài “Con đường dẫn
tôi đến chủ nghĩa Lênin” Hồ Chí Minh đã cắt nghĩa một cách chân thành và giản dị
quá trình đến với chủ nghĩa Mác - Lênin của mình: “lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách
mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên... Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một
người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình. Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp
chẳng qua là vì các “ông bà” ấy - (hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế) để tỏ
đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì,
công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu”.
Những nhân tố nào đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin,
trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường,
sáng suốt trong việc nghiên cứu tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản hiện đại. Đó là sự
khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, kinh nghiệm
đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế. Cuối cùng,
đó là tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sĩ nhiệt thành cách mạng, một trái tim
yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng những
hy sinh cao nhất vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào. Trong
những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thiện cho mình một

vốn văn hoá, vốn chính trị và vốn sống thực tiễn phong phú, tạo thành một bản lĩnh trí
tuệ mà không một nhà cách mạng trẻ tuổi Việt Nam nào vào thời kỳ đó có thể so sánh
được. Bản lĩnh đó đã nâng cao khả năng độc lập, tự chủ và sáng tạo khi tiếp thu và vận
dụng chủ nghĩa Mác - Lênin để không rơi vào sao chép, giáo điều, rập khuôn mà biết
tiếp thu và vận dụng có chọn lọc những nguyên lý phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện
cụ thể của Việt Nam.
Tác động biện chứng của mối quan hệ giữa cá nhân với dân tộc và thời đại đã
đưa Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhờ có thế giới quan và phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thụ và chuyển hoá
được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống đạo đức dân tộc cũng như của
văn hoá và đạo đức tiến bộ của nhân loại để hình thành đạo đức cách mạng Hồ Chí
Minh. Tiến sĩ M. Atmet (Modagat Ahmed), Giám đốc UNESCO khu vực Châu Á Thái Bình Dương, đại diện đặc biệt của Tổng giám đốc UNESCO đã đánh giá Hồ Chí
Minh là một nhân vật vĩ đại đã cống hiến trọn đời mình cho sứ mệnh tự do và độc lập,
trong cuộc Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc,

12


nhà văn hoá lớn đã được tổ chức trọng thể tại Hà Nội trong hai ngày 29 và 30 tháng 3
năm 1990. Ông nói: Hồ Chí Minh đã thành công trong việc liên kết nhiều sắc thái văn
hoá vào một nền văn hoá Việt Nam duy nhất. Người đã làm được việc này nhờ sự hiểu
biết sâu sắc và tôn trọng những đặc điểm văn hoá khác nhau. Người đã hoàn thành
được nhiệm vụ này, và trong việc làm và lời nói của Người, ta có thể nhìn rõ hình ảnh,
tư tưởng của nhà thơ, nhà văn, nhà nghệ sĩ dân ca, những người đem lại nguồn cảm
xúc cho nhiều thế hệ nhân dân Việt Nam. Cuộc đời của Người mang ảnh hưởng của
những giá trị và truyền thống dân tộc, có những đóng góp vào việc tạo nên một nền
văn hoá Việt Nam hiện đại.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức không thể tách rời cuộc
sống con người, nó được bắt nguồn từ tồn tại xã hội, lao động sản xuất và từ cuộc đấu
tranh chống thiên nhiên của con người. Vì vậy, sự phát sinh, phát triển của đạo đức

được quy định bởi sự phát sinh, phát triển của tồn tại xã hội của con người. Với ý
nghĩa đó, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không phải là cái đã có sẵn, không phải là
trên trời sa xuống, mà là sự phản ánh hoàn cảnh kinh tế xã hội của đất nước, là sản
phẩm của thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thông
qua nhận thức và hành động của bản thân Hồ Chí Minh. Trong khi khẳng định nguồn
gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là ở thực tiễn cách mạng Việt Nam, chúng ta
không thể bỏ qua tính độc lập tương đối của đạo đức, sự kế thừa truyền thống đạo đức
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa tư tưởng đạo đức của nhân loại.
Tóm lại, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, mà điểm nổi bật nhất là truyền thống yêu
nước, lòng yêu thương con người...với tinh hoa đạo đức nhân loại, trong đó đạo đức
của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ bản, thông qua nhận thức Hồ Chí Minh để tạo nên hệ
thống đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đúng như Helen Tuốc - mêrơ viết: “Hồ Chí
Minh là hình ảnh hoàn chỉnh của sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của
Chúa, triết học của Các Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của người chủ
gia tộc - tất cả đều hòa hợp trong một dáng dấp tự nhiên”.
1.2.2. Nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Một là: Trung với nước hiếu với dân
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông,
được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.

13


Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát
triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu”. Nước là của
dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân dân, “bao
nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.
Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước vừa là người lãnh đạo vừa
là người đầy tớ trung thành của nhân dân.

Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng.
Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với
nhân dân”, hơn nữa phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân” [16;480].
Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy
dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí, làm cho Đảng hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất
nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan điểm của
Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất nước.
Hai là: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất
trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của cong người,
như trời có bốn mùa xuân, như đất có bốn phương và Người giải thích rõ ràng.
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, lao động có
năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại,
không dựa dẫm. Phải thấy rõ lao động là nghĩa vụ thiêng liêng là nguồn sống, nguồn
hạnh phúc của mỗi chúng ta.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của
nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ không xa xỉ, không hoang phí,
không bừa bãi, không phô trương, hình thức.
Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác.
Liêm là trong sạch, là luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân, không xâm
phạm một đồng xu, một hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân, không tham địa vị,
không tham tiền tài...không tâng bốc mình.

14


Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình thì không

tự cao, tự đại, đối với người thì không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc,
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên
trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, việc
thiện dù nhỏ đến mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ đến mấy cũng tránh.
Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ thi hành công vụ khi thi hành công
vụ.
Chí công là rất mực công bằng, công tâm, vô tư là không được có lòng riêng,
thiên tư, thiên vị tư ân, tư huệ hoặc tư thù, tư oán, đem lòng chí công vô tư với người,
với việc. Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” [16;568]. Muốn chí công vô tư
thì phải chiến thắng chủ nghĩa cá nhân.
Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người giữ cán công lý, không được vì
lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô tư. Cần,
kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì
nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Ba là: Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền
thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo
đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá
nhân trong quan hệ xã hội.
Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình yêu thương với đại đa số
nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị
áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh của
mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành.
Yêu thương con người là phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm
khắc, với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng cao con người lên, kể cả với
những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.


15


Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì
Vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy
ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
Yêu thương con người là phải biết và dám dấn thân để đấu tranh để giải phóng
con người.
Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin để yêu thương nhau hơn. Người viết: Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải
sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu ánh sáng mà sống không có tình
có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được.
Bốn là: Tinh thần quốc tế trong sáng
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan
niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là
người Việt Nam nhất đồng thời là nhà văn hoá kiệt xuất của thế giới, anh hùng giải
phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể
hiện trong các điểm sau:
Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải
phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột.
Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung,
bốn phương vô sản đều là anh em
Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân
chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa
sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc...
1.2.3. Nội dung giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên sư phạm
trường Đại học Tây Bắc

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem thanh niên là lực lượng nòng cốt của đất nước,
là người chủ tương lai của nước nhà. Người luôn có niềm tin lớn lao vào thế hệ thanh
niên và thấy được khả năng sáng tạo to lớn của họ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. Người nhấn mạnh thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật
vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, phần lớn là do thanh niên. Xuất phát từ
thực tiễn của quá trình dựng nước và giữ nước, Người khẳng đinh: “một năm khởi đầu

16


từ mùa Xuân. Một đời khởi đầu tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” [13, tr. 167].
Người nhận thấy thanh niên là lực lượng hùng hậu dũng cảm, có ưu thế nổi trội, trẻ
khoẻ, chiếm số đông trong xã hội. Hơn nữa, tuổi trẻ phải là lực lượng xung kích trên
các mặt trận để bảo vệ cho sự bình an của Tổ quốc, phải giành được chủ quyền đất
nước, họ phải là đầu tàu cho mọi hành động, đặc biệt là phong trào cách mạng.
Chính vì vậy mà việc giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên là vô cùng
quan trọng nên chúng tôi chọn những nội dung sau để giáo dục đạo đức cho sinh viên
sư phạm trường Đại học Tây Bắc:
Một là: Giáo dục phẩm chất trung với nước, hiếu với dân
Đây chính là phẩm chất bao trùm nhất, quan trọng nhất đối với thanh niên, sinh
viên Việt Nam trong đó có sinh viên sư phạm trường Đại học Tây. Khái niệm trung,
hiếu đã có trong nội dung giáo dục đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam và phương
Đông, là chuẩn mực đạo đức phong kiến và Nho giáo đề ra. Quan niệm Trung của Nho
giáo là trung với vua, bó hẹp trong phạm vi quan hệ vua tôi, phải hết lòng thờ vua
trong bất kỳ hoàn cảnh điều kiện nào. Hiếu là hiếu với cha mẹ, phải kính trọng thương
yêu và hết lòng phụng dưỡng cha mẹ mong đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục.
Khái niệm trung hiếu đã được Hồ Chí Minh nâng cao, phát triển với ý nghĩa
mới, mang tính giai cấp công nhân sâu sắc để giáo dục thanh niên. Trung với nước,
hiếu với dân trước hết phải có tinh thần yêu nước nồng nàn, phấn đấu hi sinh vì lợi ích
của quốc gia, dân tộc, làm sao cho dân giàu, nước mạnh. Đối với sinh viên sư phạm

Trường Đại học Tây Bắc, trung với nước, hiếu với dân trước hết phải yêu Tổ quốc,
yêu nhân dân. Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân không phải là lý thuyết, siêu hình mà được
thể hiện cụ thể, thiết thực trong học tập, tu dưỡng, trong mọi hoạt động cuộc sống
thường ngày. Sinh viên phải tích cực trau dồi kiến thức, học tập những tấm gương
sáng trong học tập chủ động rèn luyện tu dưỡng đạo đức trong sáng có lòng yêu nước
sâu sắc không ngừng phấn đấu vươn lên trong học tập và trong cuộc sống. Chính
những phẩm chất đó đòi hỏi mỗi sinh viên cần phải tham gia vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước.
Hai là: Giáo dục phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiêm, liêm, chính là những khái niệm đạo đức phương Đông và đạo đức
truyền thống Việt Nam đã được Hồ Chí Minh sử dụng. Người đã giữ lại những gì tốt
đẹp của quá khứ và đưa vào những nội dung mới, cách mạng mà vẫn đúng với ý nghĩa

17


ban đầu của khái niệm đó. Hồ Chí Minh thường xuyên kêu gọi giáo dục mọi người
thực hiện cần, kiệm, liêm, chính và Người đã giải thích rất rõ, cụ thể, dễ hiểu đối với
mọi người.
Đối với thanh niên, sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc đó là tinh thần,
thái độ siêng năng, chăm chỉ, phải có kế hoạch sáng tạo, không nên hao tổn lãng phí
thời giờ. Nhiệm vụ trung tâm chính trị là học tập để nắm vững chuyên môn nghiệp vụ,
nắm bắt khoa học kỹ thuật. Vì vậy mỗi sinh viên phải khắc phục khó khăn, chịu khó
học tập, học hỏi để không ngừng tiến bộ.
Cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô tư là gốc quan trọng của đạo đức cách
mạng, con người Việt Nam, cũng là gốc cách mạng của thanh niên. Hồ Chí Minh chỉ
rõ:
“Trời có 4 mùa: Xuân, hạ, thu, đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính

Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người” [9, tr. 37].
Như vậy, việc giáo dục phẩm chất cao quý: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư yêu cầu người sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc phải luôn trau dồi đạo
đức cách mạng, khiêm tốn, chống kiêu căng tự mãn, chống lãng phí xa hoa, cần kiệm
trong lao động, học tập, công tác. Thực hành tự phê bình và phê bình thẳng thắn để
giúp nhau cùng tiến bộ.
Ba là: Giáo dục tinh thần trách nhiệm, tinh thần tập thể, tinh thần đấu tranh
chống lại chủ nghĩa cá nhân
Đây là điều cực kỳ quan trọng đối với sinh viên sư phạm trường Đại học Tây
Bắc vì nếu sinh viên không tự giác giáo dục, rèn luyện, đặt lợi ích tập thể lên trên lợi
ích cá nhân thì cá nhân chủ nghĩa có cơ hôi trỗi dậy. Bởi vì chủ nghĩa cá nhân lợi mình
hại người, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật và những tính xấu khác là kẻ địch nguy hiểm
của chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên
lợi ích cá nhân, mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của
bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của
tập thể thì không phải là xấu. Nhưng lại phải thấy rằng chỉ ở trong chế độ xã hội chủ

18


nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy
tính cách riêng và sở trường riêng của mình. Lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích
của tập thể. Nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng
đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của tập thể. Vì vậy đòi
hỏi mỗi sinh viên sư phạm phải tự giáo dục, rèn luyện nâng cao nhận thức, hoàn thiện
thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản. Tự tu dưỡng đạo đức, giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa lợi ích của mình với lợi ích xã hội, phải biết làm cho lợi ích cá nhân và
lợi ích của xã hội phát triển hài hoà.

Bốn là: Giáo dục đạo đức cách mạng, niềm tin đối với sự nghiệp cách mạng do
Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là nhân tố
quyết định, là người chèo lái đưa con thuyền cách mạng Việt Nam giành thắng lợi, là
người giáo dục, dìu dắt, rèn luyện và tạo điều kiện cho sinh viên học tập, tu dưỡng,
phấn đấu và thể hiện tài năng của mình, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng.
Thanh niên là lớp người trẻ tuổi đang phát triển để hoàn thiện nhân cách. Thanh
niên khao khát lý tưởng và hành động thực hiện lý tưởng, hướng tới các giá trị xã hội,
nhưng lại chưa đủ kinh nghiệm và sự từng trải để có cách suy xét đánh giá các giá trị,
lựa chọn giá trị theo chỉ dẫn sáng suốt của lý trí. Vì thế, thanh niên rất cần đến những
tác động của giáo dục xã hội để định hướng cho họ thực hiện lý tưởng mà Đảng và dân
tộc ta đã lựa chon. Lý tưởng cách mạng mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho thanh
niên là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội toàn thắng trên
đất nước ta và trên thế giới. Theo Hồ Chí Minh, có giác ngộ lý tưởng mới giúp thanh
niên hiểu lý tưởng đó là cao đẹp như thế nào, thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc
thực hiện lý tưởng. Với nghĩa đó, giác ngộ lý tưởng cách mạng chính là giáo dục cho
thanh niên lý tưởng sống và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Song song với giáo dục lý tưởng, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu phải bồi dưỡng
chí khí cách mạng cho thanh niên. Đó chính là ý chí, nghị lực, khí phách, khí tiết của
người cách mạng, là tính kiên trì, nhẫn nại, vượt khó. Không có chí khí cách mạng thì
thanh niên không thể vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, mất mát trên con
đường cách mạng để thực hiện lý tưởng. Như vậy thì cũng không thể trở thành một
người tận trung với nước, hiếu với dân được.

19


Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thanh niên không ngừng học tập, nâng cao
hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng. Phấn đấu
vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc, luôn đặt lợi ích

chung lên lợi ích cá nhân, hết sức đấu tranh cho chủ nghĩa cộng sản, cho giai cấp công
nhân và cho toàn thể nhân dân lao động. Đó là tinh thần không sợ gian khổ, hi sinh:
“Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”; hăng hái xung phong gương mẫu
trong công tác, trong học hỏi, tiến bộ, trong đạo đức cách mạng. Thanh niên trở thành
một trong những nguồn nội lực to lớn cho sự phát triển nhanh và bền vững, sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân
giao phó.
Năm là: giáo dục thái độ tận tụy phục vụ cho tổ quốc và nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên không phải nói
những điều chung chung, thuyết giáo về đạo đức; không phải chỉ dừng lại ở tu thân,
dưỡng tính, vì lợi ích cá nhân mà đạo đức phải được thể hiện trong hành động, việc
làm cụ thể. Hồ Chí Minh đòi hỏi thanh niên phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà,
chứ không phải hỏi nước nhà đã cho mình những gì ? Hồ chí Minh nói tới đạo đức là
nói tới phẩm chất của con người trong hoạt động, coi đó là những điều kiện tinh thần
cần thiết để đưa hoạt động đến kết quả cuối cùng. Đạo đức nảy sinh từ hoạt động thực
tiễn, trong học tập, lao động, trong sinh hoạt hàng ngày... Đó là điều kiện để rèn luyện
đạo đức. Chỉ có hoạt động trong thực tiễn thanh niên mới tự thể nghiệm mình, hình
thành dần những phẩm chất đạo đức cần thiết.
1.3. Tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh
1.3.1. Vị trí, vai trò của sinh viên hiện nay
Để thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước do Đảng lãnh
đạo, nhằm xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng trở nên giàu đẹp thì chúng ta cần có
nguồn lực con người vững mạnh, đó phải là những con người mới, những con người
phát triển toàn diện về mọi mặt, trong đó đức là gốc, là nền tảng hữu ích để giúp mình,
giúp nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: có đức mà không có tài thì không có đủ
năng lực điều hành công việc. Có tài mà không có đức dẫn tới hỏng việc, có hại cho
cách mạng. Với chiến lược phát triển toàn diện phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, các thế hệ trẻ Việt Nam là đối tượng cần phải chú ý đầu tiên, bởi lẽ, họ “là


20


người chủ tương lai của nước nhà” và “muốn hồi sinh dân tộc. Trước hết phải hồi sinh
thanh niên”, trong đó đội ngũ sinh viên có vai trò hết sức quan trọng.
Tại Hội nghị Trung ương bảy, khoá X, Đảng ta xác định: “thanh niên là lực
lượng xã hội to lớn, là một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận
mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm công việc đòi hỏi
hi sinh, gian khổ, sức khoẻ và sáng tạo” [7, tr.35], trong đó có sinh viên.
Sinh viên là một lực lượng xã hội đặc thù, là lực lượng tinh tuý trong thanh
niên. Thực tiễn cách mạng Việt Nam chỉ cho chúng ta thấy rằng, sinh viên là những
người gắn bó với phong trào cách mạng của Đảng bằng nhiệt huyết, bằng lương tâm,
bằng chính những phẩm chất của mình. Tổ chức sinh viên yêu nước cũng đã thành lập
từ rất sớm. Ngoài ra, có thể kể đến ở đây phong trào sinh viên tình nguyện hiện nay đã
chứng minh được mình luôn là lực lượng xã hội đặc biệt. Với họ, sức sống của tuổi trẻ,
tri thức khoa học, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức luôn gắn bó chặt chẽ với
nhau. Mặt khác, sinh viên còn là lực lượng dự bị cho đội ngũ trí thức của đất nước và
khi họ trở thành những trí thức thì sự đóng góp của họ cho đất nước càng to lớn, càng
có ý nghĩa hơn. Trong thư “Gửi Đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa”,
Ph.Ăngghen viết rằng: Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức được rằng giai
cấp vô sản lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên. Tại Hội nghị
Trung ương bảy, khoá X Đảng ta khẳng định: “Trong mọi thời đại, trí thức luôn là nền
tảng xã hội, đội ngũ tri thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Bằng
hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc” [7, tr.81-82].
Thực tiễn chỉ cho chúng ta thấy rằng, muốn có đội ngũ trí thức thì không thể
không thông qua đào tạo cơ bản được. Bước đầu tiên để xây dựng, đào tạo đội ngũ trí
thức tương lai là đào tạo họ trong trường đại học, cao đẳng. Với sinh viên, những ngày
họ học ở trường là quá trình tích luỹ tri thức cơ bản, kỹ năng, kỹ xảo, phương pháp tư
duy của nghề nghiệp để tiếp tục đi sâu hơn vào sự nghiệp khoa học sau này. Vì vậy, hơn

bao giờ hết, vấn đề xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ sinh viên ngày càng trở nên cấp
thiết. Đạo đức giúp họ ý thức được trách nhiệm của tuổi trẻ với đất nước, biết sống vì
mọi người, giúp cho họ đủ nghị lực tránh xa những cám dỗ của cuộc sống đời thường,
tăng cường ý chí vượt qua những khó khăn trong quá trình học tập tu dưỡng bản thân,
sống có trách nhiệm với mình và với cộng đồng. Ở đây, đạo đức là động lực, là sức

21


×